Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi tại trường mầm non thị trấn triệu sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON
THỊ TRẤN TRIỆU SƠN”

Họ tên: Nguyễn Thị Châm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn
Sáng kiến thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi
tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5
tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.2. Thực trạng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5
tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.


2.3. Các biện pháp thực hiện để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 4 - 5 tuổi
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết Luận.
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo.

SỐ TRANG
1
2
2
2
2
3
3
4
6
17
20
20
20


1.MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi tại
Trường Mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói: “Hiền dữ đâu phải là tính
sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [5].
Câu nói đó của Người cho đến nay vẫn luôn đúng. Con người ta nếu được

sống trong một môi trường giáo dục tốt thì sẽ có những đức tính tốt, ngược lại
sống trong một môi trường thiếu giáo dục thì nhân cách con người sẽ phát triển
không tốt.
Thế kỷ XXI là thế kỷ mà nền khoa học và công nghệ phát triển mạnh do
đó con người phải năng động, biết cải tạo thế giới cho phù hợp với sự phát triển
của thời đại. Trang bị vốn kiến thức cho con người để phù hợp với thời đại là
chiến lược của giáo dục hiện đại. Để đạt được mục đích đó đòi hỏi giáo dục nói
chung và giáo dục mầm non nói riêng phải đào tạo thế hệ trẻ phát triển mọi mặt:
đức, trí, thể, mỹ, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Bởi vậy cần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, đổi mới nội dung cũng
như phương pháp, biện pháp dạy học cho khoa học hợp lý.
Trẻ em là tương lai của đất nước. Đất nước có giàu mạnh, phồn vinh là
nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt ngay từ khi
trẻ còn ở độ tuổi mầm non là rất quan trọng và cần thiết. Người giáo viên Mầm
non ngoài việc hướng dẫn cho trẻ vui chơi, cho ăn, cho ngủ, giáo dục trẻ trở
thành những đứa trẻ lễ phép ngoan ngoãn thôi chưa đủ, mà nhiêm vụ của người
giáo viên Mầm non còn phải chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã
hội hiện đại . Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm
giúp trẻ có thể chuyển kiến thức , thái độ , cảm nhận thành những khả năng thực
thụ , giúp trẻ biết xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong
cuộc sống .
Ngay từ khi còn bé trẻ cần được uốn nắn giáo dục từ cử chỉ, lời nói hành
động văn minh lịch sự thì lớn lên trẻ mới là người có ích cho gia đình và xã hội,
trẻ phải biết tu dưỡng bản thân trong ngày, trong giờ học theo hướng tốt, nói lời
hay ý đẹp, đi đứng nhẹ nhàng, cư sử với mọi người niềm nở, lịch sự.
Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có
kỹ năng cuộc sống ( Bao gồm rất nhiều kỹ năng ) và biết sử dụng linh hoạt kỹ
năng này thì không đảm bảo cá nhân đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý,
giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt với mọi người. Kỹ năng sống chính

là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và đối phó những yêu cầu và thách thức
trong cuộc sống hàng ngày.
Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng
giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách
ứng xử phù hợp và biết tự cách giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập rất
quan trong đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy kỹ năng sống cho
trẻ phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi mầm non vô cùng cần thiết và đó cũng
1


là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học.
Kỹ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp ứng
xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác
chia sẻ.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của
người lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn
trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết
những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Muốn vậy, người lớn phải tạo
cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành. Nhưng trên thực tế, trong xã
hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà
không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm
hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng
trong cuộc sống rất hạn chế. Khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ
xảy ra. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài:“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tại Trường Mầm non Thị Trấn Triệu Sơn’’để
viết sáng kiến kinh nghiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua đề tài này tôi muốn cùng bạn bè, đồng nghiệp trao đổi để cùng
nhau học hỏi những kinh nghiệm hay, phong phú nhằm tìm hiểu thực trạng hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ và vận dụng một số biện pháp

để thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu các biện pháp nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu
giáo nhỡ B2 trường Mầm non Thị Trấn, thông qua đề tài này tạo cho trẻ sự mạnh
dạn, tự tin, có khả năng giao tiếp tốt, có những kĩ năng sống cơ bản như có sự
hợp tác, tự kiểm tra, tính tự lập, tò mò, biết chia sẽ, chăm sóc, lắng nghe, trình
bày và diễn đạt được ý của mình trong nhóm bạn từ đó phát triển toàn diện nhân
cách.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Với đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp như:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng lí thuyết
- Phương pháp điều tra và khảo sát thực tế nhóm lớp
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp vận dụng thực tiễn
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp xử lý số liệu

2


2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4-5
tuổi tại Trường Mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là khả năng để có hành
vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử
hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày
Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách tiếp
cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Theo UNESCO, kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học

để biết, gồm các kỹ năng tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra
quyết định, nhận thức được hậu quả; Học làm người gồm các kỹ năng cá nhân
như: ứng phó với căng thẳng, cảm xúc, tự nhận thức, tự tin; Học để sống với
người khác, gồm các kỹ năng xã hội như; giao tiếp, thương lượng, tự khẳng
định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm, gồm kỹ
năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận
trách nhiệm.
Khi bắt đầu đến trường, trẻ xuất hiện tình trạng rụt rè, nhút nhát thụ động,
không biết cách ứng phó với những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo
vệ bản thân trước nguy hiểm. Từ thực tế trên Bộ Giáo dục và Đào tạo thống nhất
quan điểm của UNICEF: Kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình
thành hành vi mới. (Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến
thức, hình thành thái độ và kỹ năng). Các nhóm kỹ năng sống có thể dạy cho trẻ
em tuổi Mầm non: Nhóm kỹ năng chăm sóc bản thân; nhóm kỹ năng quản lý
cảm xúc; nhóm kỹ năng giao tiếp; nhóm kỹ năng đảm nhận trách nhiệm; nhóm
kỹ năng lãnh đạo. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một bộ phận quan trọng
trong việc giáo dục toàn diện và hình thành nhân cách.
Trong thời điểm hiện nay nền kinh tế phát triển đang trên đường hội nhập
Quốc tế, chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Trẻ thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động... thế hệ trẻ thường xuyên
chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào
hoàn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn,
thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu thiếu kỹ năng sống, các em dễ bị lôi kéo
vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, và lối sống ích kĩ, thực dụng, dễ bị phát triển
lệch lạc về nhân cách . Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ
vững được nền văn hóa của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời
đại mới là nhiệm vụ cần thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con
người toàn diện trong thời đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con
người tài đức vẹn toàn. Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non là ta nhằm giúp trẻ
có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên

làm. Đối với trẻ mầm non, rèn kỹ năng sống cho trẻ là rèn kỹ năng ứng xử hợp
lý các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc sinh hoạt theo
nhóm, rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe. Và điều quan trọng mà
3


chúng ta mong muốn là sẽ giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử
thách mới qua việc phát triển các kỹ năng cho trẻ. Nếu chỉ suy ngẫm và trò
chuyện thôi thì chưa đủ, cần có các kỹ năng ứng dụng vào thực tế. Ngày nay trẻ
cần được trải nghiệm, hiểu kết quả của hành vi ứng xử và muốn chủ động đưa ra
những quyết định có sức ảnh hưởng lớn.
Ngày nay khi xã hội phát triển, trình độ tri thức của trẻ được nâng lên gấp
bội, nhưng bên cạnh đó kỹ năng sống của trẻ dường như bị bỏ quên. Điều này
càng thể hiện rõ đối với trẻ ở thành thị, những vùng kinh tế phát triển. Chúng ta
dễ dàng bắt gặp trẻ 4-5 tuổi vẫn còn được mẹ chăm sóc từng ly từng tí: từ việc
vệ sinh cá nhân, mặc quần áo đến việc xúc ăn…những việc làm này vô tình sẽ
làm mất dần kỹ năng sống ở trẻ.
Đối với trẻ nhỏ tư duy của trẻ chủ yếu là trực quan hình tượng, trẻ luôn
bắt chước những hành vi, hành động của người lớn. Chính vì vậy những hành vi,
hành động của người lớn đều ảnh hưởng rất lớn đến trẻ. Để trẻ có được những
thói quen hành vi văn minh lịch sự, những kỹ năng sống đơn giản nhất trong
cuộc sống hàng ngày thì người lớn cần là tấm gương sáng cho trẻ noi theo, đặc
biệt là cô giáo - người mà trẻ luôn nghe lời và luôn xem cô là điểm sáng để học
tập theo.
Như vậy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một hoạt động giữ vị trí quan
trọng trong các hoạt động ở trường mầm non, nó có ý nghĩa, tác dụng lớn đối
với sự phát triển toàn diện của trẻ, góp phần hình thành nhân cách của trẻ. Chính
vì thế là một giáo viên mầm non tôi muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
2.2. Thực trạng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 – 5

tuổi tại Trường Mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.2.1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của ban giám hiệu luôn chỉ đạo sát sao với công tác
chuyên môn. Luôn có sự đầu tư và bồi dưỡng cho chuyên môn.
- Công đoàn phối hợp cùng chuyên môn tổ chức “Hội thảo kỹ năng sống
cho trẻ mầm non”. Đây cũng là một điều kiện thuận lợi để giáo viên học hỏi
kinh nghiệm trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Ban giám hiệu luôn tạo mọi điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất, các
phương tiện dạy học.
- Trường đóng trên địa bàn Thị Trấn với phòng lớp rộng rãi, thoáng mát.
Lại là trường trọng điểm của huyện nên được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao về
chuyên môn.
- Trẻ lớp tôi phụ trách có 30 cháu trong đó có16 trẻ nam và 14 trẻ nữ, các
trẻ đều cùng độ tuổi, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, tò mò ham hiểu biết.
- Bản thân tôi luôn yêu nghề mến trẻ, luôn học hỏi, tìm tòi, tìm ra những
biện pháp giáo dục tốt nhất cho trẻ.
- Từ năm 2008 Bộ Giáo dục và đào tạo đã phát động phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” với những biện pháp cụ thể
để rèn kỹ năng sống cho trẻ một cách chung nhất.
4


- Đa số trẻ đã học qua lớp mẫu giáo bé nên đã có kiến thức và kỹ năng
nhất định. Trẻ mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung
quanh trẻ.
2.2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những mặt thuận lợi trên còn có những khó khăn:
- Mặc dù cùng độ tuổi nhưng một số trẻ mới đi học chưa qua lớp mẫu giáo
bé nên khó khăn cho cô trong quá trình chăm sóc giáo dục.
- Một số phụ huynh bận rộn, ít có thời gian quan tâm đến việc dạy các kỹ

năng đơn giản cho trẻ, đôi khi phó mặc cho cô.
- Một số trẻ được bố mẹ, ông bà cưng chiều và khi hành động sai vẫn
không được sự nhắc nhở từ cha mẹ, những công việc cá nhân vẫn luôn phụ
thuộc, chính vì vậy việc bồi dưỡng hành vi văn minh lịch sự đối với trẻ là vấn đề
giáo dục mà gia đình không thể coi nhẹ ngay khi trẻ còn nhỏ tuổi.
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng sống của trẻ tại lớp
4 – 5 tuổi - B2 Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn với sĩ số 30 cháu, cụ thể
như sau:

TT

Nội dung khảo sát

1

Mạnh dạn, tự tin

2

Kỹ năng hợp tác

3

Kỹ năng nhận thức

4

Kỹ năng tự phục vụ

5


Kỹ năng giao tiếp lịch sự,
lễ phép

6

Kỹ năng bảo vệ bản thân

7

Kỹ năng tuân thủ các quy
tắc xã hội
Kỹ năng thích nghi với
môi trường sống

8

Số
trẻ
KS

Kết quả
Đạt
(Tỷ lệ
Số trẻ
%)

Chưa đạt
(Tỷ lệ
Số trẻ

%)

30

13

43,3%

17

56,7%

30

12

40%

18

60%

30

11

36,7%

19


63,3%

30

14

46,7%

16

53,3%

30

10

33,3%

20

66,7%

30

10

33,3%

20


66,7%

30

11

36,7%

19

63,3%

30

16

53,3%

14

46,7%

Trước thực trạng trên tôi suy nghĩ, nghiên cứu tài liệu để tìm ra các biện
pháp hay dạy trẻ có kỹ năng sống qua đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi ở Trường Mầm non Thị Trấn Triệu
Sơn”.
5


2.3. Các biện pháp thực hiện để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu

giáo 4 - 5 tuổi tại Trường Mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.3.1. Tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Việc xây dựng môi trường giáo dục rất quan trọng, góp phần thực hiện đạt
các chỉ tiêu kế hoạch đề ra của lớp. Tôi đã chú trọng đến công tác xây dựng môi
trường nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Trước lớp học có góc tuyên truyền các bậc cha mẹ với tiêu đề “Phụ
huynh cần biết” trong đó gồm có các nội dung như: Danh sách trẻ, Kết quả theo
dõi cân đo hàng tháng, định kỳ, kết quả khám sức khỏe, các nội dung tuyên
truyền về dịch bệnh, về giáo dục kỹ năng sống theo chủ đề... Các nội dung được
trang trí đẹp mắt và nổi bật gây được sự chú ý của các bậc phụ huynh khi đưa
đón trẻ.
Trong lớp, trang trí các góc mở cho trẻ được trải nghiệm và hoạt động.
Ví dụ: Mảng tường trên lớp tôi trang trí các hình ảnh làm nổi bật chủ đề,
bên cạnh đó có mảng tường được cắt bằng các ô bóng kính cho trẻ tự ghép các
hình ảnh vào... Góc mừng sinh nhật bé, tôi trang trí các hoạ tiết biểu tượng từng
tháng và cho trẻ có sinh nhật trong tháng đó tự ghép ảnh của mình vào...

Góc mở cho trẻ hoạt động và tuyên truyền với cha mẹ trẻ
Tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ vào cuối chủ đề của lớp, tổ chức
giao lưu các lớp với nhau, tổ chức mừng sinh nhật một nhóm trẻ ... Qua đó trẻ
rất hứng thú và thông qua các hoạt động đó nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
một cách rất nhẹ nhàng và có hiệu quả.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua việc tạo tình huống cụ thể
Để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đạt kết quả tốt giáo viên cần nắm vững
được đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ, thường xuyên cho trẻ trải nghiệm thực
hành để trẻ có những thói quen tốt, vận dụng linh hoạt các biện pháp đối với
từng cá nhân trẻ, trao đổi gợi mở với trẻ bằng hệ thống câu hỏi gắn với từng nội
dung cụ thể. Đối với trẻ làm đúng cô dùng lời động viên khuyến khích, khen
6



ngợi những hành vi tốt, với những hành vi chưa tốt cô cần nhắc nhở kịp thời
nhưng không phải hình thức trách phạt mà dùng lời lẽ ân cần hoặc qua thơ
chuyện giáo dục trẻ [4].
Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an
toàn và cách phòng tránh thì giáo viên thường giáo dục trẻ với những lời dặn dò
nhắc nhở đơn giản thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, bài hát có nội
dung giáo dục dạy trẻ. Song trên thực tế, trong chương trình có rất ít bài hát, bài
thơ, câu chuyện có nội dung đó. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa
chọn và đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp
tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết .
Ví dụ: Với chủ điểm “Bản thân”.
Trước đây, thông qua câu chuyện“Chú vịt xám” hoặc nội dung bài hát
“Đàn vịt con” [1] chúng tôi chỉ dùng lời giáo dục trẻ: “Khi đi công viên hoặc
đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không được chạy lung tung để
khỏi bị lạc” chứ chưa dạy trẻ nếu chẳng may xảy ra sẽ phải xử lý như thế nào.
Với cách giáo dục như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu
quả. Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thường chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ
không hiểu cốt lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì
phải làm thế nào. Do đó bây giờ ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động
chiều, tôi đã đưa ra tình huống “Khi bé bị lạc mẹ trong siêu thị hoặc đi chợ Tết bé sẽ làm gì ?
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi
mở cho trẻ bằng các câu hỏi :
Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó, cô giúp trẻ rút ra
phương án tối ưu nhất: Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung
tung mà hãy đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm bé. Hoặc
bé có thể đến chỗ chú bảo vệ, cô bán hàng trong siêu thị ở gần chỗ đó để nhờ
gọi điện thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối không đi theo
người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là kẻ xấu lợi

dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc , xâm hại ... Tôi đã đưa ra những tình huống
để dạy trẻ như : “Nếu có người không quen biết cho bé quà bé nên làm như thế
nào ?
Ở tình huống này, với lứa tuổi của trẻ trên thực tế trẻ rất thích khi được
cho quà và sẽ không biết tại sao không được nhận.
Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả thiết, những tình huống xấu “ Nếu đó là
kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”. Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ
có phương án giải quyết đó là: Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của
người lạ vì có thể bị người xấu tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu.
Khi gặp trường hợp này bé nên nói “Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không
cho nhận quà của người lạ”.
7


Hay tình huống: “Nếu con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở
cửa con sẽ làm gì ?
Tôi cho trẻ nói suy nghĩ , cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận
với trẻ tôi gợi mở: cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé hoặc lấy
trộm đồ của gia đình cũng chính là người thu tiền điện, nước hoặc chính là
người quen biết với bố mẹ bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó
cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất trong trường hợp này: Tuyệt đối không
mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ, người thu tiền điện, nước.
Nếu có người lớn ở trên gác chưa biết thì gọi xuống , còn nếu không có ai ở nhà
thì hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng
cần dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra . Tôi
đã đưa tình huống : “Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế

nào?”
Qua tình huống này tôi dạy trẻ: Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước
hết bé phải chạy xa chỗ cháy, hãy hét to để báo với người nhà và những người
xung quanh có thể nghe thấy. Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng
xóm.
Từ những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ
thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm
cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất,
đó cũng chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ. Thông qua hoạt động đó cũng
giúp trẻ có sự tư duy lôgích, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có
thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua nội dung các câu chuyện.
Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu, cô
giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện,
dành thời gian trò chuyện với trẻ. Nội dung các câu chuyện thường để lại ấn
tượng cho trẻ khó phai mờ. Chính vì vậy tôi đã sử dụng một số câu chuyện lồng
vào đó các tình huống để giáo dục trẻ. Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng
thú, tự nguyện.
Ví dụ: Ở chủ điểm “Nước và mùa hè”.
Với đặc thù trẻ đang sống ở Thị Trấn, vì vậy ngoài việc giáo dục trẻ tránh
xa ao, hồ, hố nước nguy hiểm mà môi trường sống của trẻ ít gặp. Thì nhà vệ
sinh cũng nhiều tình huống có thể gây nguy hiểm cho trẻ. Chính vì vậy, tôi đưa
ra những tình huống để dạy trẻ cách sử dụng an toàn trong phòng tắm bằng cách
đưa vào câu chuyện để trẻ rút ra bài học kinh nghiệm cho mình như “Chuyện
trong phòng tắm”. Qua câu chuyện tôi giúp trẻ rút ra bài học : Sàn nhà tắm rất
trơn, tuyệt đối không chạy nhảy, leo trèo sẽ dễ bị ngã.
Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những tình huống khác đối với trẻ như :
- Không tự ý xả nước ở vòi vì dễ xảy ra bỏng khi sử dụng bình nóng lạnh
- Khi tắm bồn: Chờ người lớn xả nước và giúp vào bồn. Không tự ý xả
8



nước và trèo vào đề phòng nước quá nhiều sẽ nguy hiểm, không nằm bồn tắm
quá lâu ..
- Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, có rất nhiều tình huống bất trắc
trẻ rất dễ gặp trong cuộc sống, tuy nhiên chúng ta ít khi đưa vào dạy trẻ .Với
nền kinh tế phát triển như hiện nay, nhiều gia đình sử dụng ô tô là phương tiện
đi lại của gia đình hàng ngày. Xong việc chấp hành luật lệ an toàn giao thông khi
đi ô tô và xe máy đối với trẻ thường các bậc phụ huynh vẫn còn coi nhẹ chưa
được thực hiện nghiêm túc.
Ví dụ: Với “Chủ điểm giao thông” chúng tôi đưa tình huống cho trẻ qua
câu chuyện: “Đi xe máy” [2], câu chuyện kể về một bạn nhỏ xinh xắn, ngoan
ngoãn biết vâng lời người lớn, rồi một hôm bố trở bạn về thăm bà ngoại, nhà bà
ngoại ở gần nên bố không đội mũ cho bạn và rồi tai nạn xảy ra khi hai bố con
đang nói chuyện vui vẻ trên đường khiến bạn nhỏ vì không có mũ bảo hiểm nên
bị ngã xuống đường và bị thương nặng. Qua đó trẻ hiểu được việc cần thiết phải
đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe máy.
Sau đó nhiều phụ huynh lớp tôi đã chia sẻ: Bản thân phụ huynh cũng ít
khi nhớ cho con đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy đến trường, bởi một phần
vướng, một phần công an thường không phạt trường hợp này nên các phụ huynh
cũng hay bỏ qua. Nhưng gần đây thấy con về cứ đòi bố đội mũ bảo hiểm cho
con mỗi khi đưa con đi chơi, hoặc đi học. Đó thật sự là điều đáng mừng.
Hay để giáo dục tính thật thà, tôi lựa chọn câu chuyện “Cậu bé chăn cừu”
[1] để giáo dục trẻ, qua đó trẻ biết cần phải thật thà, tránh gian dối sẽ làm người
khác không tin ở mình.
2.3.4. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi
Đối với trẻ mầm non, hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt
động của trẻ ở trường. Thông qua giờ chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau
trong xã hội, trẻ đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống.
Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể

hiện qua họat động vui chơi. Chính vì vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình
huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều
trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ đã có.
Ví dụ:
+ Ở góc Phân vai trẻ chơi “Gia đình”, khi tôi đóng giả một người lạ đến
gõ cửa thì trẻ biết nhắc nhau “Đừng mở cửa, phải đợi bố mẹ về đã”.
Hoặc tôi cho trẻ ở nhóm gia đình cùng đi siêu thị và đưa ra tình huống :
“Con bị lạc bố mẹ ở siêu thị” thì trẻ biết ra nhờ cô bán hàng gọi điện thoại cho
bố mẹ, cháu đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: Cháu chờ ở đây với cô đợi
bố mẹ đón.
Với nhóm “Nấu ăn”, tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ thể hiện
vai của mình :
Ví dụ : Khi nấu ăn bác phải làm như thế nào? Khi để nồi lên bếp ga đặt
như thế nào? Vì sao? (Bếp đặt đúng giữa bếp nếu không sẽ dễ đổ và xảy ra tai
nạn, nấu xong phải tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay để không bị bỏng...)
9


Hay khi trẻ chơi Bán hàng:
Người bán hàng chào hỏi khách hàng: Cô, chú mua gì ạ?
Người đi mua hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một cân
gạo, bao nhiêu vậy cô? Hay tôi đóng một vai làm người đi đường và rủ bé : Đi
cùng cô để cô dắt về với mẹ. Các trẻ trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu
không sẽ bị bắt cóc đấy”.
Hoặc với trò chơi “Đi ô tô” tôi gợi hỏi trẻ “Khi ngồi trên xe ô tô chúng
mình phải làm gì?...”. (Phải thắt dây an toàn, không thò đầu, thò tay ra ngoài khi
xe đang chạy ...)
Với Trò chơi đóng vai Y tá – Bác sĩ:
Bác sĩ biết hỏi thăm bệnh nhân ân cần, “Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt
lắm không? ...Y tá phát thuốc dặn dò bệnh nhân uống thuốc.

Bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá.
+ Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở lớp
tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ
chơi của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp.
Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử,
chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi người.
Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao
tiếp lịch sự có phần chuyển biến rất tốt.
Với cách dạy trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau, lúc thông qua nội dung
các bài thơ, bài hát, câu chuyện để lồng vào giáo dục trẻ kỹ năng sống giúp trẻ
ghi nhớ một cách thoải mái, nhớ lâu và không gò bó áp đặt trẻ [4]. Đặc biệt với
hình thức đặt ra các tình huống cho trẻ được đàm thoại, nói lên cách sử lý của
mình sau đó cô sẽ giúp trẻ tổng hợp lại và tìm ra phương pháp tối ưu nhất. Chính
hình thức này giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ.
Với cách thảo luận, mỗi cá nhân đưa ra cách giải quyết cho phù hợp giúp trẻ
biết vận dụng vốn hiểu biết, kiến thức của mình đã có để giải quyết vấn đề. Đó
cũng chính là một kỹ năng sống rất cần thiết cho trẻ trong cuộc sống hiện tại
cũng như sau này.
2.3.5. Lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động
học.
Trong các hoạt động giáo dục trẻ ở trường Mầm non. Hoạt động vui chơi
là một trong những hoạt động chủ đạo, song hoạt động học tập được thể hiện
qua các giờ hoạt động chung có chủ đích đó là hoạt động cung cấp chủ yếu có
hệ thống kiến thức cần trang bị cho trẻ. Vậy tổ chức các tiết học như thế nào để
trẻ lĩnh hội các kiến thức một cách đơn giản nhưng hiệu quả nhất. Muốn làm tốt
được việc này trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, say
sưa suy nghĩ tìm tòi, chu đáo tỉ mỉ, sáng tạo hướng dẫn trẻ tham gia vào hoạt
động một cách có khoa học để trẻ bước đầu nắm bắt, hình thành những kỹ năng
học tập đối với các môn học [3]. Qua đó cô giáo nhẹ nhàng lòng ghép giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ một cách dễ dàng.

Mặt khác, ở Trường Mầm non không có giờ dạy đạo đức riêng, mà thông
10


qua sử dụng hình thức tích hợp với nội dung bài dạy của các lĩnh vực để
hướng trẻ tới cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo.
Ví dụ:
+ Hoạt động phát triển thể chất: Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động,
biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh, trẻ biết trong khi tập không chen
lấn xô đẩy nhau, biết chờ đến lượt...
+ Hoạt động khám phá khoa học:
Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi
Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những
việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn
nói và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
Qua đó trẻ nắm rõ hơn về địa chỉ gia đình mình và gia đình bạn, về các thành
viên trong gia đình.
+ Hoạt động tạo hình: “ Tô màu ngôi nhà của bé”
Cô giáo dục trẻ biết yêu quí ngôi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch sẽ,
sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng...
+ Hoạt động làm quen văn học: Qua câu chuyện “Người bạn tốt”
Cô đàm thoại cùng trẻ:
Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?
Khi Linh gặp nạn thì Trang đã làm gì?
Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ bạn bè, biết nói những
lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.
+ Hoạt động Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”
Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.

Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh
thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, ngôn
từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào
đểtrẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai
trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát
triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống. Dạy kỹ năng sống cho trẻ
không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kết hợp qua các hoạt
động vui chơi của trẻ.
2.3.6. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở các hoạt động khác trong ngày.
Trong các hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường, trẻ dễ được tiếp cận
những gì mà cô giáo, người lớn, bạn bè đã làm. Tổ chức các hoạt động cho trẻ
luyện tập thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ. Ở lứa tuổi mẫu giáo 4-5 tuổi, khả năng tập trung chú ý và ghi nhớ có
chủ định rất kém. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ năng
chúng ta dạy trẻ không được cũng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì
chúng sẽ dần mất đi. Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường
xuyên thì các kỹ năng đó sẽ thành kỹ xảo, phát triển bền vững và không bị lãng
11


quên. Việc tổ chức cho trẻ luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành
thường xuyên và không ngừng sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho
trẻ.
+ Với hoạt động đón trẻ. Tôi tạo cho trẻ thói quen biết chào hỏi lễ phép,
cất ba lô, giầy dép đúng nơi quy đinh. Tôi thường tổ chức hoạt động trò chuyện
cùng trẻ khoảng 15 phút với tên mục là “Chuyện của bé” nhằm phát triển kỹ
năng giao tiếp chotrẻ. Qua hoạt động này trẻ biết tự giới thiệu mình, biết lắng
nghe, biết dùng ngôn ngữ của mình để kể về những chuyện trong 2 ngày nghỉ ở
nhà của bé hay những chuyện hôm qua khi trẻ về nhà hoặc trao đổi cùng cô
về chủ đề đang học.

Kết quả, trẻ lớp tôi rất hứng thú khi tham gia buổi trò chuyện đầu tuần.
Trẻ đã có thói quen trước khi nói biết thưa cô, chào bạn và đặc biệt rất mạnh dạn
tự tin khi kể “chuyện của mình” cho bạn nghe.
+ Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi hình thành ở trẻ thói quen rửa tay
trước khi ăn.

Trẻ rửa tay trước khi ăn
Tôi còn tập cho trẻ làm một số công việc tự phục vụ qua đó hình thành ở
trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng cách và hành vi văn hoá văn
minh như:
- Cách dùng ca, cốc, bát, thìa.
- Cách rót nước, chia thức ăn.
- Chuẩn bị bàn ghế cho bữa ăn ( tự kê bàn ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa,
chia bát…)
- Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống
( Trẻ biết mời cô, mời bạn, biết vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ
sinh chung và hành vi văn hoá như không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải
quay ra ngoài đồng thời lấy tay che miệng, biết nhặt cơm, thức ăn rơi bỏ vào đĩa
và lau tay…)
12


+ Giờ hoạt động ngoài trời, dạo chơi tham qua, tôi đều quan tâm nhắc nhở
trẻ luôn có những ý thức và hành động tốt như biết đoàn kết vui chơi cùng bạn,
trẻ được tham gia các hoạt động chăm sóc cây, cùng nhau nhặt lá rụng, tưới
nước, lau lá cây...Thông qua đó giáo dục trẻ biết yêu quý thiên nhiên, biết cùng
nhau tham gia bảo vệ môi trường...

Trẻ chăm sóc cây
Trẻ tham quan vườn cổ tích và nhặt lá

+ Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy cất gối đúng
nơi quy định, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn khi bạn đang ngủ.
+ Trong giờ hoạt động chiều của mỗi ngày, sau khi cho trẻ ôn bài cũ hoặc
làm quen với bài mới, tôi luôn dành một khoảng thời gian để tổ chức cho trẻ
luyện tập thực hành các kỹ năng dưới dạng trò chơi. Cụ thể:
Tôi thường tổ chức cho trẻ thực hành các kỹ năng chăm sóc bản thân như
rửa tay, lấy nước uống, mặc quần áo, cho đồ vào cặp….Mỗi hoạt động tôi chọn
một trò chơi khác nhau
Ví dụ: Khi cho trẻ ôn luyện cách mặc áo, tôi cho trẻ chơi trò chơi “Ai
nhanh hơn, khéo hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi mặc áo, đầu tiên tôi
gợi mở, giới thiệu với trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp
đếm ngược cùng cô từ 10 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng tay, cô và các bé
kiểm tra kết quả và tặng quà. Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa
trên nguyên tắc cho trẻ làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Chẳng
hạn, cũng dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy
bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những tuần sau là
áo có khoá kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng về lúng túng nhưng do luyện tập
thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác hơn. Với
cách tổ chức có hệ thống và linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm
sóc bản thân tương đối tốt.

13


Trẻ thi cài cúc áo
Cũng có hôm buổi chiều tổ chức cho trẻ xem băng đĩa hoặc tranh ảnh có
kèm những câu chuyện về các hành vi ứng xử đúng sai giữa con người với con
người, giữa con người với môi trường xung quanh trong chủ đề. Qua đó giáo
dục trẻ kỹ năng ứng xẻ phù hợp với xung quanh.
Ví dụ : Cho trẻ xem đoạn phim về câu chuyện “Món quà của cô giáo”. Tôi

trò chuyện cùng trẻ:
- Vì sao Gấu Xù không nhận quà của cô giáo ? (Vì Gấu Xù thấy mình có
lỗi).
- Bạn Cún Đốm đã nói gì với cô giáo ? (Thưa cô lỗi tại con, chính con đã
bá vai Gấu Xù làm Gấu Xù ngã vào Mèo Khoang)
- Vì sao Cún Đốm và Gấu Xù vẫn nhận được quà và bé ngoan? ( Vì hai
bạn đã nhận ra được lỗi của mình).
Hay những hình ảnh giáo dục cho trẻ nhận biết và tránh các nơi nguy hiểm,
không chơi với những đồ vật nguy hiểm, những trò chơi nguy hiểm, ai cho gì thì nhận
bằng hai tay và cảm ơn, biết chào hỏi khi khách đến nhà...

Không leo trèo nơi ban công

Chào hỏi khi nhà có khách
14


Mặt khác, một trong những nội dung của chuyên đề bảo vệ môi trường là tiết
kiệm năng lượng nên tôi cũng thường xuyên trò chuyện, cho trẻ xem những hình ảnh có
liên quan đến tiết kiệm năng lượng để từ đó hình thành cho trẻ thói quen biết tiết kiệm
năng lượng như: Biết khóa vòi nước sau khi dùng, tắt bóng điện, quạt, tivi khi không
dùng...

Mỗi một tình huống, mỗi một câu chuyện tôi dựa vào nội dung để giáo
dục trẻ cách ứng xử phù hợp. Qua việc thảo luận các tình huống như vậy trẻ
luôn có ý thức ứng xử phù hợp với con người và môi trường xung quanh.
Tôi cũng tổ chức các hoạt động nhằm dạy trẻ kỹ năng tuân thủ quy tắc xã
hội trong hoạt động chiều.
Ví dụ: Dạy trẻ biết xếp ghế đúng nơi quy định như xếp nhẹ nhàng, không
gây ồn, khi xếp ghế ngồi học phải xếp thẳng hàng theo đúng tổ của mình, khi

ngồi ăn ghế phải xếp sát bàn, khi ra về phải xếp ghế vào góc lớp. Hoặc khi xếp
dép phải xếp kẹp đôi, tổ ong vàng xếp ngăn trên của giá dép, tổ bướm trắng xếp
ngăn giữa, tổ chim non xếp ngăn dưới giá dép…
Nhờ được tham ra và nhắc nhở thường xuyên nên ý thức của trẻ trong
việc chấp hành các quy tắc cô đưa ra rất tốt.
Chiều thứ 6, tôi thường tổ chức cho trẻ sắp xếp lại đồ dùng đồ chơi ở các
góc nhằm phát triền kỹ năng hợp tác và rèn thói quen sống gọn gàng ngăn nắp.
Những tuần đầu, tôi cho trẻ quan sát cô và nghe cô giải thích vì sao phải làm
như vậy? Cách sắp xếp như thế nào cho đẹp? Những tuần tiếp theo tôi chia tổ,
yêu cầu mỗi tổ tự xếp mỗi góc chơi, thi xem đội nào xếp đúng, xếp đẹp và nhanh
nhất. Rõ ràng khi tham gia hoạt động này, các kỹ năng hợp tác của trẻ được phát
triển. Trẻ biết giúp đỡ nhau và nhắc nhở nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ một
cách nhanh chóng. Từ việc tổ chức thường xuyên như vậy, các mối quan hệ
cũng như kỹ năng làm việc nhóm của trẻ được củng cố, bên cạnh đó đồ dùng
đồ chơi của lớp tôi luôn được xếp gọn gàng, ngăn nắp và rất khoa học.Với biện
pháp này, các kỹ năng cần có luôn được củng cố và hoàn thiện một cách chính
xác.
15


Có thể thấy rằng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi, đảm
bảo tính liên tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được hình thành sẽ trở thành
thói quen, thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Tuy nhiên không nên
lạm dụng tích hợp quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động chính
cũng như sẽ gây tâm lý nặng nề cho trẻ khi tham ra vào các hoạt động đó. Sau
mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ năng đạt được trên trẻ bởi đây cũng
là một trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả.
2.3.7. Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ
Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục kỹ
năng sống trẻ mầm non. Thông qua các ngày hội, ngày lễ hay các hội thi ở trường trẻ

mạnh dạn hơn rất nhiều khi mình trự tiếp được tham gia các hoạt động trong các ngày
lễ, hội đó.
Ví dụ: Tổ chức ngày hội đến trường, ngày Tết Trung thu, ngày hội 20/11, ngày
8/3; hội chợ xuân, ngày tổng kết năm học... Từ đó trẻ cảm nhận được không khí vui
tươi, sự thân thiện ở trường, lớp và thích đến lớp. Qua đó kỹ năng xã hội của trẻ cũng
được củng cố và phát triển.
2.3.8. Biện pháp noi gương.
Ở trường cô giáo là người mẹ thứ hai đối với trẻ. Trẻ rất thích được cô
yêu thương, gần gũi. Mọi hành động cử chỉ của cô trẻ rất lưu tâm và bắt chước
theo.Vì vậy cô phải luôn luôn chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao tiếp
với phụ huynh, với trẻ hay tác phong của cô, hành động cử chỉ của cô… Tôi
luôn ân cần dịu dàng thương yêu trẻ, luôn tạo mối thân thiện giữa cô và trẻ. Cô
là tấm gương cho trẻ thực hiện và noi theo. Làm sao để trẻ cảm nhận được mỗi
ngày đến trường thật sự là một ngày vui.
Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời cám ơn khi nhận được sự giúp đỡ của
người khác hoặc khi người khác làm một điều gì đó cho mình. Nhưng trong mối
quan hệ giữa các cô giáo và giữa cô với trẻ, người lớn không nói cám ơn thì trẻ
sẽ không hình thành ý thức của việc nên cám ơn người khác.
Hay khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy
nhặt bỏ vào thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.Cũng tình huống trên:
Cô nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết tại sao cô bỏ lá cây vào
thùng rác không? Giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch
đẹp cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu
rằng: nhặt rác làm sạch sân trường.
Bên cạnh đó cô cũng cần khen trẻ kịp thời trước những hành động đẹp của
trẻ hay những kỹ năng trẻ làm tốt để từ đó nhân rộng thêm với những trẻ khác.
Đó sẽ lầ động lực cho trẻ tiếp tục thực hiện hành động đẹp và cũng là tấm gương
để trẻ noi theo.
2.3.9. Phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.

Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối
kết hợp với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để
giáo dục trẻ.
16


Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường, tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với
phụ huynh để cùng phối hợp dạy kỹ năng sống cho trẻ. Tuyên truyền cho phụ
huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dậy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được
hướng dẫn sớm về cách tự vệ, nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và
cách xử lý thì sẽ vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống.
Điều đó được chứng minh rõ ràng từ thức tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt
nhất chính là dạy trẻ biết cách tự bảo vệ bản thân.
Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh
cho rằng con mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như nghĩ rằng
trẻ mẫu giáo vẫn được sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ.
Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào cha mẹ cũng ở bên con khi có tình
huống xấu.
Thời gian gần đây, có nhiều trẻ em bị lạm dụng, xâm hại thủ phạm lại
chính là người thân quen như bạn bố mẹ, hàng xóm quen biết…Chính vì vậy,
người lớn phải khéo léo, tế nhị kể cho con nghe những tình huống xấu có thể
gây hại cho bé và giúp con biết cần xử lý như thế nào. Cô giáo phối hợp cùng
phụ huynh khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ phận trên cơ
thể. Giúp trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có người quan tâm thái quá
đến cơ thể của trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân.
Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất
trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở
giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt, cấm đoán trẻ .
Thay vì “Con không được làm thế này, thế kia” thì ta nên đưa ra các tình
huống cụ thể thông qua thực tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế,

nếu xảy ra thì sẽ phải làm như thế nào?
Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹ năng sống là
giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải pháp khác nhau. Nội
dung giáo dục phải xuất phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần
có điều kiện để cọ sát các ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực
hành và áp dụng. Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong
việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình .
- Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa
câu hỏi để trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận
và có thể đưa ra kết luận của mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Đối với bản thân.
Nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, từ đó có các phương pháp để giáo
dục trẻ tốt hơn. Chuẩn bị tốt không gian và đồ dùng, đồ chơi cho trẻ hoạt động.
Tạo mọi điều kiện để trẻ phát huy được những kỹ năng sống, cô là người gợi
mở, hướng dẫn cho trẻ để trẻ được khám phá, tìm tòi và phát huy hết khả năng
17


của mình. Thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục phát huy tính tích cực
ở trẻ, giúp trẻ hứng thú chủ động khám phá, tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến
thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
2.4.2. Đối với đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi nghiên cứu về vai trò của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo
tôi đã trao đổi cùng đồng nghiệp trong trường thông qua các buổi sinh hoạt
chuyên môn của trường, của tổ chuyên môn, qua đó 100% đồng nghiệp trong tổ
và nhà trường đã hiểu được bản chất của vấn đề, phối kết hợp chặt chẽ với nhau

trong nhà trường để có biện pháp giáo dục phù hợp, góp phần nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ, hình thành cho trẻ những kỹ năng cần thiết, góp
phần nâng cao năng lực của đồng nghiệp, chất lượng giáo dục của nhà trường.
2.4.3. Đối với trẻ:
- 100% trẻ tích cực, chủ động tham gia các hoạt động thực hành, trãi
nghiệm.
-100% trẻ đều được tạo mọi điều kiện, khuyến khích, khơi dậy tính tò mò,
ham hiểu biết, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
- Có thói quen tự phục vụ, được rèn luyện 1số kỹ năng tự lập như: kỹ
năng nhận thức, kỹ năng vận động...
Kết quả cụ thể sau khi áp dụng các biện pháp trên trong năm học vừa qua
như sau:
* Kết quả của trẻ lần 2:
Kết quả
Số trẻ
Đạt
Chưa đạt
TT Nội dung khảo sát
KS
(Tỷ lệ
(Tỷ lệ
Số trẻ
Số trẻ
%)
%)
1 Sự mạnh dạn, tự tin
30
30
100%
0

0
2

Kỹ năng hợp tác

3

Kỹ năng vệ sinh cá nhân

4

Kỹ năng tự phục vụ

5

Kỹ năng giao tiếp lịch
sự, lế phép

30

30

100%

0

0

30


28

93,3%

2

6,7%

30

28

93,3%

2

6,7%

30

28

93,3%

2

6,7%

30


30

100%

0

0

6

Kỹ năng bảo vệ bản thân

7

Kỹ năng tuân thủ các quy
tắc xã hội

30

29

96,7%

1

3,3%

8

Kỹ năng thích nghi với

môi trường sống

30

30

100%

0

0
18


Nhìn vào bảng khảo sát tôi thấy kĩ năng của trẻ có nhiều tiến bộ rõ rệt, các
lĩnh vực đạt được tương đối cao. Tôi rất vui mừng vì cha mẹ luôn coi trọng trẻ
và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường. Giao tiếp giữa
cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong
cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ, không còn
hình ảnh cha mẹ tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình
ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm ở trẻ nhỏ…

19


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
Qua kết quả đã đạt được ở trên tôi thấy rằng để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ đạt kết quả tốt giáo viên cần :
- Dành thời gian chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có biện pháp

giáo dục phù hợp, phải động viên khen trẻ kịp thời trước những việc làm đúng
của trẻ, nhắc nhở trẻ khéo léo khi trẻ thực hiện hành vi chưa đúng. Cô phải hết
lòng yêu trẻ với tinh thần là người mẹ thứ 2 của trẻ, cô cần nhạy bén trước
những diễn biến của trẻ, hiểu được hoàn cảnh sống của từng trẻ.
- Khi dạy trẻ kỹ năng sống, không hạ thấp trẻ, không nên tạo cho trẻ thói
quen kiêu ngạo nhưng cũng không nên lăng nhục trẻ, không doạ nạt trẻ, không
bao bọc, làm thay trẻ, không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn, nên tạo
điều kiện phát triển tính tự lập ở trẻ, không yêu cầu những điều không phù hợp
với lứa tuổi của trẻ.
- Lồng ghép các nội dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua các
hoạt động chung trên lớp cũng như các hoạt động mọi lúc mọi nơi. Giáo viên
cần tích cực đổi mới phương pháp giảng nhằm phát huy tính tích cực của trẻ,
giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ
năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
- Bên cạnh đó cần có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để
giáo dục trẻ. Gia đình phải thực sự là mái ấm tình thương của trẻ, bố mẹ phải là
tấm gương sáng để trẻ noi theo.Thường xuyên trao đổi với phụ huyng những nội
dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết
những khó khăn gặp phải.
3.2. Kiến nghị.
Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo được tốt hơn tôi xin có một đề
xuất với ban giám hiệu nhà trường tham mưu với các cấp lãnh đạo để tổ chức
nhiều hơn nữa các buổi hội thảo về kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Trên đây là một vài kinh nghiệm trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 4-5 tuổi. Đề tài này không tránh khỏi những thiếu xót, kính mong hội
đồng khoa học xét duyệt góp ý bổ sung để bản sáng kiến này hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Triệu Sơn, ngày 22 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
là do tôi viết, không copy nếu sai tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Châm
20


Tài liệu tham khảo
1.Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ 4-5
tuổi của tác giả Lê Thu Hương chủ biên
2.Các tài liệu trên mạng Internet
3.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên dành cho giáo viên
4. Hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm
trong trường mầm non do nhóm tác giả Hoàng Thị Dinh, Bùi Thị Kim Tuyến,
Hoàng Thị Thu Hương…
5. Bài thơ “Nửa đêm” (Nhật ký trong tù) của Hồ Chí Minh

21


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Châm
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường mầm non Thị Trấn

TT

Tên đề tài sáng kiến


Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở)

1.

Một số biện pháp giáo
dục lễ giáo cho trẻ mẫu
giáo 3 – 4 tuổi tại Trường
mầm non Thị Trấn Triệu
Sơn.

Phòng GD&ĐT

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại.

C

2014 – 2015

22




×