Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với văn học cho trẻ 4 5 tuổi tại trường mầm non thị trấn triệu sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.18 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÀM
QUEN VỚI VĂN HỌC CHO TRẺ 4- 5 TUỔI TẠI TRƯỜNG
MẦM NON THỊ TRẤN TRIỆU SƠN”

Họ tên: Lê Thị Tuyến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn
Sáng kiến thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC
NỘI DUNG
SỐ TRANG
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài“Một số biện pháp nâng cao chất lượng làm
1
quen với văn học cho trẻ 4-5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn
Triệu Sơn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
2


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng làm quen với văn
3
học cho trẻ 4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn .
2.2.Thực trạng của việc nâng cao chất lượng làm quen với văn
4
học cho trẻ 4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.3. Các biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với văn học cho
5
trẻ 4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm .
17
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
19
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị

19
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng làm
quen với văn học cho trẻ 4-5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn”.
Sinh thời Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói: “Cái mầm có xanh
thì cây mới vững; cái búp có xanh thì lá mới tươi, quả mới tốt; con trẻ có được
nuôi dưỡng, giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự cường, tự lập” [6]. Thấm nhuần

lời dạy của Bác, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng đến nhiệm vụ giáo dục,
trong đó đặc biệt quan tâm đến giáo dục mầm non, bởi đây là giai đoạn đầu tiên
hình thành một nhân cách con người.
Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học của trẻ rất phong
phú, đa dạng với nhiều hoạt động học khác nhau và được tổ chức với nhiều hình
thức linh hoạt để giúp trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ năng theo nội dung của
chủ đề, giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc sáng tạo, nhân cách con người. Trong đó
hoạt động “Làm quen với tác phẩm văn học” là một trong những hoạt động
không thể thiếu được đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non. Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc
chập chững tập đi, tập nói, đến lúc trẻ biết viết, đọc thì văn học là chiếc cầu nối,
là phương tiện dẫn dắt trẻ nói những tiếng nói, đi những bước đi đầu tiên. Ca
dao, chuyện kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập là
phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê
hương, đất nước, tình yêu mến bạn bè, với những người thân, biết được việc
làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác độc, phê phán những việc xấu,
kính yêu Bác Hồ, yêu quê hương, đất nước, thật thà, ngoan ngoãn, biết giúp đỡ
những người thân xung quanh trẻ … Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là
hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẫm mỹ, phát
triển trí tưởng tượng. Đây là yếu tố cần thiết góp phần giúp trẻ phát triển nhân
cách toàn diện.
Làm quen với văn học là một loại hình nghệ thuật, việc tạo cho trẻ được
tiếp xúc với tác phẩm văn học, không những giúp trẻ nhận thức thế giới xung
quanh mà còn phát triển khả năng tư duy chú ý, ghi nhớ. Đặc biệt còn giúp trẻ
phát triển mạnh mẽ về ngôn ngữ. Trẻ được cảm nhận, đồng điệu với niềm vui,
nỗi buồn của những nhân vật trong truyện; cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên qua tác
phẩm thơ, ca dao, tục ngữ…
Mặt khác về sự phát triển chú ý của trẻ ở độ tuổi 4 – 5 tuổi thì cả 2 dạng
chú ý có chủ định và không có chủ định đều phát triển mạnh [2]. Vì vậy đối
tượng nào gây sự chú ý và thích thú đến với trẻ thì trẻ sẽ tập trung chú ý và nhớ
lâu hơn. Bên cạnh đó ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống


nghĩa là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hi ện
tượng đang xảy ra trước mắt trẻ, vì thế thông qua câu chuyện, bài thơ, sử dụng
hình ảnh trong giáo án điện tử kết hợp các hiệu ứng của cô giúp trẻ hứng thú,
hiểu được hành động tính cách của nhân vật khi trẻ được làm quen với tác phẩm
văn học. Thông qua các tác phẩm văn học, trẻ cũng được chơi với các đồ dùng
như: rối tay, rối dẹt, rối bóng; xem tranh ảnh, băng đĩa hình; được đóng kịch, thể
hiện các vai diễn ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, vui tươi và hồn nhiên; được kể chuyện
1


sáng tạo, đọc thơ diễn cảm và hơn hết trẻ hiều được cái hay-cái đẹp, cái tốt- cái
xấu, hiểu được những lời thơ, ý thơ để từ đó nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ...
Ý thức được tầm quan trọng của các tác phẩm văn học đối với trẻ nên tôi
đã cố gắng rất nhiều trong việc lựa chọn tác phẩm cũng như phương pháp để dạy
trẻ. Tuy nhiên, kết quả vẫn chưa thực sự như ý muốn, trẻ vẫn chưa thực sự hứng
thú với hoạt động học. Trẻ thường hay làm việc riêng khi cô đang kể chuyện,
thường không nghe hết câu chuyện đặc biệt với những câu chuyện trẻ đã biết.
Từ đó, trong suy nghĩ của tôi luôn đặt ra những câu hỏi: “Tại sao trẻ chưa hứng
thú với hoạt động làm quen văn học ?”, “Làm thế nào để trẻ hứng thú và làm
quen với các tác phẩm văn học một cách tích cực hơn?”…Để trả lời những câu
hỏi này, tôi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng
làm quen với văn học cho trẻ 4-5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu
Sơn” để nghiên cứu và áp dụng cho trẻ trong lớp học do tôi phụ trách.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm tìm hiểu thực trạng chất lượng về việc nâng cao chất lượng làm
quen với văn học cho trẻ 4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn. Từ
đó đưa ra một số biện pháp hiệu quả nhất nâng cao chất lượng làm quen với văn
học cho trẻ 4- 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

- Nghiên cứu việc nâng cao chất lượng dạy trẻ 4- 5 tuổi lớp B5 làm quen
với văn học ở Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp khảo sát tiết dạy.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2


2.1.Cơ sở lí luận của việc nâng cao chất lượng làm quen với văn học
cho trẻ 4 – 5 tuổi tại Trường Mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
Trẻ mầm non là lứa tuổi cần sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ, cô giáo và
những người xung quanh. Ở giai đoạn này, những sự vật, hiện tượng xảy ra xung
quanh trẻ đều có tác động rất lớn đến thói quen và hành vi của trẻ. Vì vậy, cha
mẹ và cô giáo đều mong muốn dạy trẻ những điều hay, lẽ phải, những thói quen
tốt và những hành vi có đạo đức để hình thành nhân cách cho trẻ sau này.
Thông qua các tác phẩm văn học là những bài thơ, câu chuyện có ý nghĩa
giáo dục sẽ giúp trẻ hiểu và ghi nhớ rất nhanh những việc tốt, việc không tốt,
việc nên làm, việc không nên làm một cách dễ dàng. Chính vì vậy, việc giúp trẻ
có hứng thú trong hoạt động làm quen với văn học giữ một vai trò hết sức quan
trọng trong quá trình giáo dục trẻ.
Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc
cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô
giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội
dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng
thú dối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái

đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất
văn học nghệ thuật như đọc thơ. Kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là
tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp
phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Trong mỗi tác phẩm văn
học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người
được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn
học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vủ trụ mà
trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của
trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố,…Qua tác
phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình
cảm gia đình, tình bạn tình cô cháu,…Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng
buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng
nghĩa xóm. Văn học có thể cần đề cập đến những lực lượng siêu nhiên như thần
linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng
trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự
phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần. Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số
lượng văn học, có những hiểu biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả
cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau.
Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các
thể loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách
diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng
nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ,
chuyện, nhân vật, hình ảnh…, giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc
lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của
trẻ. Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các
mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa
3


lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật; Giữa không khí, âm sắc,

giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn học. Chưa yêu cầu trẻ
phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi trẻ phân biệt quan hệ chính
phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong
các mối liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm.
2.2. Thực trạng của việc nâng cao chất lượng làm quen với văn học
cho trẻ 4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.2.1. Thuận lợi:
Trường đóng trên địa bàn Thị Trấn với phòng lớp rộng rãi, thoáng mát.
Trẻ lớp tôi phụ trách đều cùng độ tuổi, khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, tò mò
ham hiểu biết.
Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đến việc mua sắm đồ dùng phục vụ
cho hoạt động làm quen với văn học, lớp học được trang bị những phương tiện
nghe, nhìn rất hiểu hiệu với việc tổ chức cho trẻ làm quen với văn học. Ban giám
hiệu cùng tổ trưởng chuyên môn tranh thủ thời gian dự giờ bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho giáo viên.
Nhà trường quan tâm đến môi trường văn học, hình ảnh minh họa cho các
câu chuyện cổ tích được nhà trường đấu mối mời người về vẽ trên các mảng
tường xung quanh trường và các đường lên cầu thang, khu tường ngoài lớp học.
qua đó trẻ cũng cảm nhận được dần về thế giới cổ tích, những nhân vật huyền bí
trong các câu chuyện.
Phụ huynh quan tâm đến việc học của con em, phối hợp với giáo viên
trong việc giảng dạy trẻ, hỗ trợ các nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi
phục vụ cho các hoạt động.
Bản thân có nhiều cố gắng trong học hỏi kinh nghiệm giảng dạy qua dự
giờ đồng nghiệp, nghiên cứu tài liệu.
Bản thân sử dụng khá thành thạo máy tính, biết tìm tòi nguồn tài liệu để
thiết kế bài giảng điện tử.
2.2.2. Khó khăn:
Bên những mặt thuận lợi trên vẫn còn một số khó khăn:
Khả năng nhận thức của trẻ không đồng đều. Đầu năm, có một số trẻ lần

đầu tiên mới ra lớp, chưa quen với nề nếp của lớp, thích chơi tự do, một số trẻ
khác còn hay nói leo, nói trống không. Một số trẻ nhút nhát ngại phát biểu, nói
nhỏ. Một số trẻ lại rất hiếu động nên cũng hạn chế khả năng tiếp thu của trẻ.
Tuy Ban giám hiệu quan tâm đến việc bổ sung đồ dùng đồ chơi nhưng các
học liệu cho trẻ sử dụng trong hoạt động kể chuyện, đọc thơ còn ít, chưa phong
phú, đa dạng. (Tranh ảnh, băng đĩa, dối tay, dối bong, nhạc nghệ thuật…)
Phần lớn trẻ đọc thơ hay kể truyện thường theo kiểu thuộc lòng, giọng
đọc, kể chưa diễn cảm, chưa biết thể hiện tình cảm khi đọc, kể .
Bản thân đôi khi tổ chức cho trẻ làm quen với văn học còn chưa mấy linh
hoạt các hình thức tổ chức nên trẻ chưa hứng thú mấy với môn học và kết quả ở
trẻ chưa cao.
4


Từ đầu năm khi được giao đứng lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi B5 với sỹ số lớp
là 32 trẻ, tôi đã tiến hành tìm hiểu khả năng của trẻ với nội dung khảo sát như
sau:
Bảng khảo sát lần 1:
Số Số
KẾT QUẢ
trẻ trẻ
Nội dung
Đạt
Chưa đạt
ra khảo
khảo sát
Số
Số
Tỷ
lệ

%
Tỷ lệ %
lớp sát
lượng
lượng
1. Nhớ tên truyện, tên
17
53%
15
47%
bài thơ
2. Hiểu nội dung bài
18
56%
14
44%
thơ, câu chuyện
3. Hứng thú với môn
32
32
16
50%
16
50%
học
4. Kỹ năng đọc, kể
13
40,6%
19
59,4%

diễn cảm
5. Kỹ năng đóng kịch
12
37,5%
20
62,5%
6. Kỹ năng kể chuyện
12
37,5%
20
62,5%
theo tranh
Qua bảng khảo sát tỉ lệ đầu năm, tôi nhận thấy khả năng hứng thú của trẻ
còn ít nên các kỹ năng cần thiết trong một họt động làm quen với văn học của
trẻ cũng không cao. Vì vậy để khắc phục và giải quyết kết quả thực trạng trên,
tôi đã suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp giúp trẻ hứng thú trong hoạt động làm
quen với văn học tại lớp 4 – 5 tuổi như sau:
2.3. Các biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với văn học cho trẻ
4 – 5 tuổi tại Trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn.
2.3.1.Tạo môi trường cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học phải thường xuyên.
Như đã nói ở trên nhà trường đã tạo được một môi trường ngoài lớp học
đầy hấp dẫn về thế giới cổ tích. Trong lớp học tôi dành một mảng trang trí hình
ảnh về các bài ca dao, tục ngữ, các bài đồng dao tạo vẻ ngộ nghĩnh đáng yêu và
góp phần giúp trẻ có thêm hiểu biết về các bài ca dao, tục ngữ đó.
Hình ảnh trang trí mảng tường có gắn các bài ca dao, đồng dao
Ngoài ra tôi còn sưu tầm các sách văn học, các học báo, tạp chí, lịch cũ,
nguyên liệu cho trẻ tự làm sách để xây dựng “Góc thư viện” mang nội dung văn
học, như các loại chuyện tranh phong phú theo chủ đề cho trẻ xem, phía trên

góc thư viện là hình ảnh minh họa cho truyện Cây khế, một câu chuyện giáo dục
trẻ không nên tham lam, ăn ở hiền lành.
5


Hình ảnh góc thư viện (góc sách) của lớp
Tôi chuẩn bị mũ múa các loại liên quan đến các nhân vật trong các câu
chuyện để trẻ có thể tham gia đóng kịch tại góc nghệ thuật hoặc tham gia trên
hoạt động học.
Hình ảnh mũ múa để ở góc nghệ thuật
2.3.2. Luyện giọng đọc, kể diễn cảm thu hút sự chú ý ở trẻ.
Trẻ cảm thụ ngôn ngữ nghệ thuật bằng cách nghe đọc kể. Do vậy tôi luôn
sử dụng mọi sắc thái giọng kể của mình làm phương tiện để đọc kể biểu cảm
khác nhau làm cho tác phẩm cất lên tiếng nói, tạo cho tác phẩm bức tranh tương
ứng, hấp dẫn đối với trẻ. Nếu như việc gây hứng thú trong mọi hoạt động học là
rất quan trọng thì với văn học việc chuẩn bị giọng đọc, kể diễn cảm của cô cũng
rất quan trọng, bởi có những cách gây hứng thú kích thích được sự chú ý của trẻ
tốt nhưng khi trẻ nhập tâm để nghe vào giọng đọc kể của cô lại không hấp dẫn
thì trẻ sẽ dễ bị chán hay nếu trẻ có xem trên màn hình hoạt cảnh có nội dung
minh họa thơ, truyện thì cũng chỉ là xem mà trẻ ít nhập tâm vào lời đọc, kể của
cô (do đọc, kể không diễn cảm). Do vậy, khi muốn trình bày một tác phẩm tôi
luôn tìm hiểu, suy nghĩ và nghiên cứu tác phẩm để hiểu được ý nghĩa mà tác giả
muốn gửi vào tác phẩm. Tôi luôn phân biệt giữa giọng đọc và giọng kể cố gắng
nhập tâm vào tác phẩm để truyền tải tới người nghe tất cả những thông điệp mà
tác giả muốn gửi gắm qua giọng đọc, kể diễn cảm, sắc thái khuôn mặt cử chỉ
điệu bộ, ánh mắt…ngữ điệu giọng kể là một yếu tố vô cùng quan trọng vì nó là
phương tiện của việc truyền tải nghệ thuật, cường độ của giọng kết hợp với cử
chỉ nét mặt.
Ví dụ: Truyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” giọng của bác gấu kể với
giọng ồm ồm, chậm; giọng Thỏ trắng nhẹ nhàng trong trẻo, giọng Thỏ nâu gắt

gỏng tỏ vẻ khó chịu
Truyện: “Dê con nhanh trí”, giọng của Dê mẹ dịu dàng, giọng của Chó sói
thì khàn khàn, giọng của Dê con thì dõng dạc, dứt khoát thể hiện sự can đảm,
dũng cảm và có phần lên giọng đe dọa Sói
Hay với bài thơ “Giữa vòng gió thơm”
Đọc diễn cảm: Tám câu đầu với giọng chậm rãi thể hiện sự băn khoăn lo
lắng, 4 câu thơ tiếp đọc với nhịp điệu bình thường, nhấn mạnh vào các từ “nhỏ
nhắn”, “phe phẩy”, “đều đều”, “rung rinh”. Các câu thơ tiếp theo đọc chậm rãi
thể hiện tình cảm yêu mến quan tâm chăm sóc. Bài thơ chủ yếu đọc theo nhịp:
2:2, chỉ có một số câu đọc theo nhịp: 1.1.1 Này/ chú/ gà Nâu.
Với Truyện “Hoa mào gà” giọng gà mái kể với ngữ điệu vui phấn khởi.
Giọng của cây hoa mào gà chậm.
Cứ như vậy tôi tự rèn luyện giọng đọc, giọng kể của mình và sau một thời
gian tôi nhận thấy bản thân đã có nhiều tiến bộ về giọng đọc, giọng kể diễn cảm,
tư tin, thoải mái hơn, trẻ hứng thú nghe cô kể chuyện.
2.3.3. Tạo hứng thú trong việc hướng dẫn trẻ làm quen văn học trên
tiết học chính thức.
6


Gây hứng thú cho trẻ là rất quan trọng đối với mỗi hoạt động giáo dục và
đối với hoạt động làm quen với văn học cũng vậy. Nếu việc gây hứng thú tốt sẽ
là một trong những tiền đề tạo ra sự thành công cho tiết dạy, bởi trẻ có chú ý vào
các hoạt động của cô thì trẻ mới có thể lĩnh hội hết được những kiến thức cũng
như các kỹ năng cần thiết trong tiết học. Qua đó trẻ cũng rút ra được những bài
học bổ ích từ những câu chuyện, bài thơ đó.
2.3.3.1. Gây hứng thú cho trẻ qua giới thiệu vào bài.
Giáo viên khéo léo thu hút trẻ tham gia hoạt động bằng cách cho trẻ chơi
một trò chơi nhỏ hoặc sử dụng bài hát, câu đố, tình huống nhằm giúp trẻ tìm
kiếm, phát hiện vấn đề, sau đó cùng trẻ trò truyện về vấn đề đó.

Ví dụ: Truyện: “Quả táo của ai” tôi cho trẻ xem một đoạn hoạt cảnh
phim cảnh thỏ, quạ, nhím đang cãi nhau rồi cô hỏi trẻ: Con vừa xem hình ảnh
gì? Các con có muốn biết vì sao thỏ, quạ, nhím lại cãi nhau không? Muốn biết vì
sao lại có chuyện đó xảy ra cô mời các con cùng lắng nghe câu chuyện: “Quả
táo của ai”.
Hay với chuyên: “Cậu bé mũi dài”: Tôi sử dụng rối tay “Xin chào các
bạn! Đố các bạn biết mình là ai nào? Mình là Cậu bé Mũi Dài.
Có một câu chuyện rất hay nói về chiếc mũi của mình đấy! Thế các bạn đã biết
chưa? Hôm nay mình sẽ kể cho các bạn nghe nhé: Truyện “Cậu bé Mũi Dài”.
Hoặc với bài thơ: “Thỏ Bông bị ốm”. Thay vì các hình thức trên tôi có thể
cho trẻ hát bài : “Mời bạn ăn”. Sau đó trò chuyện cùng trẻ:
+ Các con vừa hát bài gì?
+ Trong bài hát có nhắc đến những loại thức ăn gì? Vì sao phải ăn đầy đủ
các chất như vậy?
+ Đúng rồi để có cơ thể khỏe mạnh các con phải ăn đầy đủ các chất dinh
dưỡng và còn phải biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, ăn chín uống sôi, trước khi ăn
phải rửa tay sạch nữa đấy.
+ Các con biết không vậy mà có một bạn Thỏ bông vì không biết giữ gìn
thân thể, ăn uống không hợp vệ sinh ăn quả xanh, uống nước chưa nấu nên đã bị
ốm đấy. Để biết được bạn thỏ bông bị ốm như thế nào hôm nay cô và các con sẽ
cùng tìm hiểu bài thơ “ Thỏ Bông bị ốm” sẽ rõ nhé !
Tôi cũng có thể tổ chức hình thức vào bài dưới dạng trò chơi. Ví như câu
chuyện “Cây khế”, tôi có thể cho trẻ chơi trò chơi “Cái túi kỳ diệu”, bên trong
túi tôi bỏ một chùm khế, trẻ sờ và đoán trong túi có gì? Số lượng bao nhiêu?
Các con ạ có một câu chuyện rất hay mà nhờ vào những quả khế như thế
này đã mang lại hạnh phúc, ấm no cho người hiền lành tốt bung và cũng vì quả
khế mà khiến cho kẻ tham lam bị trừng trị. Các con có muốn biết là câu chuyện
gì không? Vậy xin mời các con sẽ cùng lắng nghe cô kể câu chuyện “Cây khế”.

2.3.3.2. Thay đổi hình thức tổ chức để trẻ không bị nhàm chán.

Đối với mỗi loại tiết tôi dành thời gian nghiên cứu tác phẩm để có
cách thay đổi các hình thức tổ chức cho linh hoạt, không dập khuôn ở hình
thức tổ chức. Để tạo không khí sôi nổi, hứng thú, vui tươi nhẹ nhàng trong
7


tiết học thu hút trẻ một cách thích thú, tôi còn tổ chức tiết học thành một
chương trình vui có những trò chơi hấp dẫn như chương trình “Vườn cổ
tích”, “Những nhà thông thái” hoặc chương trình: “Câu lạc bộ bé yêu thơ”,
hay “Tài năng nhí”. Với việc tổ chức dưới dạng chương trình đòi hỏi người
giáo viên cũng thật linh hoạt, giọng người dẫn chương trình cũng phải
truyền cảm, hấp dẫn trẻ và đặc biệt chú ý xuyên suốt tiết học là mình đang
như một người dẫn chương trình, tránh tình trạng giới thiệu đầu hoành
tráng mà cái kết bị cụt hoặc đôi khi quên kết thúc chương trình.
Ví dụ: Đề tài Truyện: “Cáo, Thỏ và Gà trống”. Đây là một chuyện trẻ
đã biết. Tôi tổ chức dưới dạng chương trình “Vườn cổ tích”.
Vào chương trình là bài hát Vườn cổ tích
Cô giới thiệu chương trình có 3 phần:
Phần 1: Câu chuyện bí mật
Phần 2: Thử trí thông minh
Phần 3: Tài năng của bé.
+ Ở phần 1:
Tôi cho trẻ nghe tiếng khóc. Hỏi trẻ ai đang khóc đấy nhỉ? Rồi cô và
trẻ cùng hỏi: Bạn là ai? Vì sao bạn khóc?
Lúc này cô cho xuất hiện Thỏ đang ngồi khóc trên màn hình. Chúng
ta hãy xem vì sao Thỏ khóc nhé. Rồi cô cho trẻ nghe giọng của Thỏ cô đã
ghi âm: “Hu.hu.hu. Làm sao mà tôi không khóc được cơ chứ. Tôi có....khỏi
nhà”.
Sau đó cho trẻ đoán tên truyện, rồi cô cho xem hình ảnh phông truyện:
Cáo, Thỏ và Gà trống. Cô chốt Câu chuyện: Cáo, Thỏ và Gà trống chính là

câu chuyện bí mật ngày hôm nay đã được lật mở.
Cô kể diễn cảm cho trẻ nghe truyện 2 lần kết hợp cử chỉ điệu bộ và
có kết hợp cho xem hình ảnh mình họa trên máy chiếu.
Giảng nội dung truyện, giảng từ mới, từ khó
+ Ở phần 2:
Đây là phần giáo viên đưa các câu hỏi đàm thoại cùng trẻ về nội
dung câu chuyện. Ở đây tôi cho trẻ đại diện trong đội lên nhấp chuột để
chọn ô số và cô đọc câu hỏi sau ô số, sau thời gian suy nghĩ của cả đội là
30 giây, cô gọi đại diện trong đội sẽ trả lời câu hỏi, có thể cho trẻ khác bổ
sung hoặc nói lại cho rõ ràng. Mục đích để trẻ được làm việc theo nhóm,
đồng thời kích thích trẻ suy nghĩ trả lời, trẻ được nói nhiều hơn. Ở đây tôi
còn lồng thêm cả hình ảnh mặt méo biểu thị cho việc mất lượt chơi, nếu
đội nào quay vào này thì quyền chọn ô số sẽ dành cho đội tiếp theo.
+ Ở phần 3 :
Đây là hoạt động đọc, kể diễn cảm hoặc đóng kịch của trẻ.
8


Cuối chương trình bao giờ cũng là phần nhận xét, giáo dục và kết
thúc chương trình.
- Bên cạnh đó việc thay đổi hình thức tổ chức lồng ghép xen kẽ các nội
dung thích hợp và các trò chơi nhẹ nhàng cũng rất cần thiết để trẻ hứng thú vào
hoạt động.

Ví dụ: Truyện “Dê con nhanh trí”, xác định đây là một loại tiết hầu
hết trẻ chưa biết nên tôi tổ chức đàm thoại sâu hơn, hệ thống câu hỏi cũng
ngắn gọn, dễ hiểu và đi đúng nội dung câu chuyện, cuối hoạt động tùy theo
khả năng của trẻ mà cô có thể cho trẻ tập kể lại chuyện hoặc kết thúc tôi có
thể tổ chức thêm trò chơi “Lấy cỏ cho Dê”. Qua đó trẻ cảm nhận được rằng
một bạn thông minh, ngoan ngoãn, biết nghe lời mẹ như Dê con thì các bạn

sẽ yêu mến và lấy thức ăn (cỏ) giúp Dê. Từ đó hình thành ở trẻ ý thức về
việc cần phải học tập theo tính cách của Dê con.
Hay khi dạy trẻ đọc thơ, tôi có thể cho trẻ được đọc thơ dưới nhiều hình
thức: đọc luân phiên theo tổ, nhóm; thi đua xem tổ nào đọc hay; đọc theo kiểu
phân vai từng nhân vật; đọc tiếp sức theo yêu cầu của cô, đọc đối đáp giữa cô và
trẻ, giữa trẻ với nhau hoặc một nhóm đọc nhóm kia minh họa…Còn với chuyện
thì tôi có thể cho trẻ kể chuyện theo tuyến nhân vật hình thức cả lớp hoặc theo
nhóm, cá nhân kể toàn bộ truyện hoặc khi trẻ đã thành thạo trẻ có thể đóng kịch.
2.3.3.3. Sử dụng đồ dùng trực quan để gây hứng thú cho trẻ:
Đồ dùng càng đơn giản, ngộ nghĩnh, gần gũi thì càng thu hút trẻ, nhất là
những sản phẩm do trẻ làm ra. Vì thế, những đồ dùng, đồ chơi tự tạo thường rất
hấp dẫn trẻ. Đồ dùng trực quan cô sử dụng có thể là mô hình, rối tay, rối dẹt,
băng hình, video, sa bàn...
Ví dụ 1: Với chuyện: “Quà tặng mẹ”, tôi đã sử dụng sa bàn quay, ở mỗi
góc của sa bàn là hình ảnh sau một đoạn chuyện. Cụ thể là: Cảnh 1 có hình ảnh
Gấu anh đến gọi Gấu em dậy đi siêu thị, sau đó tôi điều khiển rối dẹt nâng Gấu
em ngồi dậy vui thích khi được đi siêu thị. Quay sa bàn sang cảnh 2 là cảnh anh
em nhà Gấu đang ở siêu thị, ở đây có nhiều đồ được xếp dính trên san bàn theo
từng quầy hàng. Quay sa bàn sang cảnh 3 là anh em nhà Gấu làm bánh chờ mẹ
về, sau đó cô kể đoạn có tiếng gõ cửa, điều khiển Gấu em chạy ra mở cửa (cánh
cửa mở được), rồi điều khiển cho bố xuất hiện, sau đó mẹ về. Cảnh 4 là cả nhà
Gấu đang ngồi trên bàn hát và cho cả lớp hát chúc mừng sinh nhật cùng gia đình
Gấu.
Ví dụ 2: Đề tài: Thơ: "Em yêu nhà em"[5], chủ đề gia đình.
Trước khi vào bài dạy tôi cho trẻ tham quan sa bàn cô đã chuẩn bị gồm
có: Một ngôi nhà, xung quanh ngôi nhà có vườn rau, ao cá, vườn cây ăn quả, có
đàn chim, gà, vịt đang kiếm mồi... để trẻ tự do nhận xét về khung cảnh thiên
nhiên xung quanh ngôi nhà. Tiếp theo tôi cho 1, 2 trẻ kể về khung cảnh thiên
nhiên xung quanh ngôi nhà,và tình cảm của trẻ đối với ngôi nhà của mình.Sau
đó tôi mới cho trẻ về chỗ ngồi và làm quen với bài thơ "Em yêu nhà em".


9


Có thể sử dụng một số nguyên liệu có sẵn như: ống chỉ, lõi giấy, hộp giấy,
chai lọ…để tạo thành một số nhân vật, vẽ thêm mắt,mũi, gắn râu, tóc… vẽ áo
quần hoặc làm thành một số con vật. Sau đó, lồng vào các ngón tay và cho trẻ
đóng vai nhân vật đó.
Sưu tầm tranh ảnh và phân loại theo từng chủ đề. Sau đó, tập hợp thành
ngân hàng hình ảnh với đủ loại hình ảnh, tên gọi khác nhau.
+ Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động làm quen
với văn học là hết sức cần thiết, bởi trên PowerPoint tạo hiệu ứng hình động cho
các bức tranh, khi trình chiếu, các nhân vật có thể nhảy múa, cử động làm cho
trẻ vô cùng thích thú. Tôi tranh thủ thời gian lên mạng để lấy các tiếng động phù
hợp với câu chuyện, bài thơ sau đó lồng vào giáo án powerpoint trình chiếu như
tiếng suối chảy hay tiếng chim hót, tiếng gió, tiếng cành cây gẫy...Với hình thức
này tôi thấy trẻ rất hứng thú.
Ví dụ: Bài thơ “Mưa", chủ đề: Các hiện tượng tự nhiên.
Tôi cho trẻ xem trên màn hình các hiện tượng tự nhiên thật sinh động. Sau đó tôi
cho trẻ xem hình ảnh trời mưa: mưa phùn, mưa to...Trẻ rất bất ngờ khi nhìn thấy
bầu trời tối sầm lại, mây đen ùn ùn kéo tới, tiếp theo là sấm chớp và những hạt
mưa rơi xuống.
Còn đây là hình ảnh trẻ đang được làm quen với câu chuyện: “Cáo, Thỏ
và Gà trống”. Ở đây trẻ được nghe chuyện kết hợp với xem hình ảnh động minh
họa trên màn hình. Sau đó trẻ được chơi trò chơi trò chơi “Hỏi xoáy đáp xoay”
để lật mở ô số và trả lời âu hỏi sau ô số.
Trẻ nghe kể chuyện trên màn hình
Trẻ chơi trò chơi “hỏi xoáy đáp
xoay”


Tôi còn sưu tầm các tranh có hình ảnh đẹp, ngộ nghĩnh, cho trẻ quan sát
và trả lời các câu hỏi gợi mở của cô, sau đó gợi ý trẻ kể một câu truyện theo các
bức tranh cô đã chuẩn bị theo chủ đề. Ví dụ: Chuẩn bị 4 bức tranh :

10


Khỉ trồng được cây chuối

Khỉ tưới nước cho cây

Khỉ đứng ngắm cây chuối đã ra buồng
Khỉ lấy chuối mời bạn Thỏ cùng ăn
Cô cho trẻ quan sát từng tranh và đặt các câu hỏi như: “Bạn Khỉ đang làm
gì?”, “Tại sao bạn Khỉ lại phải tưới nước cho cây ?”, “cây chuối lớn lên xanh tốt
và ra buồng là nhờ có ai ?” “Bạn khỉ đã làm gì với những quả chuối của mình
làm ra?”… Sau đó, cô gợi ý để trẻ kể một câu truyện theo nội dung của 4 bức
tranh ấy.
Khi được quan sát đàm thoại trẻ lớp tôi đã kể được những lời kể khác
nhau theo trí tưởng tượng của trẻ, ví dụ như bạn Quân kể: “Khỉ trồng cây chuối,
Khỉ tưới nước cho cây, cây chuối ra nhiều quả, rồi khỉ lấy ăn và khỉ cho bạn ăn”.
Nhưng cũng có bạn kể rõ ràng hơn, câu từ hay hơn như bạn Nhi kể: “Khỉ thích
ăn chuối nên khỉ trồng và chăm sóc cho cây chuối, rồi cây chuối lớn lên ra quả.
Khi chuối chín Khỉ lấy chuối ăn và mời bạn Thỏ ăn cùng”. v.v.v...
Dù thế nào đi nữa thì đây là một hình thức tốt để kích thích trẻ tưởng
tượng,
sáng tạo ở trẻ và tôi không quên khen ngợi trẻ trước cả lớp.
+ Trong lúc dạy trẻ đóng kịch thì việc chuẩn bị đầy đủ dồ dùng cho trẻ
đóng kịch cũng rất quan trọng.
Ví dụ như chuẩn bị mũ sói, khăn choàng màu đỏ, quần áo bà già, cái dìu

làm bằng giấy bìa cứng, làm đường đi xung quanh có cây, hoa, ngôi nhà của bà
để trẻ tham gia đóng kịch “Cô bé quàng khăn đỏ”[5].
Hình ảnh trích đoạn cô bé quàng khăn đỏ gặp chó sói
Để đồ dùng trực quan phát huy hết hiệu quả thì khi sử dụng phải luôn kết
hợp với lời nói một cách linh hoạt, không đưa ra trước hoặc sau sẽ làm giảm
hứng thú của trẻ và không nên sử dụng nhiều loại đồ dùng trong một hoạt động
sẽ làm phân tán sự chú ý khi trẻ chưa kịp cảm nhận hết giá trị của đồ dùng đó.
2.3.3.4. Tạo tình huống có thật để gây sự chú ý cho trẻ.
Ví dụ 1: Chuẩn bị một chậu nước bên trong đã thả sẵn 1 chú kiến, sau đó
cho trẻ quan sát. Trong quá trình trẻ quan sát cô đặt một số câu hỏi như: “các
con thấy gì trong chậu nước?”, “ chú kiến bị làm sao?”, “ các con có biết cảm
giác của chú kiến lúc này như thế nào không ?”. Sau đó, cô thả 1 chiếc que nhỏ
11


để kiến bám vào và bò ra khỏi chậu nước. Cô đặt tiếp câu hỏi: “nhờ có cái gì mà
chú kiến đã thoát khỏi sự nguy hiểm?”. Sau khi đã cho trẻ quan sát sự việc, cô
hướng dấn trẻ kể truyện về chú kiến theo trình tự sự việc mà trẻ đã nhìn thấy và
gợi ý để trẻ đặt tên cho câu truyện câu mình.
Ví dụ 2: Để giúp trẻ có thể kể truyện về cây đỗ, trước đó, cô cho trẻ mang
hạt đỗ ra ươm vào một ô đất nhỏ, hằng ngày cho trẻ tưới nước và hướng dẫn trẻ
quan sát xem hạt đỗ sẽ phát triển như thế nào. Đến khi hạt đỗ nảy mầm và ra lá ,
cô hỏi trẻ một số câu hỏi như: “hàng ngày hạt đỗ được chăm sóc như thế nào?”,
“được chăm sóc hạt đỗ đã phát triển ra sao?”. Sau đó, cô gợi ý cho trẻ kể truyện
về cây đỗ.
2.3.3.5. Đặt câu hỏi gây sự chú ý cho trẻ
- Các câu hỏi cần ngắn gọn, dễ hiểu, giúp trẻ diễn đạt ý tưởng của mình.
Câu hỏi cô đưa ra phải sát với nội dung đề tài, không đặt câu hỏi quá khó đối với
trẻ. Câu hỏi sát thực tế sẽ giúp trẻ tư duy và trả lời chính xác hơn. Có khi cả lớp
cùng trả lời một câu hỏi, có khi cô hỏi cả nhóm để có được nhiều ý kiến khác

nhau. Hướng dẫn trẻ diễn đạt đủ câu, đủ ý, mạch lạc, rõ ràng[1].
Khi trẻ trả lời câu hỏi cô không gò bó trẻ trả lời dập khuôn mà luôn gợi ý
để trẻ có nhiều ý kiến khác nhau như: “Ai có ý kiến gì không ?” hay “Nếu là
con, con sẽ làm thế nào ?”…
Ví dụ : Với bài thơ “Ông mặt trời” của nhà thơ Ngô Thị Bích Hiền[6],
giáo viên có thể hỏi trẻ: “con nhìn thấy mặt trời ở đâu?”, “ông mặt trời như thế
nào?”...cho trẻ trả lời theo cách hiểu của trẻ.
- Đặc biệt với trẻ nhút nhát, cô thường xuyên gọi trẻ phát biểu hoặc cho
trẻ nhắc lại câu trả lời của bạn để giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn. Nếu trẻ trả lời
đúng, cả lớp sẽ tuyên dương, nếu trả lời không đúng, cô gợi ý cho trẻ trả lời lại,
không phủ nhận ý kiến của trẻ.
- Đối với trẻ nói ngọng hoặc phát âm không chính xác, giáo viên cần trao
đổi với phụ huynh rèn thêm cho trẻ ở nhà.
2.3.4. Sử dụng nghệ thuật trong việc cho trẻ làm quen với văn học.
* Sử dụng nghệ thuật múa rối:
Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng trẻ
chóng nhớ, mau quên. Cho nên trong tiết dạy đồ dùng trực quan là rất cần
thiết, mà đồ dùng phải đẹp hấp dẫn trẻ. Có vai trò rất quan trọng trong việc
truyền thụ kiến thức cho trẻ.
Việc sử dụng múa rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ tạo
điều kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối, một môn nghệ thuật truyền
thống của dân tộc.
Ví dụ 1: Thơ “Chim chích bông” [5]tôi làm con chim bằng rối que, khi sử
dụng con rối này rất dễ chú chim bay trên các ngọn cây, rồi sà xuống luống rau
Trong hoạt động này trẻ rất thích.
Ví dụ 2: Với câu truyện “Chú thỏ thông minh” tôi sử dụng mô hình sân
khấu là một khu đầm lầy nhỏ, có hoa, cỏ, cây….nhân vật trong câu truyện
được cách điệu hóa, thỏ mặc quần áo, đi bằng 2 chân …Khi tôi dạy, tôi dùng
12



cánh tay lồng vào con rối, điều khiển con rối bằng ba ngón tay: ngón cái, trỏ,
giữa sao cho phù hợp với cử chỉ phù hợp với lời thoại trong truyện.
Nhờ việc sử dụng nghệ thuật rối trong tiết học mà số trẻ có khả năng cảm
thụ tác phẩm văn học đạt cao, đa số trẻ nhớ nội dung câu truyện, lời thoại của
các nhân vật trong truyện và qua đó trẻ biết nhận xét đánh giá tính cách của
nhân vật trong truyện như ai là người xấu? ai là người tốt?
* Trò chơi đóng kịch:
Trò chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học một cách
sâu sắc, qua đó giáo dục được ở trẻ tinh thần tập thể và để đạt được điều đó thì
việc trang trí sân khấu và hóa trang cho trẻ rất quan trọng, với câu truyện “3
chú lợn” tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang trí cảnh phù hợp với câu
truyện .
Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc hóa trang cho trẻ đóng kịch
cũng rất cần thiết. Với nhân vật “3 chú lợn” tôi cho trẻ mặc mặt nạ hình con
lợn, bao tay và giấy hình chân con lợn và áo quần mầu sắc khác nhau phù hợp
với tính cách của từng nhân vật. Lúc này cô giáo là người dẫn truyện và trẻ tự
diễn theo nội dung câu truyện. Khi trẻ diễn xong nên cho trẻ tự nhận xét về vai
diễn của mình, của bạn, từ đó trẻ xác định được thái độ của trẻ đối với các
nhân vật trong truyện là yêu hay ghét.
Việc hóa trang và bố trí sân khấu phù hợp, trang phục đẹp sẽ giúp trẻ tự
tin hơn khi nhập vai tạo cho trẻ hứng thú hơn với từng vở diễn.
2.3.5. Hoạt động làm quen với văn học được tiến hành mọi lúc, mọi
nơi.
Việc cho trẻ hoạt động mọi lúc, mọi nơi là rất cần thiết, nó giúp kỹ năng
của trẻ dần được hoàn thiện, củng cố khắc sâu thêm về văn học cho trẻ.
* Lồng ghép văn học với các môn học khác.
+ Hoạt động làm quen chữ cái: Ở phần ôn luyện có thể cho trẻ chơi trò
chơi “Nhanh mắt, nhanh tay” – Trẻ gạch chân chữ cái trong bài thơ. Với bài thơ
mới tôi đọc cho trẻ nghe 1 lần rồi yêu cầu trẻ tìm chữ cái và gạch chân. Với bài

thơ đã biết thì tôi cho trẻ đọc cùng cô rôi mới chơi tìm chữ và gạch chân chữ.
+ Hoạt động âm nhạc: Vào bài tôi có thể kể cho trẻ nghe một câu chuyện
sáng tạo.
Ví dụ: Dạy vận động bài “Cháu yêu bà”. Tôi kể cho trẻ nghe một đoạn
chuyện trong câu chuyện “Bà cháu”. Rôi đàm thoại để trẻ thấy tình cảm của cậu
bé dành cho bà. Sau đó tôi lồng giới thiệu vào bài hát.
+ Hoạt động làm quen với toán: Tôi có thể lồng ghép xuyên suốt một tiết
học toán bằng một câu chuyện sáng tạo. Qua đó trẻ sẽ hứng thú hoạt động và trẻ
có được những cảm nhận và yêu thích về cái đẹp, cái tốt trong câu chuyện.
Ví dụ: Dạy toán số 6. Tôi kể chuyện về gia đình Thỏ dựa theo câu chuyện
“Ai đáng khen nhiều hơn, trong nhà có Thỏ bố, Thỏ mẹ và 2 anh em nhà thỏ
sống cùng ông bà nội. Một hôm ngày nghỉ mẹ bảo Thỏ em ra đồng hái cà rốt,
Thỏ anh ở nhà giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa. Thỏ em ra đến đồng ruộng thì nghĩ nhà
mình có những ai nhỉ? Trẻ sẽ nói: Có ông, bà, bố, mẹ anh và em. Cho hình ảnh 6
13


chú Thỏ hiện ra trên màn hình và yêu cầu trẻ xếp ra cùng cô. Sau đó Thỏ em hái
được 5 củ cho ông này, bà bố, mẹ anh này. Rồi cho trẻ so sánh 2 nhóm. Nhóm
nào nhiều hơn( ít hơn)? Vì sao?Thỏ em quên mất không tính phần mình. Vậy để
ai cũng có cà rốt ăn Thỏ em phải làm gì? Lấy thêm 1 củ cà rốt cho Thỏ em...Cứ
như vậy cô lồng câu chuyện vào xuyên suốt tiết học.
+ Hoạt động Tạo hình: Nặn đồ dùng gia đình
Tôi kể cho trẻ nghe một đoạn truyện Quà tặng mẹ: Thứ 7, Sinh nhật Gấu
mẹ, Gấu mẹ vẫn đi làm như thường, 2 anh em Gấu được nghỉ, Gấu anh đến gọi
gấu em, Gấu em đang còn ngái ngủ, Gấu anh rủ em đi siêu thị, Gấu em bật dậy
ngay.
Hỏi trẻ: Vì sao Gấu em bật dậy ngay? Con có thích đi siêu thị không? Vậy
cô cháu mình cùng đến siêu thị nào. Trẻ quan sát đồ dùng và về đàm thoại...
+ Hoạt động khám phá khoa học: Tìm hiểu ngôi nhà gia đình ở

Vào bài tôi cho trẻ đọc thơ: Em yêu nhà em và lồng đàm thoại về ngôi nhà
của trẻ.
* Lồng ghép văn học trong các hoạt động khác.
+ Ở giờ đón- trả trẻ:
Dán các bài thơ, câu truyện dự định kể vào ngày mai ở góc tuyên truyền
để phụ huynh theo dõi và cho trẻ làm quen dần khi ở nhà.
Trao đổi với phụ huynh về bài thơ, câu truyện trẻ vừa được học để phụ
huynh về nhà đọc thơ hay kể lại truyện cho trẻ nghe.
Đón trẻ vào lớp tôi cho trẻ tự lựa chọn sách thơ, truyện ở góc sách và xem
theo ý thích. Qua đó hình thành ở trẻ thái độ yêu thích sách, biết cách giở sách
và chân trong quyển sách, không làm rách sách.
+ Ở hoạt động góc:
Ở góc học tập: Trẻ cùng chơi với cô bằng cách gắn tranh rời hoặc trẻ có
thể chỉ vào các tranh gắn trên tường và kể cho bạn nghe hoặc cho trẻ sắp xếp
những tranh rời và tự kể sang tạo.
Ở góc nghệ thuật: Cô cùng trẻ làm mũ múa, làm rối, có thể dùng các
nguyên vật liệu như: ống chỉ, lõi giấy, vãi vụn, len sợi, quả cầu lông…làm một
số đồ dùng, đồ chơi, nhân vật, con vật trong các câu truyện hoặc một số trang
phục bằng các vật liệu đơn giản để đóng kịch. Cô hướng dẫn cho trẻ làm các
quyển truyện tranh theo tạo hoặc cho trẻ vẽ, tô màu những truyện cổ tích đã học
trong chủ đề.
Ở góc thư viện: Cô chuẩn bị các loại truyện tranh với nội dung và hình
thức phong phú theo chủ đề cho trẻ xem. Ngoài ra, cô có thể sưu tầm một số
truyện tranh mới cho trẻ xem.
+ Ở hoạt động ngoài trời: Khi trẻ ra sân, cô tranh thủ cho trẻ tự kể chuyện
sáng tạo qua hình vẽ ở các mảng tường của trường. Ngoài ra, cô có thể cho trẻ
vẽ lại nhân vật trẻ thích trong truyện đã học bằng phấn theo sáng tạo của trẻ.
Các trò chơi vận động được lồng ghép các bài thơ, ca dao, đồng dao như
trò chơi “Rồng rắn lên mây” “trò chơi mèo đuổi chuột”...
14



+ Ở giờ ăn: Khi ổn định trẻ vào giờ ăn tôi thường cho trẻ đọc bài thơ “giờ
ăn”, qua đó trẻ biết những việc cần làm, cần tránh trong giờ ăn.
+ Giờ ngủ: Cho trẻ đọc thơ “Giờ đi ngủ” trước khi ngủ.
+ Ở hoạt động chiều:
Bên cạnh việc cho trẻ làm quen bài thơ, câu truyện, các bài ca dao, đồng
dao mới sẽ được học ôn lại bài thơ, cô có thể cho trẻ thi đua đọc, kể diễn cảm
các bài thơ, câu chuyện, hoặc tổ chức cho trẻ đóng kịch. Cô tập cho trẻ nhập vai,
hóa trang đơn giản. Cô hoặc một cháu giỏi sẽ dẫn truyện cho bạn đóng kịch.
Đây là hoạt động thường gây hứng thú cho trẻ nhất. Nếu trẻ thực hiện chưa đạt,
cô tập cho trẻ bắt chước giọng điệu và tính cách nhân vật đó.
+ Trong các ngày lễ, hội:
Trong các ngày lễ, ngày hội như 20/11; 8/3...ngoài những tiết mục hát
múa, tôi thường đăng ký cho các bé lớp tôi tham gia tiết mục đọc thơ, kể chuyện
hoặc đóng kịch nhằm rèn thêm cho trẻ về kỹ năng đọc, kể diễn cảm, kỹ năng
đóng kịch, mạnh dạn tự tin.
2.3.6. Kết hợp với phụ huynh trong việc tạo hứng thú cho trẻ hoạt
động làm quen văn học.
Thường xuyên trao đổi với phụ huynh qua giờ đón- trả trẻ, kết hợp với
bảng tuyên truyền ở góc thơ, truyện để phụ huynh nắm bắt kịp thời nội dung
chương trình học của trẻ, qua đó kết hợp với phụ huynh rèn thêm ở nhà cho trẻ
nhằm khắc sâu nội dung câu truyện, bài thơ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Photo
nội dung các bài thơ, câu truyện đã học và nhờ phụ huynh đọc, kể cho trẻ làm
quen, tìm hiểu thêm ở nhà để trẻ nắm bắt nội dung, nhớ được lời thoại các nhân
vật trong truyện.
Phối hợp với phụ huynh, đồng nghiệp, nghiên cứu, sưu tầm, lựa chọn các
tác phẩm văn học phù hợp với từng chủ đề và khả năng nhận thức của trẻ.
Cứ sau mỗi chủ đề tôi thường tổ chức hội thi “Bé kể chuyện, đọc thơ hay”
một lần vào tuần cuối của của chủ đề. Trong mỗi lần tổ chức thi, tôi mời một số

giáo viên trong trường, ban giám hiệu và một vài phụ huynh của lớp tới dự. Qua
hình thức này sẽ tạo hứng thú cho trẻ và sự quan tâm, phấn khởi, tin tưởng của
các bậc phụ huynh đối với việc chăm sóc, giáo duc trẻ của giáo viên trong lớp.
Vận động phụ huynh ủng hộ thêm tranh, lịch, sách, báo cũ hoặc truyện
tranh thiếu nhi để thực hiện góc thư viện cho trẻ; hỗ trợ thêm nguyên vật liệu
như: giấy bìa, hộp sữa, giấy… để làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho môn họ
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên tại lớp Mẫu giáo nhỡ B5 Trường mầm
non Thị Trấn do tôi phụ trách trong năm học 2017 – 2018, tôi đã khảo sát lần 2.
* Bảng khảo sát chất lượng lần 2 sau khi áp dụng các biện pháp:
Số Số
KẾT QUẢ
trẻ trẻ
Nội dung
Đạt
Chưa đạt
ra khảo
khảo sát
Số
Số
Tỷ
lệ
%
Tỷ lệ %
lớp sát
lượng
lượng
15



1. Nhớ tên truyện, tên
32
100%
0
0
bài thơ
2. Hiểu nội dung bài
32
100%
0
0
thơ, câu chuyện
3. Hứng thú với môn
32
32
32
100%
0
0
học
4. Kỹ năng đọc, kể
30
94%
2
6%
diễn cảm
5. Kỹ năng đóng kịch
28
87,5%

4
12,5%
6. Kỹ năng kể chuyện
29
90,6%
3
9,4%
theo tranh
Đa số trẻ tích cực, hứng thú, thoải mái tham gia vào hoạt động làm quen
với tác phẩm văn học, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạch lạc. Trẻ có các biểu
tượng về tác phẩm, trẻ đọc thơ diễn cảm, các câu chuyện trẻ kể đã thể hiện được
sắc thái tình cảm về lời nói, hành động, nét mặt, cử chỉ. Đặc biệt trẻ đã tích cực
tham gia đóng kịch, biết thể hiện nhập vai nhân vật một cách say xưa, hào hứng,
tự tin.
2.4.2. Hiệu quả đối với bản thân
Bản thân có nhiều hình thức, phương pháp, biện pháp tốt để giúp trẻ làm
quen với các tác phẩm văn học, sáng tạo trong tiết dạy, tạo được môi trường học
tập cho trẻ. Đặc biệt đã tạo được niềm tin và sự quan tâm hỗ trợ của các bậc phụ
huynh. Khả năng đọc, kể diễn cảm của cô được nâng cao rõ rệt. Tạo được một
môi trường mở trong lớp học. Đặc biệt là luôn lấy trẻ làm trung tâm trong quá
trình giảng dạy để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động ở trẻ.
2.4.3. Hiệu quả đối với giáo viên, nhà trường.
Thông qua việc nghiên cứu và đưa ra các biện pháp thực hiện đề tài này,
trong các giờ sinh hoạt tổ chuyên môn tôi cũng đưa vấn đề ra nói trước đồng
nghiệp. Qua đó đồng nghiệp trong trường cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm,
từ đó có nhiều hình thức, phương pháp, biện pháp tốt để giúp trẻ làm quen với
các tác phẩm văn học, sáng tạo trong tiết dạy, tạo được môi trường học tập cho
trẻ. Vì vậy nhiều giờ làm quen với tác phẩm văn học luôn được xếp loại khá,
giỏi. Qua đó góp phần đưa chất lượng giáo dục của nhà trường ngày một đi lên.


16


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận
Qua quá trình dạy trẻ tạo hứng thú hoạt động làm quen với văn học. Tôi
thấy giờ học không còn nặng nề, nhàm chán như trước đây. Với phương pháp
“Lấy trẻ làm trung tâm” trẻ được khám phá, trải nghiệm dễ dàng gây được hứng
thú cho trẻ
Với những biện pháp và kết quả nêu trên, bản thân tôi tự rút ra những bài
học kinh nghiệm sau:
- Ngay từ đầu năm học giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ
- Giáo viên thường xuyên luyện tập giọng đọc, giọng kể sao cho diễn
cảm, thể hiện được nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của nhân vật trong truyện. Tổ chức
cho trẻ đọc thơ, kể chuyện theo khả năng. Có thể thu âm giọng kể của cô và trẻ
để mở cho trẻ nghe ở các hoạt động khác.
- Tham khảo thêm một số kịch bản đã biên soạn và tập cho trẻ đóng kịch.
- Tích cực làm đồ dùng học tập, đồ chơi theo chủ đề, đồ dùng minh hoạ
cần phong phú, đa dạng, hấp dẫn, việc sử dụng đồ dùng cần đảm bảo khoa học,
đúng lúc, đúng chỗ. Sử dụng tốt mô hình rối: rối rẹt, rối tay, rối bóng…
- Giáo viên phải biết sử dụng câu hỏi mở đúng lúc, đúng chỗ, tạo những
tình huống bất ngờ, kích thích sự tò mò, hứng thú của trẻ.
- Thường xuyên học hỏi đồng nghiệp, tham khảo thêm một số tài liệu,
xem trên mạng internet những nội dung liên quan đến việc cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học dưới hình thức lấy trẻ làm trung tâm. Để từ đó tổ chức tốt hoạt
động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
17



- Tham mưu tốt với phụ huynh hỗ trợ thêm một số tranh truyện, sách báo,
tạp chí...
Có thể nói rằng việc nâng cao khả năng cảm thụ tác phẩm văn học cho trẻ
mẫu giáo là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
phong phú, đa dạng sẽ giúp trẻ hoàn thiện về mọi mặt. Qua những bài thơ câu
chuyện trẻ biết yêu cái đẹp của tự nhiên và con người, biết phân biệt cái thiện và
cái ác đem lại cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về cuộc sống xung quanh. Đồng
thời trẻ biết nhập vai với các nhân vật trong câu truyện, bài thơ, giúp trẻ phát
triển trí tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật.
3.2. Kiến nghị
Để công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non nói chung cũng
như hoạt động làm quen với văn học nói riêng đạt hiệu quả cao hơn nữa, tôi xin
có một số đề xuất như sau:
- Đề nghị phòng giáo dục thường xuyên mở các lớp học chuyên đề, tổ
chức các giờ dạy mẫu hay để cho giáo viên được dự giờ học hỏi kinh nghiệm.
- Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện trong việc làm đồ dùng dạy học
cho trẻ.
Trên đây là “Một số biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với văn
học cho trẻ 4-5 tuổi tại trường mầm non Thị Trấn Triệu Sơn”. Mặc dù có
nhiều cố gắng song bản sáng kiến này của tôi không tránh khỏi những thiếu sót,
rất mong được sự góp ý bổ sung của hội đồng khoa học để bản sáng kiến này
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Triệu Sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Tôi xin cam đoan bản sáng kiến này
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
là do bản thân tự làm không copy của ai.
Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Lê Thị Tuyến

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học – Nguyến Thị Tuyết
Nhung - Phạm Thị Việt.
2. Tâm lí học trẻ em – Nguyễn Ánh Tuyết
3. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 4-5 tuổi – Chương trình giáo dục
mầm non.
4. Nguồn tài liệu trên internet. Sách tham khảo.
5. Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề (trẻ 4 – 5
tuổi) – Viện chiến lược và chương trình giáo dục. Trung tâm nghiên cứu
chiến lược và phát triển chương trình giáo dục mầm non – Nhà xuất bản
giáo dục.
6. Hồ chí Minh với “ươm mầm xanh” tương lai của đất nước.

19


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Lê Thị Tuyến
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường mầm non Thị Trấn

TT


1.
2
3

Tên đề tài sáng kiến
Một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 3 – 4 tuổi
Một số biện pháp dạy trẻ
tự kỷ 3- 4 tuổi hòa nhập
Một số biện pháp giáo
dục lễ giáo cho trẻ mẫu
giáo 3 – 4 tuổi.

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại.

Phòng GD&ĐT


B

2007 – 2008

Phòng GD&ĐT

A

2014 - 2015

Phòng GD&ĐT

B

2015 - 2016

20


21



×