Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ 24 36 tháng tuổi trường mầm non phú lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.31 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT HẬU LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG VĂN HỌC (KỂ CHUYỆN) CHO TRẺ 24-36 THÁNG
TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON PHÚ LỘC

Người thực hiện: Nguyễn Kim Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Phú Lộc
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

1


THANH HÓA, NĂM 2018

MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1.Mở đầu:………………………………………………………………........1
1.1.Lý do chọn đề tài:…………………………………………………………1
1.2.Mục đích nghiên cứu:……………………………………………………..1
1. Mở đầu……………………………………………………………………1
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………….1
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………….1
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………2
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….2
2. Nội dung………………………………………………………………….2


2.1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………….2
2.2. Thực trạng………………………………………………………………3
2.3. Các tổ chức thực hiện………...….………………………………………5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm………………...…….……………17
3. Kết luận - Kiến nghị…………………………..…………………………18
3.1. Kết luận…………………………………………………………………18
3.2. Kiến nghị………………………………………………………………..19
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục

2


1.MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài.
Sự phát triển không ngừng của xã hội, đòi hỏi một đất nước phải không
ngừng vươn lên ở mọi mặt, để chiếm lĩnh một vị trí trên thế giới. Đất nước
Việt Nam đang trên đã hội nhập quốc tế để sánh vai với các cường quốc năm
châu, đòi hỏi phải có những chính sách phát triển đất nước cụ thể, sáng tạo và
dựa trên thực tế của đất nước mình. Muốn đất nước phát triển được phải có đủ
nguồn lực mà nguồn lực quan trọng nhất đó chính là con người. Chính vì thế
nhà nước ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
để có thể đưa đất nước lên một tầm cao mới.
Chính sách phát triển giáo dục là một trong những mục tiêu quan trọng
của quốc gia, mà đặc biệt việc chú trọng, quan tâm phát triển nguồn lực ngay
từ bậc học nầm non luôn được nhà nước quan tâm nhất. Bởi bậc học mầm non
là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân hình thành nên nhân
cách, phẩm chất toàn diện của một đứa trẻ. Theo quan điểm giáo dục của
nước ta trong thời đại đổi mới ngày nay đó là nền giáo dục phát triển toàn
diện, hướng tới một xã hội học tập nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo. Thực tiễn

cho thấy “Tiềm năng và tiềm lực cơ bản của đất nước là con người”. Chính vì
vậy mà công tác giáo dục rất quan trọng, đặc biệt là giáo dục lứa tuổi mầm
non. Bởi giai đoạn này trẻ em như một tờ giấy trắng bất kì là một hình thức
giáo dục nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý trẻ. Do đó biện pháp giáo dục
phù hợp đối với trẻ là rất quan trọng và cần thiết góp phần thúc đẩy nhân cách
toàn diện cho trẻ.
Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày
tỏ những nguyện vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để cha mẹ, những người
lớn có thể chăm sóc, điều chỉnh giáo dục trẻ là một điều kiện quan trọng để
trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động nhân cách của trẻ ngay từ
khi còn nhỏ. Ngôn ngữ phát triển làm cho tư duy của trẻ phát triển, ngôn nữ
phát triển toàn diện của trẻ bao gồm cả sự phát triển về đạo đức, chuẩn mực
hành vi văn hóa. Ngôn ngữ phát triển nhằm giúp trẻ tiếp thu những giá trị của
thơ ca, truyện kể thông qua người lớn và nó bắt đầu bằng những lời ru, câu
chuyện của bà của mẹ, thông qua các hoạt động này được xem như là phương
tiện hữu ích để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Trên thực tế cho thấy trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng tuổi còn nói tiếng chưa
đủ câu, nói câu chưa có nghĩa chiếm tỉ lệ cao, đây cũng là khó khăn để trẻ tiếp
1.1.

3


cận với các tác phẩm văn học. Trẻ đang còn nghèo nàn về vốn từ và đôi lúc
trẻ chưa biết diễn đạt sao cho rõ ràng điều muốn nói, cho nên hoạt động kể
chuyện được đưa vào trong chương trình giáo dục mầm non là quan trọng
nhằm phát triển ngôn ngữ, làm giàu vốn từ cho trẻ và đặc biệt là giúp trẻ phát
âm chính xác, diễn đạt rõ ràng, nói có ngữ điệu, đúng ngữ pháp, tạo điều kiện
cho trẻ có khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và học tập với chức năng
giáo dục bằng phương tiện văn học. Thông qua truyện kể giúp trẻ làm quen

với lời hay, ý đẹp, hình tượng trong sáng, tập cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm
văn học, từng bước xây dựng cho trẻ lòng yêu thích cái đẹp trong văn học, để
phát triển tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động kể chuyện và tình hình thực
tế của trường lớp nhiều trẻ còn nói ngọng, nói lắp, nói chưa rõ câu, chưa diễn
đạt được ý của mình, tôi đã mạnh dạn trao đổi một số biện pháp nhằm hướng
dẫn trẻ tiếp thu bài một cách có hiệu quả tốt nhất. Điều đặc biệt đây cũng là
cơ hội để tôi trao đổi, học tập bạn bè, đồng nghiệp để có thể áp dụng các biện
pháp vào dạy học bộ môn này.Vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Một
số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ
24-36 tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Đề ra một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể
chuyện) cho trẻ 24-36 tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
Nâng cao chất lượng hoạt động văn học (kể chuyện) cho trẻ 24-36
tháng tuổi C ở trường mầm non Phú Lộc.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê và sử lý tài liệu.
2.NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Ngôn ngữ đã đi vào tâm hồn trẻ như một món ăn tinh thần không thể
thiếu, ngay từ khi bước chân vào trường trẻ mầm non nói chung và trẻ 24-36
tháng nói riêng đã được tiếp xúc với ngôn ngữ, từ những trẻ chậm nói đến
trẻ nhút nhát, chưa biết nói các cô giáo đã đem ngôn ngữ ấy len lỏi vào trong
những câu truyện, bài thơ để nó đi sâu vào tâm hồn trẻ thơ. Chính vì vậy nó
tạo nên sự hấp dẫn kỳ diệu, trẻ nào cũng thích đọc thơ, kể truyện cho cô

giáo, bạn bè, ông bà, ba mẹ nghe ở mọi lúc mọi nơi. Khi trẻ tiếp xúc với các
câu truyện thì những ấn tượng đẹp đẽ, tính cách nhân vật sẽ hiện ra trước
mắt trẻ, làm nảy sinh tư tưởng, tình cảm đạo đức, trí tưởng tượng, niềm tin
và hành động nhân đạo, thôi thúc lòng đam mê hướng trẻ vươn tới cái đẹp.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói
riêng là một hoạt động giáo dục đóng vai trò rất quan trọng. Do vậy nội dung
4


phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải được thực hiện kết hợp vào quá trình dạy
các hoạt động khác. Hiện nay, nhằm đổi mới hình thức, tổ chức hoạt động để
phát triển toàn diện nhân cách trẻ, tạo điều kiện để phát triển các tính năng
như: Nghe, nói.... Do đặc thù ở trẻ nhà trẻ chưa đọc được, viết được, đến lớp
với tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo là cầu nối của trẻ để trẻ biết được các
đức tính tốt, xấu của từng nhân vật, hiểu được cốt truyện để từ đó trẻ phát
triển ngôn ngữ của mình được rõ hơn, mạch lạc hơn.
Mặt khác, trên thực tế ngôn ngữ đến với trẻ còn gặp nhiều bất cập, đặc
biệt là sự tiếp cận với phương pháp truyền tải kiến thức của giáo viên, chưa
linh hoạt việc đầu tư nghiên cứu tài liệu còn hạn chế, trang thiết bị còn
thiếu…. Chính vì vậy mà chất lượng giáo dục trẻ chưa đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò là
một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung
quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường
xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn, trẻ làm quen với các
sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm,
tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Nhờ có
ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng mà trẻ được
tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức,thẩm
mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất, đặc biệt là đối với

trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung
quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà
nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có
những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định
chung của cộng đồng, mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện, mặt
khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của
mình để hòa nhập với mọi người.
Tuy trẻ còn nhỏ nhưng trẻ rất hiếu động,thích tìm tòi, khám phá mọi thứ
xung quanh. Trẻ thường có nhiều thắc mắc trước những đồ vật hiện tượng mà
trẻ nhìn thấy,nghe thấy. Để giúp trẻ giải đáp những thắc mắc này, người lớn
cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn ngọn đồng thời cung cấp cho
trẻ thêm những hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ mạch lạc.
Chính vì vậy mỗi giáo viên mầm non chăm sóc giáo dục trẻ cần chú trọng đến
phát trển ngôn ngữ cho trẻ.
Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu truyện, để trẻ dễ dàng tiếp
nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt hơn.
Trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ 24
tháng tuổi và 36 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động
từ, các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần
theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị
các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất
màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các
5


từ này ở trẻ từ 24 đến 36 tháng tuổi còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng,
trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác, trẻ nhận thức về công cụ
ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế. Đối với trẻ mầm non nói chung và
trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở
rộng các loại từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò

chuyện với trẻ về những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng
ngày, nói cho trẻ biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất, công dụng của
chúng. Cho trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu truyện đơn giản qua tranh.
Đặt các câu hỏi cho trẻ, giúp trẻ biết kể truyện theo tranh bằng ngôn ngữ của
trẻ.
2.2 Thực trạng.
* Thuận lợi:
Trường mầm non Phú Lộc là trường chuẩn quốc gia, có khuôn viên
khang trang, đẹp đẽ đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc và luôn được các
cấp các ngành quan tâm.
Trường có 13 lớp học, trong đó, có 8 lớp mẫu giáo, 5 nhóm trẻ, có đầy
đủ các phòng ban, phòng âm nhạc và các phòng chức năng khác.
Có trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học theo từng chủ đề, trường
có đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình công tác, 100% giáo viên đạt chuẩn
và trên chuẩn. Ban giám hiệu thường xuyên kiểm tra, dự giờ, đánh giá kết
quả thi đua của cô và trẻ, lấy chất lượng trẻ để đánh giá chất lượng cô.
Trường có diện tích rộng rãi, bằng phẳng, phong cảnh thiên nhiên đẹp, có
nhiều cây xanh, sân chơi sạch sẽ thuận tiện cho việc hướng dẫn trẻ hoạt động
ngoài trời và có nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ học tập.
* Khó khăn:
- Là xã có địa bàn rộng, nhiều thôn cách xa trường nên vào những ngày
mưa, giá rét số trẻ đến trường còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng dạy học của cô và trẻ.
- Số trẻ mới lần đầu ra lớp nên đa số trẻ được bố mẹ cưng chiều, nên
chưa làm quen nhiều với các hoạt động chơi tập. Khả giao tiếp ngôn ngữ rõ
ràng của trẻ còn hạn chế như: Nói chưa đủ câu, nói trống không, nói lắp, nói
ngọng, nói tiếng địa phương, nên rất ảnh hưởng đến việc dạy trẻ trên lớp.
- Một số trẻ còn mải chơi chưa hứng thú tập trung chú ý vào giờ học.
- Đa số phụ huynh còn mải làm kinh tế nên chưa chú trọng đến con em
của mình

* Khảo sát thực trạng.
Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng..
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu
cầu
Nội dung
Số
khảo sát
trẻ
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém

6


Trẻ hứng thú
nghe cô kể
truyện
Trẻ nhớ tên
truyện và các
nhân vật trong
truyện
Trẻ trả lời
được câu hỏi
của cô

SL %


SL

%

SL

%

SL %

SL %

15

3

20

4

27

7

46

1

7


0

0

15

5

33

4

27

5

33

1

7

0

0

15

3


20

4

27

7

46

1

7

0

0

Trẻ tập kể lại
15 3
20
4
27
7
46 1
7 0
0
truyện cùng


Với kết quả khảo sát thực trạng trên tôi thấy: Tỷ lệ trẻ đạt tốt, khá,
trung bình còn thấp, tỷ lệ trẻ yếu còn cao, ở cả bốn nội dung khảo, nguyên
nhân chủ yếu như sau:
* Nguyên nhân.
+ Đối với cô:
- Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động giáo dục còn đơn điệu, chưa
sinh động không thu hút được trẻ.
- Do tiết học còn gò bó chưa thu hút trẻ, trẻ chưa tích cực thực hiện
nhiệm vụ cô giáo.
- Việc tiếp cận những ứng dụng khoa học (mô hình vườn cổ tích…) còn
hạn chế.
- Đôi khi áp đặt trẻ vào những cái cô đã vạch sẵn ra, chưa phát huy
được khả năng sáng tạo của trẻ khiến trẻ nhàm chán, không hứng thú đến giờ
học dẫn đến chất lượng chưa tốt.
+ Đối với trẻ:
- Trẻ còn đang nhút nhát, ngôn ngữ của trẻ còn chưa mạch lạc, khám
phá thế giới xung quanh của trẻ còn hạn hẹp.
Từ những thực trạng trên, tôi băn khoăn, lo lắng làm sao để trẻ hoạt
động với giờ kể truyện đạt hiệu quả cao. Bản thân tôi đã trải qua thời gian
nghiên cứu dày công ghi lại qua sách báo, tài liệu và qua đồng nghiệp, tham
gia tập huấn các chuyên đề để tìm ra các giải pháp, biện pháp linh hoạt sáng
tạo, áp dụng và nâng cao chất lượng giáo dục.
2.3. Các tổ chức thực hiện.
* Biện pháp 1: Tạo môi trường cho trẻ 24-36 tháng tuổi hoạt động
văn học (kể truyện).

7


Môi trường hoạt động vô cùng quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến

trẻ và nâng cao chất lượng hoạt động phát triển ngôn ngữ thông qua kể
chuyện, chính vì thế tôi luôn chú trọng tạo môi trường hoạt động cho trẻ.
+ Môi trường trong lớp:
Ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh cùng tham gia làm đồ
dùng, đồ chơi trang trí lớp nhằm giúp trẻ khám phá, tìm tòi các nhân vật
trong truyện và phục vụ cho quá trình chơi tập của trẻ. Tôi tận dụng diện tích
phòng xây dựng khu “Bé vui với nhân vật nghộ nghĩnh”. Khu vực “Kể
chuyện cùng bé yêu” và bố trí sắp xếp các dụng cụ, đồ dùng tranh ảnh thuận
tiện cho trẻ dễ quan sát và hoạt động.
Ví dụ 1: Ở chủ đề “Những con vật đáng yêu”.
Tôi trang trí lớp bằng các hình ảnh của các nhân vật trong các câu
chuyện để trẻ nhớ và khắc sâu nội dung truyện, chẳng hạn ở khu vực “Bé vui
với nhân vật ngộ nghĩnh”, tôi vẽ hình ảnh gà vịt đang vui đùa cùng nhau.
Ảnh 1: Môi trường trong lớp (Phụ lục).
Ví dụ 2: Với chủ đề “Cây, quả, rau và những bông hoa đẹp”. Tôi đặt tên
cho khu vực là “Sắc màu của các loại hoa”, bên trong góc này tôi luôn tìm
hiểu, sưu tầm tranh trưng bày các loại tranh truyện kể sáng tạo, truyện cổ
tích, truyện dân gian và một số tranh ảnh đẹp từ các tạp chí.
Khi dẫn dắt trẻ tới những khu vực tôi hướng dẫn trẻ xem tranh từ trái
qua phải, từ trên xuống dưới và hướng cho những trẻ giỏi có thể kể truyện
sáng tạo khi nhìn thấy các hình ảnh hay nhân vật trong khu vực kể truyện
cùng bé yêu để giúp trẻ hiểu nội dung ý nghĩa của cốt truyện và rèn khả năng
phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ.
+ Môi trường ngoài lớp:
Tôi luôn chú ý sắp xếp khung cảnh hợp lý để tạo môi trường hoạt động
tốt, thoải mái nhất đến cho trẻ, khuôn viên ngoài trời phải thoáng mát, có
bóng mát, bầu không khí trong lành, đảm bảo độ an toàn khi trẻ tham gia
mọi hoạt động chơi tập. Tôi tận dụng các mảng tường trống để vẽ các nhân
vật có trong câu truyện như: Dê con, sóc nâu, gà, vịt, thỏ xây dựng vườn cổ
tích, giúp trẻ cảm thấy gần gũi với các nhân vật hơn, biết yêu cái đẹp, cái tốt

và ghét cái xấu và có thể gợi mở cho trẻ kể truyện sáng tạo.
Ảnh 2: Môi trường ngoài lớp học (Phụ lục).
Hiện nay trường tôi đã có “Vườn cổ tích” của các bé, với các câu
truyện có trong chương trình. Ông Gióng, Tấm Cám, nàng bạch tuyết và bảy
chú lùn và ngoài ra còn có thêm nhiều hình ảnh vườn hoa, các con vật dê,
thỏ, cây nấm để lứa tuổi trẻ 24-36 tháng tuổi có thể cảm nhận và tưởng
tượng ra câu truyện đã từng được nghe cô kể. Đây cũng là môi trường bên
ngoài được tôi tận dụng triệt để trong quá trình nâng cao hoạt động văn học
(Kể chuyện) cho trẻ ở lớp mình.
* Biện pháp 2: Làm đồ dùng trực quan phục vụ cho hoạt động văn
học (kể truyện) cho trẻ 24-36 tháng.
8


Có thể nói đồ dùng trực quan được xem là “ Quy tắc vàng” trong chương
trình giáo dục mầm non, trong các bài dạy của trẻ không thể không có đồ
dùng trực quan vì trẻ mầm non chủ yếu là tư duy hình tượng, vì vậy tôi luôn
chú ý đến việc làm đồ dùng trực quan thế nào cho đẹp, cho chính xác, sáng
tạo, an toàn và sử dụng thế nào cho đúng lúc, đúng chỗ.
Trong cuộc sống có rất nhiều những phế liệu tưởng chừng như bỏ đi
như: Vỏ cây, rơm rạ, vỏ chai nhựa, lõi giấy vệ sinh, những sợi len dư thừa,
hộp sữa, ly nhựa, vải vụn… Nhưng đây lại là nguồng nguyên liệu vô cùng
phong phú để giáo viên khai thác, sáng tạo ra những đồ dùng, đồ chơi đẹp,
hấp dẫn phục vụ cho hoạt động chơi tập của trẻ như làm rối, làm ra những con
vật ngộ nghĩnh. Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng, đồ
chơi một cách cụ thể, vì thế ở mỗi chủ đề tôi đều chuẩn bị được ít nhất một bộ
đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi.
Ví dụ: Làm đồ dùng trong câu truyện “Thỏ con không vâng lời”, tôi đã
làm một sân khấu rối di động, dùng vải may nhân vật thỏ mẹ, thỏ con sau đó
trang trí mắt thỏ bằng các khuy áo, râu thỏ bằng các sợi len, bươm bướm tôi

sử dụng bằng ống sữa su su để làm thân và xốp tôi làm cánh. Khi cho các
nhân vật lên sân khấu tôi sử dụng lò so, con quay lắp vào điện để các nhân vật
di chuyển được trên sân khấu rối.
Khi kể cho trẻ nghe lần đầu tiên tôi kể diễn cảm, kết hợp với cử chỉ, điệu
bộ, nét mặt. Khi kể lần hai tôi kết hợp với tranh minh họa, ở lần kể thứ ba tôi
đưa sân khấu rối vào để kể cho trẻ nghe, khi kể đến cảnh nào thì tôi bật công
tắc điện cho các nhân vật tự đi vào. Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi đồ dùng trực
quan phải luôn được mới, màu sắc sặc sỡ và không nên sử dụng lâu một loại
đồ dùng sẽ gây sự nhàm chán của trẻ, nếu tôi thay đổi hình thức, mẫu mà hoặc
cách sử dụng để tạo sự mới mẻ cho trẻ, giúp trẻ khắc sâu được nội dung câu
chuyện và dễ nhớ, đặc biệt khi làm đồ dùng trực quan tôi luôn chú ý đến
những đồ dùng mang tính động.
Ví dụ: Ở chủ đề “Cây quả, rau và những bông hoa đẹp” có câu chuyện
“Qủa thị”.
Tôi đã dựng lên một sa bàn trang trí các họa tiết xung quanh, cỏ cây, hoa
lá, nhân vật bà cụ, vịt, mèo tôi cắt bằng xốp dán đề can, còn cây thị tôi sử
dụng cành cây khô quấn len và sử dụng quả bóng nhựa nhỏ đã bị hỏng, tôi
sơn màu xanh, màu vàng và lắp công tác điện, khi kể tôi sử dụng công tắc và
đưa hình ảnh phối hợp nhịp nhàng cả hai tay gây bất ngờ đối với trẻ.
Ảnh 3: Một số hình ảnh cô làm đồ dùng trực quan phục vụ cho hoạt
động kể chuyện (Phụ lục).
Từ việc làm những đồ dùng ngộ nghĩnh, mới lạ bản thân tôi đã tiết kiệm
được rất nhiều chi phí, mặt khác giúp trẻ hứng thú trong mỗi giờ hoạt động kể
chuyện hơn và giúp trẻ khắc sâu về nội dung câu truyện và các nhân vật trong
truyện hơn.
*Biện pháp 3: Tổ chức hoạt động văn học linh hoạt, nhẹ nhàng, lấy
trẻ làm trung tâm.
9



Việc tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua giờ kể
truyện trong trường mầm non là một phương tiện không thể thiếu để hỗ trợ
cho việc thành công của tiết dạy, chính là đồ dùng trực quan minh họa, lựa
chọn phương tiện trực quan sao cho phù hợp có tác dụng giáo dục thẩm mỹ.
Phương pháp này phù hợp với đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non, ngôn
ngữ hình thể của cô giáo là phương tiện trực quan sinh động nhất, ngôn ngữ
nói, đọc diễn cảm rõ ràng, tình cảm hòa quyện giữa âm thanh, nghĩa từ, giữa
giọng điệu và cử chỉ điệu bộ sẽ làm sống dạy hình ảnh đẹp trong mắt trẻ.
Ngoài ngôn ngữ hình thể thì rối tranh cũng là biện pháp trực quan sinh động
giúp trẻ hứng thú và tạo kết quả tốt trong giờ học.
Đặc điểm của trẻ là nhận thức từ trực quan đến trừu tượng cho nên nếu
không có trực quan thì trẻ không tưởng tượng được, mặt khác sự chú ý của trẻ
còn phân tán chưa bền vững, đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự tập
trung chú ý của trẻ hơn. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, rối, mô hình,
sa bàn vật thật, sân khấu… Đồ dùng trực quan phải sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ nhằm khắc sâu kiến thức trong câu chuyện, với tôi khi dạy kể truyện cho
trẻ tùy vào từng nội dung câu chuyện tôi vận dụng, có những câu chuyện tôi
dùng tranh và mô hình sa bàn một cách nhẹ nhàng linh hoạt.
+Sử dụng mô hình sa bàn cho trẻ quan sát.
Ví dụ1: Trong chủ đề “Tết và mùa xuân” tên bài dạy là kể truyện “Cây
táo”.
Tôi đã chuẩn bị như sau: Tranh có nội dung câu chuyện, sa bàn, mô hình
vườn cây ăn quả.
-Hoạt động 1: Tôi cho trẻ hát bài “Qủa” và đi thăm mô hình vườn táo, cô
trò chuyện cùng trẻ về mô hình đó.
-Hoạt động 2: Cô kể truyện lần 1: Thể hiện cử chỉ, sắc thái, giọng nói
của từng nhân vật.
Cô hỏi trẻ tên câu truyện, tên tác giả.
Cô kể lần 2: Kết hợp tranh minh họa.
Cô nêu nội dung câu truyện.

Giảng từ khó “Ngon lành” (Cô cho trẻ phát âm từ khó).
Cô kể lần 3: Kết hợp sa bàn.
Khi kể chuyện tôi sử dụng sa bàn, vừa kể tôi đưa từng hình ảnh kết hợp
kể nội dung câu chuyện, cô phải kết hợp giữa lời kể và cách sử dụng nhân vật
cho phù hợp, tôi thấy rõ khi sử dụng sa bàn trẻ rất hứng thú và trẻ khắc sâu
nội dung câu chuyện hơn, tôi sử dụng câu hỏi đàm thoại kết hợp sử dụng sa
bàn để trẻ trả lời, chính vì thế tôi thiết nghĩ để giờ học đạt kết quả cao thì hình
tượng trực quan là rất quan trọng, đối với trẻ lời nói cụ thể và có hình ảnh trực
quan minh họa của giáo viên giúp trẻ cảm nhận được tác phẩm văn học thông
qua giờ kể chuyện một cách dễ hiểu nhất.
Cô củng cố giáo dục trẻ.
-Hoạt động 3: Kết thúc: Cô cho trẻ chơi trò chơi dung dăng dung dẻ.
+Sử dụng công nghệ thông tin.
10


Với hình thức hiện nay thời đại công nghệ tiên tiến, chính vì thế biện
pháp này luôn gây chú ý, sự tò mò của trẻ nên tôi đã tận dụng và đưa công
nghệ tiên tiến vào giảng dạy trẻ để mang lại kết quả cao hơn. Đó là các hình
ảnh đưa lên máy sử dụng các hiệu ứng màu sắc phù hợp cũng đã gây sự chú ý
của trẻ.
Ví dụ 2: Ở chủ đề “Các con vật đáng yêu” Tên bài dạy là kể truyện: “Đôi
bạn tốt” tôi đã sử dụng câu đố để gây hứng thú cho trẻ, dẫn dắt trẻ vào câu
truyện một cách nhẹ nhàng, để từ đó kích thích sự tò mò, suy nghĩ của trẻ.
Tôi đã chuẩn bị như sau: Papow có nội dung câu chuyện, sa bàn.
-Hoạt động 1: Tôi sử dụng câu đố:
Con gì chân ngắn
Mà lại có màng
Mỏ bẹt màu vàng
Hay kêu cạp cạp?

Để dẫn dắt trẻ vào bài cô trò chuyện cùng trẻ về câu đố đó nói về cái gì,
con gì?
-Hoạt động 2: Cô kể truyện lần 1: Thể hiện cử chỉ, sắc thái, giọng nói
cửa từng nhân vật.
Cô hỏi trẻ tên câu truyện, tên tác giả.
Cô kể truyện lần 2: Kết hợp trình chiếu papow.
Cô tóm tắt nội dung câu truyện.
Giảng từ khó “Tíu tít” ( Cô cho trẻ phát âm từ khó)
Khi kết hợp trình chiếu papow tôi đã sử dụng cắt ghép hình ảnh gà con,
vịt con đang đi vịt thì lạch bạch và gà thì bới đất tìm giun hay là hình ảnh gà
nhảy lên lưng vịt, vịt bơi ra xa, tôi đã dùng hiệu ứng cho hình ảnh chạy từ bên
trái vào hoặc bên phải chạy vào, từ trên xuống dưới hay hiệu ứng tiếng kêu
của gà con. Qua sử dụng máy chiếu, ti vi, tôi thấy trẻ chú ý, chăm chú, hứng
thú học hỏi, trẻ nhớ lâu hơn và hình ảnh in đậm vào tâm trí trẻ.
Cô kể truyện lần 3: Kết hợp sa bàn.
Cô vừa kể cho các con nghe câu truyện gì?
Trong câu truyện có những ai các con?
Ai đã đuổi bắt gà con?
Bạn vịt đã làm gì để cứu gà con?
Cô cho trẻ kể lại câu truyện cùng cô 1-2 lần ( nếu còn thời gian)
Củng cố, giáo dục trẻ.
-Hoạt động 3: Kết thúc: Cô cho trẻ chơi trò chơi những chú gà con.
Ảnh 4: Sử dụng công nghệ thông tin (Phụ lục)
+Sử dụng sân khấu rối
Ví dụ 3: Với câu truyện thỏ con không vâng lời
Tôi sử dụng mô hình sân khấu là một không gian ngôi nhà, hoa cỏ, cây,
nhân vật thỏ mẹ và thỏ con trong chuyện được cách điệu hóa, thỏ mặc quần
áo đi bằng hai chân, khi tôi dạy tôi lồng cánh tay vào con rối, điều khiển con
rối bằng ba ngón tay: Ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa sao cho những cử chỉ phù
11



hợp với lời thoại trong truyện, đồng thời linh hoạt hai tay khi thỏ đối thoại với
bươm bướm và đối thoại với mẹ.
Nhờ việc sử dụng nghệ thuật rối trong hoạt động kể chuyện mà số trẻ có
khả năng cảm thụ văn học đạt được kết quả cao, đa số trẻ nhớ được nội dung
câu chuyện mà qua đó trẻ biết đánh giá được tính cách của nhân vật như ai là
người xấu, ai là người tốt, ai ngoan, ai không ngoan.
+Sử dụng hình thức kể truyện sáng tạo.
Nếu trọng tâm là kể truyện sáng tạo, tôi cho trẻ lựa chọn trang phục, đồ
dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ tập kể dựa theo hình thức khác
nhau và cô phải chuẩn bị môi trường cho trẻ một cách tốt nhất.
Ví dụ: Cho trẻ kể chuyện “Qủa thị”
Tôi chuẩn bị: Sa bàn sân khấu, trang phục cho bà cụ, mũ mèo, vịt, cây
thị có quả xanh, vàng tôi đã tiến hành như sau:
Các con ơi hôm nay nhà trường mình có tổ chức “Hội thi kể chuyện” các
con có muốn dự thi không? Vậy cô sẽ dẫn các con đi thi nhé!
Cô là người dẫn chương trình, các con sẽ đóng vai các nhân vật trong
chuyện (chọn theo nhóm).
Cô thấy trong truyện có rất nhiều nhân vật các con thích nhân vật nào thì
các con chọn nhân vật đó và kết thành một nhóm. Các con chú ý khi kể đến
nhân vật nào thì nhóm bạn của nhân vật đó sẽ nói lời thoại.
Chương trình “Hội thi kể chuyện bắt đầu”
-Cô dẫn chuyện:
Có một quả thị áo xanh đang ngủ im lìm trên cành cây, có bạn mèo đến
cào cào và gốc cây và gọi:
Trẻ:
Meo…meo…meo
Qủa thị áo xanh
Qủa thị áo xanh

Thị ơi! dậy nhanh
Đi chơi thị nhé.
Quả thị áo xanh vẫn ngủ im lìm, thế rồi có một bạn vịt đi lạch bạch đến
gọi quả thị:
Trẻ:
Quạc…quạc…quạc
Qủa thị áo xanh
Qủa thị áo xanh
Thị ơi! dậy nhanh
Đi chơi thị nhé.
Quả thị hé mắt ra nhìn, lúc này nó đã mang trên mình chiếc áo màu
vàng, nhưng các bạn thì đã đi chơi hết cả.Đúng lúc đó có một bà cụ đi tới bên
gốc thị, ngửi thấy mùi thị thơm nức bà nhìn lên thấy quả thị đã chín vàng, bà
giơ giỏ ra hát:
Trẻ:
12


“Thị ơi! Thị rụng bị bà
Bà để bà ngửi chứ bà không ăn”.
Các con vừa đóng kịch gì? (Qủa thị)
Khi quả thị chín có màu gì?
Thị chín vàng thì sao các con?
Qua việc sử dụng hình thức cho trẻ kể chuyện sáng tạo, trẻ hứng thú khi
chính mình được nhập vai, được hóa trang đẹp mắt, trẻ khắc sâu hình ảnh
nhân vật, hiểu nội dung cốt truyện và đặc biệt trẻ được trải nghiệm, phát triển
ngôn ngữ, vốn từ được nhiều hơn.
* Biện pháp 4: Sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại.
Câu hỏi đàm thoại có vai trò quan trọng đối với việc cảm thụ nội dung
của câu truyện đến với trẻ. Có thể nói trẻ tiếp thu bài tốt hay không phụ thuộc

rất lớn trong việc cô giáo đặt ra câu hỏi đàm thoại.Với từng bài dạy, thể loại
tôi đưa ra hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị có tính lorgic, mang tính mở để đàm
thoại với trẻ một cách sôi nổi theo phương châm “lấy trẻ làm trung tâm” để
phát huy trí tưởng tượng, những cảm xúc của trẻ, tính liên hệ thực tiễn, sáng
tạo phù hợp với từng nội dung của bài mà trẻ không bị áp đặt một cách gò bó.
Đối với những câu truyện trẻ đã được nghe, tôi sử dụng câu hỏi đàm
thoại để giới thiệu bài.
Ví dụ: Trong truyện thỏ con ăn gì.
Cô vừa kể cho các con nghe truyện gì? (Trẻ trả lời “Truyện thỏ con ăn
gì”)
Trong truyện có những nhân vật nào?( gà trống, mèo, thỏ con, dê)
Ai đã mời thỏ con ăn thóc? (gà trống). Cô cho trẻ đọc từ “gà trống”.
Vậy ai mời thỏ con ăn các con? (Mèo con). Cô cho trẻ đọc từ “Mèo
con”.
Khi thỏ con ngồi khóc ở gốc cây thì thỏ con đã gặp ai? (Dê con).
Vậy dê con đã mời thỏ con ăn gì?
Thế thức ăn của thỏ là củ gì các con?
Sau đó tôi giảng nội dung câu chuyện kể về một chú thỏ con đang đi
lang thang trong rừng, thỏ đi mãi mà chẳng kiếm được gì ăn, bỗng thỏ con
gặp gà trống đang mổ thóc gà trống mời nhưng thỏ con không ăn được. Thỏ
con lại gặp mèo con đang ăn cá mèo con mời nhưng thỏ con cũng không ăn
được, thỏ con đi mãi nên rất mệt và ngồi dưới gốc cây khóc bỗng thỏ con gặp
dê con, dê đã cho thỏ con hai củ cà rốt, thỏ con ăn rất ngon lành. Tôi đã giải
thích các từ khó cho trẻ hiểu và cho trẻ đọc các từ khó đó.
Điều mà tôi đặc biệt chú ý trong các tiết học là phải đưa ra nhiều hình
thức cho trẻ được nói nhiều qua giờ kể truyện.
Muốn trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể truyện trước hết cô giáo
cần nắm bắt được khả năng của trẻ như khả năng chú ý, tiếp thu bài của trẻ.
Qua quá trình giảng dạy tôi khảo sát khả năng của trẻ thông qua việc kể cho
trẻ nghe một câu truyện hoặc đọc cho trẻ nghe một bài thơ ngắn. Sau đó cho

từng trẻ nói lại nội dung câu truyện, có như vậy trẻ mới nhớ lâu hơn.
13


Hay tôi có thể hỏi trẻ những câu hỏi thật gần với trẻ như: Trong câu
truyện “Cây táo”.
Cô vừa kể cho con nghe câu chuyện gì?
Trong truyện có những ai?
Ông đang làm gì?
Em bé đã làm gì?
Ông mặt trời làm gì các con?
Con bươm bướm bay qua nói thế nào?
Con gà trống nó gáy như thế nào?
Một hôm ông,em bé bươm bướm, gà trống cùng làm gì?
Thế là những quả gì rơi đầy vào lòng bé?
Qua câu trả lời của trẻ tôi có thể nắm bắt được sự cảm nhận của trẻ đối
với câu chuyện mà trẻ đã được nghe, được trải nghiệm.
Và tôi đã phát hiện ra khả năng phát triển ngôn ngữ còn chậm của nhiều
trẻ trong lớp tôi như: Cháu Đức Việt, Anh Đức, Thùy Dương, Đại…
Từ đó tôi sẽ có các biện pháp phù hợp hơn trong giờ dạy của mình, để
giúp trẻ nói được nhiều hơn, có như vậy tiết dạy của cô mới đạt được hiệu quả
cao.
Sau đó phải biết lựa chọn các câu truyện có nhiều giá trị nghệ thuật cho
trẻ cảm nhận. Tôi thấy trên thực tế hiện nay giáo viên mầm non đang được
khuyến khích sáng tác ra các câu chuyện để dạy trẻ, điều này cũng rất tốt tôi
không hề phản đối tuy nhiên không phải ai cũng có thể sáng tác tốt. Chính vì
vậy phải lựa chọn bài thật kĩ trước khi dạy trẻ.
Có những câu chuyện tôi cho trẻ cảm nhận nhiều hơn về mặt nhịp điệu,
âm vần.
Khi đã chọn được câu chuyện hay lúc đó tôi mới có các hình thức giúp

trẻ cảm nhận cho phù hợp nhất.
Để tiết học đạt kết quả cao thì trước hết người giáo viên phải xác định rõ
mục đích, yêu cầu của câu chuyện và cô là người phải thuộc. Từ đó đưa ra nội
dung giáo dục phù hợp với cốt truyện, phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Bên cạnh
đó giáo viên phải chú ý đến giọng kể của mình, kể diễn cảm, đúng ngữ điệu
của từng nhân vật trong truyện, thể hiện nét mặt cử chỉ, tư thế phù hợp với
diễn biến của câu truyện thì mới thu hút sự chú ý của trẻ. Giọng đọc, giọng kể
của cô nhịp nhàng, đúng nhịp điệu sẽ giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về nội dung
bài thơ, câu truyện để phát triển ngôn ngữ của trẻ được nâng cao.
Muốn cho trẻ làm quen với ngôn ngữ trước hết người giáo viên phải
luôn dành thời gian để đọc câu chuyện nhiều lần. Vì vậy khi tôi dạy kể truyện
cho trẻ tôi đã cố gắng lựa chọn phương pháp tốt nhất để góp phần nâng cao
khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ.
* Biện pháp 5: Tích hợp hoạt động văn học (kể chuyện) vào các hoạt
động khác.

14


Để giờ kể truyện được hấp dẫn và góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thì việc kết hợp các lĩnh vực phát triển cũng được xác định là một yếu tố
không thể thiếu trong hoạt động học.
Việc tích hợp các hoạt động khác, chuyên đề vào bài dạy sẽ giúp giáo
viên tổ chức bài giảng một cách nhẹ nhàng, không cứng nhắc, gò bó, áp đặt
mà giúp trẻ hứng thú hơn trong giờ học.
+ Với hoạt động âm nhạc: Cô dùng các bài hát, điệu múa có nội dung
phù hợp để trẻ vào bài hoặc kết thúc bài.
Ví dụ: Khi cô dạy trẻ kể truyện “ Chú vịt xám” cô cho trẻ hát bài “Một
con vịt” sau đó cô giới thiệu cho trẻ: Có một câu chuyện nói về chú vịt xám
đã không nghe lời mẹ dặn nên xuýt nữa đã bị cáo bắt đấy. Muốn biết chú vịt

xám đó đã làm trái lời mẹ như thế nào? Bây giờ các con cùng lắng nghe cô kể
truyện nhé.
+ Đối với thể dục: Đề tài: Vận động cơ bản: Đi có mang vật trên tay
Tôi lồng ghép câu chuyện “Cây táo”. Các con ơi! Ông trồng một cây táo,
táo ra hoa và rất nhiều quả, táo đã chín đầy cành, nhưng không ai giúp ông hái
táo mang về được nên táo đã rụng đầy dưới gốc cây, các con hãy giúp ông
mang những quả táo vào nhà nhé.
Đặc điểm của trẻ là rất mau chán và không thể ngồi lâu trong tiết học, vì
vậy để tạo tâm thế thoải mái cho trẻ trước khi vào học, hay để khi chuyển tiếp
tôi thường tổ chức cho trẻ được vận động dưới nhiều hình thức, trò chơi.
+ Đối với hoạt động nhận biết tập nói.
Ví dụ: Đề tài: Nhận biết quả đu đủ, quả na, tôi tự sáng tạo ra câu chuyện
Các con ơi, lớp mình ai cũng ngoan nên bác gấu có gửi đến cho lớp mình
một giỏ quà dễ thương. Bây giờ cô mời một bạn lên cùng cô mở quà nào, để
xem bác gấu gửi gì cho lớp mình.
Một, hai, ba mở. Ôi, bác gấu gửi trái cây cho lớp mình đấy. Để xem có
những quả gì nhé.
+ Đối với hoạt động nhận biết phân biệt: Tôi thường sáng tác một nội
dung truyện để thực hiện tiết dạy.
Ví dụ: Ở đề tài nhận biết phân biệt: To hơn-nhỏ hơn.
Hôm nay mẹ bạn Mai đi chợ tết để mua sắm đồ dùng đấy. Mẹ mua được
rất nhiều đồ trong đó mẹ mua thêm một loại bánh mà hai chị em Mai rất thích
ăn, trong những ngày tết đó chính là bánh trưng đấy. Khi về đến nhà hai chị
em Mai lền chạy ra đón mẹ, mẹ! đã về.
Mẹ Mai vui mừng xoa đầu hai bạn nhỏ và đưa bánh ra cho hai chị em.
Đây! Quà của hai con đây, nhưng các con nhớ chị lớn hơn thì sẽ được chọn
bánh to hơn để ăn còn em nhỏ hơn sẽ chọn bánh bé để ăn. Hai chị em ngơ
ngác chưa biết làm thế nào.
Hôm nay cô sẽ cùng các con giúp hai chị em phân biệt xem cái bánh nào
to hơn, cái bánh nào nhỏ hơn nhé

+ Hay đối với các chuyên đề giáo dục vệ sinh, chuyên đề dinh dưỡng:
Mỗi bài dạy truyện tôi đều có phần giáo dục trẻ những điều cơ bản trong cuộc
15


sống thường ngày. Cô giáo dục trẻ: Hàng ngày các con phải nhớ đánh răng
vào buổi sáng và tối, ngoài ra cần phải thường xuyên xúc miệng nước muối.
Và quan trọng là không được ăn đồ ngọt, bánh kẹo vào buổi tối. Như
trong câu truyện “gấu con bị sâu răng”.
+ Hay giáo dục trẻ về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, cô giáo dục trẻ
ăn chín uống sôi, ăn đầy đủ chất dinh dưỡng để cho cơ thể khỏe mạnh, thông
minh nhanh lớn.
+ Lồng ghép chuyên đề giáo dục kỹ năng sống: Đối với trẻ nhỏ kỹ năng
giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày vô cùng quan trọng. Bởi từ đây trẻ bắt
đầu học cách làm người, cô hình thành cho trẻ những kỹ năng tình cảm xã hội
trong giao tiếp, ứng sử trong cuộc sống hàng ngày với mọi người xung quanh.
Làm như thế để trẻ lĩnh hội các kỹ năng ấy. Đây chính là nghệ thuật của cô,
Cô lấy tấm gương của các bạn tốt để trẻ noi theo. Đặc biệt là những câu
truyện có nội dung vô cùng hấp dẫn với trẻ cô đưa ra để giáo dục.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Đôi bạn nhỏ”, bạn Vịt con thấy Gà con bị
Cáo đuổi bắt đã chạy đến và cõng Gà con bơi ra xa. Cô giáo dục trẻ phải đoàn
kết, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn hoạn nạn thể hiện tình cảm
thái độ thân thiện lành mạnh.
Từ việc lồng ghép hoạt động kể chuyện vào các hoạt động và lồng ghép
chuyên đề giúp trẻ thích thú với giờ học hơn, chú ý lắng nghe và hiệu quả của
tiết dạy được nâng lên, giờ học trở nên nhẹ nhàng hơn.
* Biện pháp 6: Tổ chức hoạt động văn học (kể chuyện) ở mọi lúc
mọi nơi.
+ Giờ đón trẻ và trả trẻ: Tôi cho trẻ được chơi theo ý thích trong đó khu
vực chơi “Kể chuyện cùng bé yêu” tôi luôn khuyến khích trẻ tham gia, trẻ sẽ

được xem hình ảnh các câu truyện mà trẻ thích, được chơi với các con rối mà
trẻ yêu, được nghe các câu chuyện mà trẻ cảm thấy hứng thú. Khi trẻ được
tiếp xúc nhiều lần trẻ sẽ dần cảm nhận được những cái hay cái đẹp trong từng
câu chuyện đó và ngày càng thích thú hơn với các hoạt động văn học.Các con
vật đáng yêu: Tôi dạy trẻ khám phá các nhân vật ngộ nghĩnh qua tranh ảnh.
+ Giờ hoạt động ngoài trời: Hoạt động ngoài trời cũng cần cho trẻ làm
quen với văn học thông qua kể truyện. Trẻ được ngồi dưới tán cây nghe cô kể
các câu chuyện cổ tích, những câu chuyện được gắn với cuộc sống hàng ngày
của trẻ.
+ Giờ hoạt động góc: Ở các khu vực chơi đặc biệt là khu phân vai. Tôi
cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện như: Thỏ mẹ, thỏ con hay
đóng vai mẹ con trong câu truyện “ Chú gấu con ngoan”, làm bác sĩ để khám
răng trong truyện “ Gấu con bị sâu răng”. Hay ở khu vực hoạt động với đồ
vật, cho trẻ xếp nhà, xếp đường đi cho thỏ.
Hay ở khu vực chơi tập cho trẻ xem tranh về những hình ảnh các nhân
vật trong các câu chuyện trong từng chủ đề nhằm giúp trẻ nhớ tên chuyện, nội
dung câu chuyện và các nhân vật trong chuyện.
Ảnh 5: Cô cùng trẻ xem tranh (Phụ lục).
16


Tùy thuộc vào từng chủ đề tôi xây dựng kế hoạch lồng ghép hoạt động
kể chuyện vào hoạt động góc một cách phù hợp.
+ Giờ ngủ: Đối với nhà trẻ trong những giấc ngủ luôn cần sự vỗ về, yêu
thương, cần những lời ru ầu ơ hay những câu chuyện nhẹ nhàng để đưa trẻ
vào giấc ngủ. Nắm được những đặc điểm đó, tôi cùng thường kể chuyện cho
trẻ nghe những câu chuyện. Ví dụ như: truyện cuộc thi trong rừng, thỏ và
rùa…
Qua việc tích hợp hoạt động kể chuyện ở mọi lúc mọi nơi, tôi thấy chất
lượng về hoạt động kể chuyện của lớp tôi đã tăng lên, trẻ thích thú khi mỗi

giờ kể chuyện đến trẻ đã bắt đầu mạnh dạn khi giao tiếp, thích trò chuyện
cùng người lớn, phát triển thêm vốn từ cho trẻ, trẻ nói rõ ràng và biết truyền
đạt được ý của mình.
* Biện pháp 7: Giáo dục trẻ hiếu động, cá biệt.
Cô cần chú ý tới trẻ có tính cách hiếu động vì trẻ hiếu động thể hiện sự
năng động, luôn vận động một cách tò mò, tìm tòi thế giới xung quanh.Vì vậy
trẻ hiếu động rất thông minh nếu không biết cách giáo dục thì sẽ ảnh hướng
xấu đến tâm lý của trẻ, vô tình cản trở sự phát triển của trẻ. Trẻ hiếu động rất
ít nói và không thể tập trung làm bất cứ điều gì vì thế cô có thể giúp trẻ tập
trung vào giờ học.
Ví dụ: Cô gây hứng thú cho trẻ bằng một bài hát để vào câu chuyện
trong khi kể cô có thể kết hợp tranh ảnh hay papow cho trẻ quan sát.
Như chúng ta đã biết con người có hai loại tính cách chính là hướng nội
và hướng ngoại. Đặc điểm của hướng nội là điềm tĩnh, chậm chạp, còn hướng
ngoại là nóng nảy và linh hoạt.Vì thế trẻ hiếu động toàn là những bé có tính
hướng nội, đây là một tính cách của trẻ mà không thể thay đổi được mà chỉ có
thể hướng trẻ vào các hoạt động hữu ích thay vì bắt trẻ ngồi yên.
Trẻ có tính cách hiếu động thể hiện sự năng động luôn vận động tò mò,
tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, khả năng tìm tòi khám phá…Được
nhìn nhận là có lợi cho sự phát triển của trẻ.
Trẻ hiếu động rất thông minh, tuy nhiên nếu không biết cách giáo dục sẽ
ảnh hưởng xấu đến tâm lý của trẻ và vô tình cản trở sự phát triển của trẻ, trẻ
hiếu động rất ít nói nhưng lại như con lật đật, không thể tập trung làm bất cứ
điều gì, ngay cả trong các trò chơi của trẻ. Vì thế để giúp trẻ có thể tập trung
hơn vào hoạt động chơi tập.
-Tạo hứng thú cho trẻ học mà chơi, chơi mà học.
Thay đổi nội dung buổi học cho đa dạng hơn, có thể học xen kẽ giữa
chơi với các trò chơi, cô cần tìm hiểu xem, động lực nào giúp trẻ tập trung
trong thời gian lâu.
Ví dụ:

Trẻ thích học bài này, trẻ thích học theo hình thức nào, hay vì một
nguyên nhân nào khác.
- Thời gian học và chơi phải xen kẽ với nhau: Hãy để cho trẻ chọn bạn
chơi, chọn trò chơi. Lúc trẻ chơi là lúc trẻ thư giãn và sau đó trẻ có thể tập
17


trung tốt hơn khi cô truyền tải kiến thức, cho trẻ một khoảng thời gian nhất
định và nhắc nhở trẻ tập trung vào hoạt động của cô, của lớp. Ngoài ra cô cần
chú ý tới môi trường bên ngoài có ồn ào, nhiều tác động hay không vì đây
cũng là nguyên nhân khiến trẻ mất tập trung không hướng vào cô, hay địa
điểm quan sát, bề bộn, nóng bức hoặc sự mệt mỏi của trẻ.
Đối với những trẻ cá biệt cần giúp trẻ hiểu rõ một số nội quy, quy định
trong các hoạt động học.
Như vậy cô giáo chính là người gần gũi trẻ, nên tôi luôn chủ động:
- Tạo điểm tựa tinh thần tin cậy để có thể trẻ được chia sẻ, tâm sự, bộc
bạch những mong muốn của mình. Tìm cách cho trẻ thể hiện cái “tôi” của
mình trước tập thể, nhìn trẻ bằng sự bao dung nhân từ của người mẹ.
- Hãy trân trọng và biểu dương những nổ lực cố gắng của trẻ qua các
hoạt động.
- Hướng trẻ vào các hoạt động chung của lớp.
Hơn nữa tôi giúp trẻ hòa đồng cùng các bạn trong lớp, tôi giáo dục trẻ
không nên tranh đồ chơi của bạn, không nên đánh nhau trong giờ học… Mỗi
ngày như vậy trẻ sẽ quen và dần dần trẻ nói nhiều hơn, thích học hơn.
* Biện pháp 8: Công tác phối kết hợp với phụ huynh.
Gia đình cũng là môi trường giáo dục quan trọng trong việc giáo dục
toàn diện cho trẻ, vì vậy song song với việc dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, tôi
luôn chú trọng đến việc phối kết hợp chặt chẽ với gia đình trẻ để trao đổi mọi
hoạt động của lớp bằng cách xây dựng góc tuyên truyền cho phụ huynh ở
ngay cửa lớp để dễ quan sát.

Tôi luôn chủ động giúp phụ huynh hiểu rõ kiến thức phát triển ngôn ngữ
thông qua giờ kể truyện, từ đó tạo sự thống nhất giữa nhà trường, giáo viên và
phụ huynh trong việc rèn trẻ. Như chúng ta đã biết, đặc điểm của trẻ 24-36
tháng tuổi là nhu cầu thích được nghe kể chuyện là rất cao, chính vì thế ngoài
việc giáo dục trẻ ở trên lớp, tôi luôn chủ động trao đổi với các bậc phụ huynh
về tầm quan trọng trong việc kể cho trẻ nghe những câu chuyện thích hợp sẽ
có tác dụng rất lớn trong việc phát triển nhân cách ban đầu của trẻ để các bậc
phụ huynh dành thời gian để trò chuyện với trẻ và kể cho trẻ nghe những câu
chuyện khi trẻ ngủ.
Phối hợp với phụ huynh tận dụng nguyên liệu sẵn có tại gia đình để cùng
cô tạo ra các sản phẩm như mô hình sa bàn, sân khấu rối, may con vật… Để
phục vụ cho tiết dạy. Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng
mối quan hệ tốt với phụ huynh, sẵn sàng tư vấn và giúp đỡ kiến thức khi gia
đình có yêu cầu, thông tin đầy đủ cho cha mẹ trẻ về chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ ở trường bằng nhiều hình thức khác nhau như: Họp phụ huynh,
bảng thông báo, góc trao đổi.
Ví dụ: Ở chủ đề : Thế giới thực vật, tết và mùa xuân, bảng tuyên truyền
có những hình ảnh về tết và mùa xuân, câu thơ, câu chuyện, bài hát, đồng dao
có tổ chức giao lưu giữa lớp với phụ huynh.
18


Tôi trao đổi và vận động phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự
với trẻ và lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc,
tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, cha mẹ người thân phải cố gắng phát âm
đúng cho trẻ bắt chước.
Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh
không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ
không chính xác.
Từ những việc làm trên đã mang lại nhiều kết quả đáng mừng, đa số các

bậc phụ huynh đã quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển ngôn ngữ của trẻ
thông qua hoạt động kể chuyện và chú trọng việc phát triển nhân cách toàn
diện cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Bảng 2: Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp đã chọn.
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu
cầu
Nội dung
Số
khảo sát
trẻ
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém
SL

%

SL %

SL %

SL %

SL %

Trẻ hứng thú

nghe cô kể 15 6
40
6
40
3 20
0
0
0
0
chuyện
Trẻ nhớ tên
truyện và các
nhân vật trong 15 5
33
6
40
4 27
0
0
0
0
truyện
Trẻ trả lời
được câu hỏi 15 5
33
7
47
3 20
0
0

0
0
của cô
Trẻ tập kể lại
truyện cùng 15 4
27
6
40
5
33
0
0
0
0

Từ kết quả trên cho thấy, sau khi áp dụng các biện pháp nâng cao chất
lượng hoạt động kể truyện cho trẻ thì học sinh lớp tôi đã có chuyển biến rõ
trong giờ học, trẻ hứng thú hơn tích cực tham gia vào hoạt động kể chuyện.
* Đối với trẻ.
Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tích cực và hứng thú trong các hoạt động
khám phá môi trường xung quanh.
Trẻ lớp tôi đã hứng thú, tích cực tham gia hoạt động, không còn trẻ
lúng túng mà trẻ đã tự tin trong hoạt động kể truyện cùng cô, cùng bạn.

19


Qua giờ học trẻ hứng thú nghe cô kể truyện nhiều hơn: Số trẻ yếu kém
không còn, trẻ tốt tăng, khá tăng lên.
Trẻ đã nhớ tên truyện và các nhân vật trong truyện sau khi học xong

câu chuyện.
Trẻ có thể kể lại truyện cùng cô.
* Đối với bản thân.
- Có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức hoạt động kể truyện nhằm phát
triển ngô ngữ cho trẻ.
- Tạo ra được nhiều các đồ dùng, đồ chơi đẹp có tính sáng tạo phục vụ
cho hoạt động kể truyện.
- Sử dụng được nhiều các biện pháp, hình thức tổ chức tiết học linh
hoạt, sáng tạo.
- Nâng cao công tác phối kết hợp với phụ huynh, đặc biệt bản thân tôi
cần trang bị cho mình vốn kiến thức nhất định, khi hướng dẫn trẻ phải sử
dụng các phương pháp, biện pháp phù hợp với nội dung bài học và đặc điểm
lứa tuổi.Với phương pháp nghiên cứu trong quá trình dạy học, tôi thấy trẻ
thích học hơn, ngôn ngữ của trẻ phong phú, chính xác hơn.
* Đối với đồng nghiệp.
- Qua các buổi dự giờ thao giảng về hoạt động kể chuyện đã luôn có ý
kiến góp ý thẳng thắn để tôi rút kinh nghiệm và học hỏi chị em đồng nghiệp.
- Đưa ra các biện pháp để cùng nhau trao đổi, để thấy được hiệu quả
của biện pháp đó.
* Đối với nhà trường.
- Nhân rộng các biện pháp cả tiến có chất lượng vào hoạt động chơi tập
cho trẻ 24-36 tháng tuổi đến giáo viên để nâng cao chất lượng hoạt động kể
chuyện.
- Có kế hoạch bổ sung đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho hoạt động kể
chuyện.
- Bồi dưỡng nâng cao chất lượng kể chuyện cho giáo viên.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Việc nâng cao chất lượng cho trẻ 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non là
vấn đề rất quan trọng và cần thiết, vì qua hoạt động văn học trẻ phát triển

ngôn ngữ một cách mạch lạc hơn.
Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ cả một quá
trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, khắc phục
khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện
của trẻ, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp
phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước, thực hiện mục tiêu của ngành.
Vậy muốn có được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá
trình thực hiện, cần tạo môi trường hoạt động cho trẻ một cách linh hoạt, sáng
tạo trong nhóm lớp để gây được sự chú ý của trẻ, rèn luyện cho trẻ những kỹ
năng đã có và giúp trẻ khắc sâu kiến thức cũ và mở rộng thêm kiến thức mới.
20


Việc làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động làm quen với tác phẩm
văn học thông qua hoạt động kể chuyện cũng rất hiệu quả, bởi tư duy của trẻ
mầm non là tư duy trực quan minh họa, trẻ được học, được tiếp thu được trải
nghiệm và thể hiện khả năng hiểu biết của mình cũng phải phụ thuộc vào đồ
dùng trực quan. Nếu không có đồ dùng trực quan cô và trẻ không thể thực
hiện được hoạt động kể chuyện một cách có hiệu quả, chính vì thế khi tổ chức
hoạt động kể chuyện tôi phải nghiên cứu kỹ câu chuyện, các nhân vật và
khung cảnh để làm đồ dùng, đồ chơi đẹp và sinh động, phù hợp với đề tài để
thu hút sự hứng thú của trẻ.
Khi có môi trường hoạt động, đồ dùng, đồ chơi đẹp thì cần tổ chức hoạt
động kể chuyện một cách linh hoạt, nhẹ nhàng và đặc biệt phải lấy trẻ làm
trung tâm, trẻ được chơi, được hòa mình vào câu chuyện và các nhân vật mà
trẻ yêu thích.
Trong quá trình tổ chức hoạt động kể chuyện lấy trẻ làm trung tâm bản
thân tôi cũng luôn chủ động việc sử dụng hệ thống câu hỏi đàm thoại để phát
huy tính tích cực của trẻ tôi đi từ câu hỏi đàm thoại dễ cho đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp và phải theo trình tự nội dung của câu chuyện, một câu hỏi

được nhiều trẻ trả lời, cô nên khuyến khích động viên trẻ, trẻ trả lời gần đúng
cô cần cung cấp kiến thức cho trẻ không nên chê bai trẻ và đặc biệt khi trẻ
thuần thục tôi sử dụng câu hỏi nâng cao.
Khi tích hợp hoạt động kể chuyện vào hoạt động khác và cho trẻ làm
quen ở mọi lúc mọi nơi, giúp trẻ khắc sâu nội dung cốt truyện hơn, phát triển
ngôn ngữ cho trẻ nhiều hơn.
Chú trọng vào việc giáo dục trẻ cá biệt đây là biện pháp rất cần thiết khi
trong lớp có đối tượng học sinh các biệt, biện pháp này giúp trẻ ngày càng
hòa đồng với các bạn và phát huy được khả năng vốn có của bản thân trẻ.
Thường xuyên phối kết hợp với các bậc phụ huynh vào tầm quan trọng
của việc nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện cho trẻ 24-36 tháng tuổi, từ
đó phụ huynh nắm rõ được các vấn đề liên quan đến quá trình học của trẻ.
Đặc biệt tôi đã dành được sự tin yêu của phụ huynh, phụ huynh hết sức yên
tâm và phối hợp khi đưa con tới học ở trường mầm non khi đang còn ở độ
tuổi nhà trẻ.
Ngành học mầm non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ đây
là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục nói
chung và việc nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện cho trẻ 24-36 tháng
tuổi nói riêng. Đây là những cơ sở đầu tiên để phát triển nhân cách, ngôn ngữ
và tri thức một cách toàn diện cho trẻ, vậy nên chúng ta phải kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc và giáo dục trẻ theo kiến thức khoa
học, để trẻ phát triển một cách toàn diện.
3.2. Kiến nghị.
Dạy trẻ nhà trẻ làm quen với hoạt động phát triển ngôn ngữ nói chung
và hoạt động kể truyện nói riêng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, vì
vậy để đạt được nhiệm vụ này thật tốt tôi có một số đề xuất sau:
21


* Đối với trường mầm non:

- Nhà trường phải đảm bảo cơ sở vật chất để phục vụ cho việc dạy và
học tốt hơn
- Nhà trường thường xuyên cho giáo viên được cập nhật các thông tin,
tài liệu nâng cao, được tham gia các hội thảo chuyên đề để giáo viên đúc
rút kinh nghiệm và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho từng giáo viên để
khắc phục những thiếu sót trong quá trình giảng dạy.
* Đối với phòng giáo dục và sở giáo dục:
Cung cấp thêm tài liệu, trang thiết bị dạy học đa dạng, phong phú
tạo điều kiện cho trẻ được tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại.
Thường xuyên mở các lớp chuyên đề, đào tạo bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho gáo viên để đáp ứng nhu câu giáo dục
hiện nay.
Trên đây là đề tài khoa học được nghiên cứu dựa trên cơ sở dạy và
học thường xuyên trên lớp. Tôi mong được sự góp ý, giúp đỡ của đồng
nghiệp và các cấp quản lý chuyên môn để đề tài này được hoàn thiện và đi
vào thực tế.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT HẬU LỘC

Phú Lộc, ngày 18 tháng 5 năm 2018

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
(Ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Kim Dung

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư
17/2009/TT- BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của bộ giáo dục và Đào tạo
2. Chuyên đề: “Lấy trẻ làm trung tâm”.
3. Đổi mới hình thức tổ chức nội dung chương trình giáo dục trẻ mầm
mẫu giáo, viện chiến lược và chương trình giáo dục, nhà xuất bản giáo dục
năm học 2006.
4. Đào Như Trang. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục mầm
non. NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Tâm lý học trẻ em. Nhà xuất bản giáo dục.
6. Tài liệu tham khảo trong chương trình bồi dưỡng thường xuyên.
7. Thiết kế các hoạt động học có chủ đích của nhà xuất bản.
8. Tuyển chọn : Trò chơi bài hát, thơ ca, truyện kể, câu đố dành cho trẻ
24-36 tháng tuổi theo chủ đề. Nhà xuất bản giáo dục mầm non.
9. Xem và tham khảo trên mạng internet các tiết mẫu.

23


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG MẦM NON PHÚ LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG VĂN HỌC (KỂ TRUYỆN) CHO TRẺ 24-36 THÁNG
TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON PHÚ LỘC

Người thực hiện: Nguyễn Kim Dung

Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Phú Lộc
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

24


THANH HÓA, NĂM 2018

25


×