Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với văn học cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.93 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THỊ XÃ BỈM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LÀM QUEN VỚI VĂN HỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI

Người thực hiện: Nguyễn Thị Mai
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN Bắc Sơn - Bỉm Sơn
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

BỈM SƠN THÁNG 6 NĂM 2016

1


Mục lục
Nội dung
I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng của vấn đề
3. Các biện pháp đã thực hiện
3.1. Biện pháp 1


3.2. Biện pháp 2
3.3. Biện pháp 3
3.4. Biện pháp 4
3.5. Biện pháp 5
4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang
2
2
2
3
3
3
3
3
5
5
6
9
10
11
12
14
14
14


I/ MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
2


Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay,
Đảng và Nhà nước đánh giá rất cao yếu tố giáo dục. Giáo dục được coi là quốc
sách hàng đầu , đổi mới giáo dục nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước.
Giáo dục Mầm Non có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo
dục quốc dân . Giáo dục Mầm Non là điểm xuất phát, điểm khởi đầu đặt nền
móng đầu tiên cho việc hình thành nhân cách của trẻ. Mục tiêu của bậc học
Mầm Non đã được xác định rõ, chăm sóc giáo dục cho trẻ khỏe mạnh, nhanh
nhẹn, hoạt bát và phát triển tốt về các mặt đức, trí, thể, mĩ, hay nói cách khác là
giúp trẻ phát triển toàn diện, làm tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học.
Để đạt được mục tiêu trên chương trình chăm sóc giáo dục mầm non
hiện nay đã đưa vào những nội dung hoạt động để phát triển các lĩnh vực cho
trẻ như: Lĩnh vực giáo dục thể chất; phát triện nhận thức, phát triển ngôn ngữ;
phát triển thẩm mỹ, phát triển tình cảm xã hội. Trong đó, phát triển ngôn ngữ là
con đường để phát triển nhận thức và là cơ sở để phát triển các lĩnh vực khác.
Với đặc điểm trẻ mầm non chưa biết đọc, chưa biết viết, vì vậy cho trẻ làm
quen với văn học có ý nghĩa phát triển lời nói cho trẻ vì “Ngôn ngữ là yếu tố
thứ nhất của văn học”. Thông qua văn học trẻ được tiếp xúc với nghệ thuật
ngôn từ, được làm quen với những hình tượng ngôn ngữ trong sáng, biểu cảm.
Như chúng ta đã biết từ khi còn trong nôi đến lúc chập chững tập đi,
tập nói, đến lúc trẻ biết viết, đọc, thì văn học là chiếc cầu nối để ngôn ngữ của
trẻ phát triển. Từ câu hát ru của mẹ, câu ca dao của bà, chuyện kể của cô giáo ,
sẽ nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ , là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho
trẻ học tập. Ngoài ra văn học nó đem lại cho trẻ những hiểu biết đầu tiên về

cuộc sống xung quanh. Văn học phát triển ở trẻ trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ
thuật. Trẻ hiểu biết về vẻ đẹp tự nhiên đó là thế giới của các loài cây, loài hoa,
của các loài vật qua các câu chuyện, bài thơ. Các tác phẩm văn học miêu tả
cuộc sống xã hội của chúng ta , giúp trẻ biết về các mối quan hệ: Quan hệ
trong gia đình, ngoài xã hội, trẻ tìm thấy ở đây điều hay, lẽ phải trong ứng xử
hàng ngày. Qua đó, trẻ thấy được kẻ ác sẽ bị trừng trị, những người tốt bụng,
hiền lành, chăm chỉ sẽ được hưởng hạnh phúc, sung sướng.
Như vậy có thể nói văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu đối
với trẻ mầm non. Thông qua văn học giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện.
Nhận thức được vấn đề đó, năm học 2015 - 2016 với sự cố gắng của bản
thân, cùng sự giúp đỡ của ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp trường Mầm
non Bắc Sơn, tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện đề tài “Nâng cao chất lượng
làm quen với văn học cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”, đưa ra một số biện pháp tổ
chức các hoạt động cho trẻ làm quen với văn học đạt hiệu quả.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng của việc giảng dạy bộ môn văn học ở lớp mẫu
giáo 5 – 6 tuổi trường mầm non Bắc Sơn.
- Đề xuất những kiến nghị và giải pháp thực hiện nhằm nâng cao chất
lượng dạy học đạt kết quả tốt nhất.
3


3. Đối tượng nghiên cứu:
- Trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Khi nghiên cứu đề tài này tôi chọn một số phương pháp sau:
+ Phương pháp dùng lời.
+ Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp thực hành.
II/ NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1. Cơ sở lý luận:
Cho trẻ làm quen với văn học là một hoạt động học của trẻ ở trường
mầm non cùng với dạng các hoạt động khác: Vui chơi, vệ sinh, lao động... hoạt
động học tập được tổ chức có hệ thống nhằm phát triển toàn diện cho trẻ.
Làm quen với các tác phẩm văn học là phương tiện để phát triển ngôn
ngữ, nó có vai trò quan trọng đối với phát triển nhân cách.
Với đặc điểm tâm lý trẻ 5 tuổi trẻ đang chuyển dần từ tư duy trực quan
hành động sang tư duy trực quan hình tượng. Từ chỗ tư duy gắn liền với yếu tố
chủ quan, đầy màu sắc, xúc cảm đến sự xuất hiện tự ý thức của trẻ đến việc
hình thành bước đầu của các phẩm chất ý chí. Đây là giai đoạn phát triển
nhanh và mạnh về ngôn ngữ của trẻ theo hướng hoàn thiện dần ngữ âm, ngữ
điệu của lời nói.
Mức độ phát triển ngôn ngữ, tư duy đã khiến cho trẻ có khả năng tiếp
nhận được thơ, truyện song chính đặc điểm bao trùm của tư duy tưởng tượng
của lứa tuổi này đã quy định tính chất ngây thơ, quan hệ trực tiếp, đối với tác
phẩm văn học của trẻ, trẻ thường thể hiện ngay tình cảm suy nghĩ của mình khi
nghe truyện, thơ qua hành động cụ thể.
Những hành động của trẻ có thể là diễn lại các hành động của nhân vât
trong truyện, thơ, có thể là phản ánh trực tiếp những điều đã được nghe.
Trong khi cảm thụ truyện, trí tưởng tượng đóng vai trò hết sức quan
trọng, nhờ có trí tưởng tượng, trẻ dễ dàng hình dung được diễn biến của cốt
truyện, khi nghe truyện trẻ thường chú ý đến cốt truyện, câu truyện diễn biến ra
sao, cái gì sẽ xảy ra, kết cục là thế nào. Vì vậy để tổ chức các giờ làm quen với
văn học cho trẻ đạt hiệu quả người giáo viên cần đặc biệt chú ý đến đặc điểm này.
2. Thực trạng của vấn đề:
Để nghiên cứu đề tài đạt kết quả, tôi đã tiến hành khảo sát thực tế tại
trường Mầm non Bắc Sơn và tại lớp tôi, kết quả khảo sát như sau:
Trường có 11 lớp mẫu giáo. Trong đó có 3 lớp Mẫu giáo lớn.
Nhà trường luôn quan tâm đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, đặc
biệt là khối mẫu giáo 5-6 tuổi.

Bản thân tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo 5- 6 tuổi:
Tổng số trẻ : 40 trẻ
Trong đó: Nam 22 trẻ
Nữ 18 trẻ
4


Trong quá trình thực hiện đề tài này, lớp tôi có những thuận lợi, khó
khăn sau:
a. Thuận lợi:
- Ban Giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên về
chuyên môn, cơ sở vật chất, đồ dùng trang thiết bị dạy học, động viên sự sáng
tạo của giáo viên, khích lệ chị em ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt
động chăm sóc giáo dục trẻ.
- Bản thân nắm vững phương pháp, có trình độ đạt trên chuẩn, sớm
được tiếp cận với các hoạt động giáo dục mầm non mới, được tham gia vào các
lớp học bồi dưỡng chuyên môn của phòng giáo dục mở, của nhà trường, sáng
tạo trong cách dạy và làm đồ dùng, đồ chơi.
- Trẻ ngoan, đa số cháu đều học qua lớp mẫu giáo nhỡ. Đa số trẻ trong
lớp có sức khỏe tốt.
- Phần lớn phụ huynh nhiệt tình ủng hộ khi giáo viên tuyên truyền vận
động, sưu tầm các nguyên phế liệu làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
b. Khó khăn.
- Các phương tiện dạy học như băng đĩa, tranh dạy thơ, chuyện, tranh
cho trẻ kể truyện còn thiếu và chưa đồng bộ so với yêu cầu của chương trình.
- Đa số phụ huynh làm công nhân, làm đồi nên ít có thời gian quan tâm
đến con cái, một phần phụ huynh chưa hiểu hết được tầm quan trọng của bộ
môn văn học ở trường mầm non.
- Sự tiếp thu của trẻ trong lớp không đồng đều, vẫn còn một số trẻ nói
ngọng, nói lắp.

- Trẻ đọc thơ, kể lại truyện mới dừng ở mức độ thuộc thơ, truyện và khả
năng đọc, kể diễn cảm còn hạn chế.
- Việc sưu tầm các bài thơ, câu chuyện ngoài chương trình để đưa vào
giờ hoạt động làm quen với văn học chưa nhiều.
c. Kết quả thực trạng:
Qua khảo sát thực trạng đầu năm lớp tôi cho kết quả như sau:
- Tổng số trẻ khảo sát : 40 trẻ:
Các tiêu chí đánh giá
Kỹ năng nghe
Kỹ năng nói
Kỹ năng đọc

Nghe và giao tiếp thông thường
Nghe làm theo chỉ dẫn
Khả năng phát âm tốt
Trả lời được câu hỏi thông thường
Trẻ đọc thơ diễn cảm
Trẻ hứng thú với sách

Trẻ đạt

Tỷ lệ %

32/40
30/40
30/40
32/40
20/40
30/40


80%
75%
75%
82%
50%
75%

* Đồ dùng minh họa cho môn văn học
- Tranh minh họa truyện: 1 bộ
- Tranh minh học thơ: 1 bộ
5


3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Dựa vào đặc điểm tình hình lớp, đặc điểm tâm lý nhận thức của lứa tuổi
và qua kết quả khảo sát thực tế đầu năm tôi mạnh dạn vận dụng một số giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn văn học cho trẻ 5- 6 tuổi.
Biện pháp 1. Đầu tư cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi, sưu tầm, sáng
tác bài thơ, câu đố, tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học.
Để tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với văn học đạt hiệu quả cần có
các phương tiện và đồ dùng dạy học vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã đề xuất với
Ban giám hiệu mua sắm, trang bị những đồ dùng cần thiết như tranh minh họa thơ,
chuyện, đồ dùng đồ chơi để hỗ trợ cho các giờ hoạt động cho trẻ làm quen với văn học.
- Làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về tầm quan
trọng của bộ môn văn học đối với trẻ và đặc biệt là phát triển ngôn ngữ giúp trẻ
phát triển nhận thức, làm tiền đề cho trẻ tiếp thu những trí thức ở tiểu học và
trường phổ thông sau này. Nhận thức được vấn đề đó nên các bậc phụ huynh
nhiệt tình đóng góp kinh phí mua đồ dùng, đồ chơi cho trẻ hoạt động, ủng hộ
nguyên phế liệu để giáo viên và trẻ làm đồ dùng, đồ chơi.
Sưu tầm các truyện tranh có nội dung phù hợp với trẻ để cho trẻ được kể

chuyện theo tranh góp phần tích cực trong việc phát triển ngôn ngữ và cảm thụ
tác phẩm văn học.
- Trong điều kiện nhà trường chưa trang bị đủ tranh truyện, đồ dùng dạy
học tôi và các bạn đồng nghiệp trong trường đã tích cực làm thêm đồ dùng dạy
học như: Vẽ tranh minh họa truyện, thơ, làm thêm các con giống con rối... để
phục vụ cho môn học, tôi tận dụng tất cả các nguyên vật sẵn có ở địa phương
để làm đồ dùng đồ chơi như: Sách báo cũ, lõi giấy vệ sinh, ống nước, lon bia,
chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, để làm đồ dùng đồ chơi cho trẻ.
- Dựa vào từng chủ đề tôi đưa ra kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một
cách cụ thể, mỗi chủ đề tôi làm một bộ đồ dùng phục vụ cho quá trình giảng
dạy và vui chơi của trẻ. Từ những nguyên vật liệu sưu tầm được tôi hướng dẫn
trẻ làm thành những con vật, con rối xinh xắn, ngộ nghĩnh của những câu
truyện mà trẻ đã được học được nghe , cụ thể đã làm:
+ Vỏ hộp sữa bằng nhựa sơn màu đen để làm con trâu, màu vàng làm
con bò, làm con thỏ, con lợn, làm bộ cốc chén, bát... để trưng bày thành khu
vườn dạy thơ, kể truyện.
+ Lọ nước rửa bát làm thân, quả bóng nhỏ làm đầu và vải vụn may váy,
áo ta có thể làm cô gái để sử dụng kể truyện “Ba cô gái”...
+ Sử dụng các loại hột hạt, vải vụn, giấy màu, để tạo thành bức tranh
truyện cho trẻ kể chuyện sáng tạo…
+ Vỏ ngao , sò , ốc , hến, … để làm cua , cá , ốc tạo ao cá dạy thơ “Nàng
tiên ốc” , thơ “Dong và cá”…
+ Cho trẻ vẽ tranh bằng bút xáp , không tô màu, sau đó cô hướng dẫn trẻ
phết hồ lên tranh sau đó rắc hạt vừng lên làm tranh các con vật , để các bức
tranh phong phú tôi sử dụng vừng đen , vừng vàng , các loại hạt đậu để làm
mắt , sử dụng cỏ khô để trang trí thêm cho bức tranh thêm sinh động…
6


- Sưu tầm các học liệu để trẻ hoạt động ở các góc như:

Các hình ảnh tranh truyện, thơ cắt rời để trẻ ghép các hình ảnh theo trình
tự nội dung câu chuyện, bài thơ. Thẻ từ để trẻ ghép các từ chỉ nhân vật trong truyện ...
Để thu hút trẻ trong giờ học, giúp trẻ hiểu sâu nhớ lâu tác phẩm ngoài
việc làm đồ dùng đồ chơi, tôi đã tìm tòi nghiên cứu sáng tác nội dung của câu
truyện thành thơ cho trẻ đọc.
Bản thân luôn chú ý trang trí lớp sạch đẹp nổi bật chủ đề để thu hút trẻ,
việc sắp xếp đồ dùng đồ chơi, học liệu cũng phải khoa học, tạo góc mở để trẻ
dễ hoạt động.
Ví dụ: Góc văn học: Tôi treo tranh ảnh các câu truyện có trong chủ đề
để trẻ có thể quan sát dễ dàng, vào các giờ hoạt động góc trẻ kể truyện sáng tạo
theo tranh, khi đến giờ kể truyện trẻ nhìn theo tranh và kể lại truyện dễ dàng hơn.
Do làm tốt biện pháp này nên chất lượng môn văn học của lớp tôi bước
đầu đã thu được một số kết quả nhất định.
Biện pháp 2. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, biện
pháp, hình thức tổ chức tiết học.
a. Chuẩn bị bài soạn, đồ dùng, đồ chơi
Muốn tổ chức một giờ dạy thành công việc đầu tiên người giáo viên
phải làm đó là soạn giáo án vì giáo án giúp giáo viên xác định được mục đích
yêu cầu rõ ràng, sát với tình hình thực tế của trẻ lớp mình. Muốn giờ dạy cho
trẻ làm quen với văn học thành công người giáo viên phải hiểu nội dung của
tác phẩm văn học, chính vì vậy trước bài soạn bao giờ tôi cũng đọc kỹ tác
phẩm, vận dụng các phương pháp , biện pháp , hình thức tổ chức giờ học sao
cho nhẹ nhàng sinh động hấp dẫn nhất , để giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học
một cách trọn vẹn mà không gò bó.
Để làm được điều đó tôi đã đầu tư thời gian để soạn bài chi tiết, chọn
cách vào bài sinh động để thu hút sự chú ý của trẻ, hệ thống câu hỏi phù hợp
với từng bài, từng đối tượng trẻ trong lớp, xây dựng các bước tiến hành dạy trẻ
đảm bảo lôgíc giữa các phần, lựa chọn nội dung tích hợp nhẹ nhàng phù hợp
với từng chủ đề. Các hoạt động được lựa chọn đan xen giữa động và tĩnh, các
trò chơi, câu đố được đưa vào trong giờ dạy nhằm tạo hứng thú, khơi dạy trí tò

mò, phát triển trí tưởng tượng của trẻ .
Để tiết học thu được kết quả cao thì việc chuẩn bị giáo cụ trực quan
cũng rất quan trọng, giáo cụ trực quan bao gồm:
+ Đồ dùng của cô như: Máy tính, máy chiếu, các slide cần thiết để minh
họa cho nội dung của bài.
+ Đồ dùng của trẻ như: Tranh lô tô, giấy màu, giấy gam, bút sáp, và một
số nguyên vật liệu để dùng trong tiết học.
Nếu chúng ta chuẩn bị chu đáo thì tiết dạy sẽ đạt kết quả cao.
Ví dụ: Khi dạy trẻ chủ đề “Tết và mùa xuân”
Với đề tài: Kể truyện “Sự tích bánh trưng bánh dày”:
Chuẩn bị:
* Đồ dùng của cô:
7


- Bánh chưng, bánh dày, cành hoa đào
- Các slide:
Slide 1: - Cảnh tụ họp của Vua Hùng, các hoàng tử, công chúa và các
quần thần.
Slide 2: - Hoàng Tử Lang Liêu suy nghĩ và nói về ý tưởng gói bánh
trưng, bánh dày.
Slide 3: - Hoàng Tử cùng dân làng làm bánh trưng bánh dày.
Slide 4: - Các Hoàng tử dâng lễ vật cho Vua cha trong ngày lễ đầu năm.
Slide 5: - Hoàng tử Lang Liêu dâng lễ vật bánh trưng bánh dày.
Slide 6: - Hoàng tử Lang Liêu được chọn nối ngôi Vua.
* Đồ dùng của trẻ:
Lá chuối (hoặc lá dong), 1-2 bò gạo, một ít đậu xanh (Để trẻ thực hành
gói bánh trưng vào cuối tiết học)
* Nội dung tích hợp: Âm nhạc bài hát “Mùa xuân”
Câu đố cho trẻ giải:

“Cây xanh, mà trồng đậu xanh
Tra đỗ, trồng hành, thả lợn vào trong”...
b.. Trong tiết học
Nhiệm vụ chủ yếu cho trẻ làm quen với văn học là: Giúp cho trẻ hình
thành khả năng cảm thụ văn học, góp phần giáo dục đạo đức cho trẻ, rèn kỹ
năng đọc và kể cho trẻ. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, trước tiên người giáo
viên phải có phương pháp tổ chức cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm học một cách
có nghệ thuật.
Để gây hứng thú cho trẻ giáo viên cần chọn hình thức vào bài thật hấp
dẫn lôi cuốn trẻ vì vậy tôi thường dùng các hình thức như: dùng con rối để
giới thiệu dẫn dắt vào bài.
Ví dụ: Kể truyện “Gấu con bị đau răng”
Tôi dùng rối gấu con và giới thiệu: “Xin chào các bạn! mình là gấu con,
hôm qua là sinh nhật của mình đấy, các bạn của mình đến thật đông vui và tặng
cho mình rất nhiêu quà, nhưng sau buổi tiệc hôm qua thì sáng nay mình phải
đến bác sĩ để chữa sâu răng đấy các bạn có biết vì sao mình lại bị sâu răng
không? Muốn biết các bạn hãy lắng nghe câu truyện của mình nhé!”.
Khi giới thiệu như trên trẻ rất tò mò và hứng thú muốn nghe cô kể truyện.
Hoặc với cách vào bài bằng hình thức khác như: cho trẻ xem một cảnh của
câu truyện để trẻ đoán xem các nhân vật đó đang làm gì…
Ví dụ: Truyện “Quả bầu tiên”
Tôi cho trẻ xem cảnh cậu bé đứng cạnh quả bầu với nhiều vàng bạc
châu báu và hỏi trẻ: Đây là ai? Vì sao cậu bé có quả bầu chứa nhiều vàng bạc
châu báu như vậy? Muốn biết nội dung câu truyện, các con hãy lắng nghe cô
kể truyện “Quả bầu tiên”.
Ngoài hình thức vào bài hấp dẫn giáo viên phải có giọng đọc, giọng kể
diễn cảm, cử chỉ minh hoạ phù hợp với nội dung đoạn truyện thì mới chuyển
8



tải hết được nội dung, ý nghĩa, cũng như cái hay cái đẹp trong từng tác phẩm
đến với trẻ.
+ Đối với truyện ngữ điệu giọng kể là một yếu tố vô cùng quan trọng vì
nó là phương tiện chuyển tải tới người nghe về nội dung tác phẩm, vì vậy
giọng kể nhanh hoăc chậm, âm điệu trầm hay bổng phải phù hợp với từng tác
phẩm có như vậy mới diễn tả được các hình tượng nhân vật trong truyện một
cách chân thực, giúp trẻ cảm thụ tác phẩm dễ dàng.
Ví dụ: Kể truyện: “Ba cô gái”.
Giọng nói của bà mẹ: Trầm,yếu, nói đứt quãng.
Giọng của Sóc phải thanh cao, nhí nhảnh.
Giọng của các chị cả, chị hai thờ ơ, thể hiện sự không quan tâm đến mẹ.
Giọng cô út hốt hoảng, nhanh , vội vàng, khi nghe tin mẹ ốm, thể hiện
sự lo lắng và quan tâm đến mẹ.
+ Với thơ: Khi đọc chú ý đến âm điệu, nhịp điệu, vần điệu, cách ngắt
giọng... đọc nhấn vào các từ luyến, láy, các từ được lặp đi, lặp lại để tạo cảm
xúc cho trẻ khi nghe thơ.
Với trẻ 5-6 tuổi tư duy của trẻ vẫn mang nặng màu sắc tư duy trực quan
hành động và bước đầu chuyển sang tư duy trực quan hình tượng vì vậy việc
phối kết hợp giữa các phương pháp dùng lời và phương pháp trực quan,
phương pháp thực hành trong giờ tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học là hết sức cần thiết. Phương pháp dùng lời có tác dụng giúp trẻ hiểu nội
dung câu chuyện, bài thơ; phương pháp trực quan với những hình ảnh và màu
sắc của hình ảnh minh họa làm tăng thêm sự chú ý của trẻ và tăng thêm sức
hấp dẫn của câu chuyện, bài thơ, qua đó giúp trẻ hiểu sâu nhớ lâu tác phẩm.
Ví dụ: Bài thơ: “Em yêu nhà em”
Để chuẩn bị cho tiết dạy thơ đạt hiệu quả tôi đã chuẩn bị một số hình ảnh
thật về ngôi nhà ở thôn quê:
Có khung cảnh tươi đẹp vui mắt, đáng yêu , đầm ấm , có chim hót líu lo trên
cây, sân nhà có đàn gà nhặt thóc , quanh nhà có vườn cây , ao sen , đàn cá bơi
lội tung tăng những con vật gần gũi với tuổi thơ như dế mèn , ếch con.

Khi được xem những hình ảnh thật về thôn quê như trên trẻ rất thích thú.
- Cô đọc thơ kết hợp với trình chiếu các hình ảnh trên màn hình
- Cho trẻ chơi trò chơi nhẹ nhàng xen kẽ để tạo không khí thoải mái cho
tiết học.
Trong khi trẻ đọc tôi chú ý sửa sai cho trẻ những câu, những từ trẻ đọc
chưa đúng. Và tôi chú ý tới trẻ đọc ngọng, trẻ còn nhút nhát lên đọc nhiều hơn,
và sửa cho trẻ đọc thơ diễn cảm và đọc nhấn vào các từ mà ở phần cô đọc mẫu
cô đã nêu. Khi trẻ đã thuộc thơ tôi dành thời gian rèn cho trẻ đọc diễn cảm.
- Kết thúc tiết học tôi cho trẻ vẽ: Ngôi nhà của bé, múa hát bài “Nhà của tôi”
Trong giờ học tôi luôn luôn chú ý đến tất cả các đối tượng trẻ trong lớp như:
Trẻ mạnh dạn - nhận thức tốt, thì cần đặt ra những câu hỏi khó hơn.
Trẻ nhút nhát - tiếp thu bài chậm hơn, thì đưa câu hỏi dễ hơn.
9


Với biện pháp trên lớp tôi dần đã có có nhiều tiến bộ rõ rệt, các cháu đã
mạnh dạn tự tin hơn, chất lượng bộ môn đã tăng lên đáng kể.
Biện pháp 3. Cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học lồng ghép
vào các hoạt động khác.
Muốn tạo ra ở trẻ lòng yêu thích văn học việc nắm vững và vận dụng
sáng tạo các phương pháp cho trẻ làm quen với văn học chưa đủ, mà giáo viên
còn phải biết lựa chọn các hình thức các hoạt động giúp trẻ tiếp xúc với văn
học phù hợp với đặc điểm của trẻ, vì thế ngoài các giờ cho trẻ làm quen với
thơ, truyện tôi còn nghiên cứu để dạy lồng ghép vào các môn học khác.
Ví dụ: Dạy tiết thể dục: đề tài “Bật xa 40cm, ném xa bằng một tay”. Chủ
đề: Nước và các hiện tượng tự nhiên.
Vào đầu tôi kể cho trẻ nghe một đoạn truyện như sau: Gia đình nhà thỏ
nâu có hai mẹ con sống với nhau rất vui vẻ. Mẹ luôn quan tâm chăm sóc cho
thỏ nâu, thỏ nâu cũng rất yêu thương mẹ. Mùa hè năm đó trời nắng mãi, nắng
mãi mà chẳng có mưa, cây cối chết hết, các con suối trong rừng đã cạn khô, mẹ

của thỏ nâu bị ốm lên cơn sốt cao nhưng chẳng có ngậm nước nào để uống, thỏ
nâu thương mẹ nên cậu quyết tâm vào rừng sâu để tìm nước uông cho mẹ , đi
mãi mà chưa tìm được nước , cậu ta mệt quá nằm ngủ thiếp đi . Thế rồi cậu mơ
thấy bà tiên hiện ra, bà tiên hỏi:
“Con có biết vì sao sông suối lại không có nước ? Đó chính là vì con
người đã chặt phá rừng bừa bãi, nên sông suối mới cạn hết nước , bao giờ con
người không còn chặt phá rừng nữa thì nước sẽ trở lại. Còn Thỏ nâu muốn có
nước thì phải vượt qua núi cao ở đó có suối tiên mới lấy được nước cho mẹ”.
Thỏ nâu không ngại khó đã làm theo lời bà tiên và đã lấy được nước cho
mẹ uống , mẹ thỏ được uống nước nên đã khoẻ trở lại. Và thỏ nâu còn kể lại
truyện gặp bà tiên cho mọi người nghe và khuyên mọi người không được phá
rừng nữa thì sông suối mới có nước để uống , mọi người đã làm theo lời của
thỏ nâu .
Sau khi kể truyện tôi dẫn dắt vào bài:
“Các con có muốn cùng bạn thỏ đi lấy nước ở suối tiên cho mọi người
cùng uống không?
Đường đi đến suối tiên thật xa, vượt qua suối, rồi phải ném túi cát xua
đuổi thú dữ, các con hãy cố gắng cùng bạn nhé”.
Với cách lồng ghép kể truyện như trên tôi đã lôi cuốn trẻ vào tiết học
một cách tự nhiên thoải mái không gò bó và giáo dục trẻ yêu thương chawm
sóc người thân, giáo dục trẻ bảo vệ môi trường, tiết kiệm nước… trẻ rất hứng
thú tham gia vào tiết học.
Đối với thơ tôi cũng lồng ghép tương tự.
Ví dụ: Dạy hoạt động khám phá khoa học, đề tài: “Một số con vật sống
dưới nước”, tôi lồng ghép cho trẻ đọc thơ nàng tiên ốc , vào cuối tiết học...
Để củng cố nội dung kiến thức theo chủ đề, rèn luyện cách phát âm
chuẩn và mở rộng hiểu biết thêm cho trẻ về thế giới xung quanh tôi sưu tầm
10



thêm các bài thơ, câu truyện, các bài ca dao, đồng dao phù hợp với độ tuổi để
dạy trẻ mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Cho trẻ học thuộc như bài “Cái Bống”, “Con gà cục tác lá chanh”,
“Họ nhà rau” ...
+ Với môn toán: Cho trẻ đếm các nhân vật trong truyện...
+ Tạo hình: vẽ, tô màu, cắt, dán nhân vật các hình ảnh trong truyện, thơ.
- Tạo môi trường phát triển ngôn ngữ: Vẽ tranh thơ, kết hợp với chữ to
để tạo môi trường chữ viết củng cố các chữ cái đã học để lồng ghép vào giờ
dạy thơ, ngoài ra tôi còn ghép tên truyện bằng các thẻ chữ cái để trẻ lên chọn
những chữ cái đã học.
Tôi luôn cố gắng tìm tòi các nội dung thích hợp để dạy lồng ghép vào
các hoạt động khác như:
+ Tổ chức góc văn học trong đó có các truyện tranh, vẽ hình các nhân
vật trong truyện, trong thơ lên các tấm thẻ rời cho trẻ vào góc chơi với các hình
ảnh đó bằng cách sắp xếp trình tự các hình ảnh theo nội dung câu truyện bài
thơ theo trí nhớ của trẻ hoặc kể chuyện sáng tạo theo sự tưởng tượng của trẻ...
+ Tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như chơi “ Hái hoa”, đoán tên, đóng
kịch, chơi trò chơi đoán nhân vật qua câu nói mà cô đưa ra, đoán tên bài thơ,
tên truyện qua hình ảnh… từ đó tăng thêm lòng yêu thích học thơ, truyện của trẻ.
Ví dụ: Trò chơi “Hái hoa”
Tôi vẽ vào mảnh giấy (cắt hình hoa) những hình ảnh minh họa nội dung
câu chuyện, bài thơ mà trẻ đã được học sau đó tổ chức cho trẻ hái hoa, trẻ hái
được bông hoa nào thì phải nói được tên câu truyện hoặc bài thơ có hình ảnh
minh họa, sau đó đọc thơ hoặc kể lại câu truyện đó.
Để phát huy được tính tích cực, chủ động của trẻ nhằm phát triển các lĩnh
vực khác thông qua các giờ học thơ, truyện tôi đã lựa chọn các nội dung tích
hợp vừa phải đảm bảo vừa củng cố nội dung trọng tâm vừa củng cố các kiến
thức, kỹ năng thuộc các lĩnh vực khác như:
+ Với môn toán: Cho trẻ đếm các nhân vật trong truyện...
+ Tạo hình: Vẽ, tô màu, cắt, dán nhân vật các hình ảnh trong truyện, thơ.

+ Khám phá khoa học: Đếm số lượng…
Ngoài ra vào các thời điểm đón, trả trẻ, vui chơi, ăn trưa, sau khi trẻ ngủ
dậy… tùy vào từng thời điểm mà tôi lựa chọn nội dung phù hợp, có thể là cho
trẻ nghe một bài thơ, câu truyện mới sắp được học, hoặc ôn lại những bài mà
trẻ đã được nghe... để củng cố kiến thức cho trẻ.
Tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ học nhằm củng cố nội dung truyện
thơ và nâng cao khả năng cảm thụ thơ, truyện từ đó góp phần phát triển ngôn
ngữ mạch lạc cho trẻ.
Biện pháp 4. Đầu tư thời gian bồi dưỡng và luyện phát âm cho trẻ.
* Sửa lỗi về phát âm và luyện phát âm:
Ở trong lớp còn một số cháu nói ngọng, nói lắp vì vậy ngoài tiết dạy
chinh ra tôi dành một số thời gian vào buổi chiều để luyện cho trẻ giúp trẻ phát
âm chính xác, rõ ràng mạch lạc.
11


Với những từ khó như S, X, P, Q, L, N,,… khi dạy cô phát âm mẫu cho
trẻ nghe nhiều lần, phân tích cách phát âm, cho trẻ phát âm.
Cô ôn luyện cách phát âm cho trẻ bằng các trò chơi được sử dụng đa
dạng và phong phú.
Ví dụ: - Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật:
Cô nói con vịt: Trẻ làm tiếng kêu: “cạc cạc”
Cô nói con mèo: Trẻ nói “meo meo”…
- Luyện phát âm cho trẻ thông qua hình thức đọc đồng dao, ca dao.
Ví dụ: Tôi chọn bài đồng dao “lúa ngô là cô đậu nành” để luyện phát âm
chữ l, n.
Bài đồng giao “nói ngược’’, và một số bài ca dao nói về tình cảm anh
em, về công cha nghĩa mẹ về gia đình... để luyện phát âm.
Khi được đọc nhiều trẻ sẽ được luyện phát âm giúp trẻ phát âm chuẩn
không bị ngọng, bị lắp.

* Bồi dưỡng học sinh yếu:
Sau mỗi giờ học tôi đều ghi lại những trẻ nhận thức chậm, những trẻ có
những biểu hiện mệt mỏi để có các biện pháp giáo dục trẻ phù hợp. Với những
trẻ nhút nhát, thiếu tự tin tôi luôn chú ý gọi trẻ lên trả lời, động viên, khuyến
khích, khen ngợi trẻ để giúp trẻ dần mạnh dạn và tự tin hơn, với những trẻ hạn
chế về khả năng diễn đạt, thiếu mạch lạc tôi thường giúp trẻ bằng cách:
Thường xuyên gọi trẻ lên trò chuyện, cho những trẻ đọc thơ, kể lại
truyện chưa diễn cảm tôi cho trẻ được đọc và kể nhiều hơn những trẻ khác. sửa
cho trẻ nhiều lần như vậy các trẻ đã dần dần tiến bộ, bước đầu trẻ đã biết đọc
thơ diễn cảm và biết kể lại những câu truyên ngắn.
Ngoài ra tôi còn thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trả
trẻ về tình học tập của trẻ ở lớp và yêu cầu phụ huynh về nhà dành thời gian
vào buổi tối trước khi đi ngủ lắng nghe và trò chuyện cùng con, để rèn ngôn
ngữ nói mạch lạc cho trẻ. Đến nay lớp tôi trẻ đã phát âm tương đối tốt, và phát
triển khá đồng đều về các lĩnh vực.
Biện pháp 5. Tổ chức ôn luyện mọi lúc mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
Để củng cố và khắc sâu kiến thức cho trẻ, tập cho thói quen trả lời rõ
ràng dõng dạc, tự tin, tôi dành một số thời gian vào buổi chiều trong tuần để tổ
chức cho trẻ được luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau như:
+ Tập cho trẻ kể lại chuyện mà trẻ đã được nghe, cho trẻ kể một cách tự
do thoải mái nhưng không sai lệch cốt truyện.
+ Tổ chức thi “Kể chuyện giỏi, đọc thơ hay” vào cuối tuần, khi kết thúc
chủ đề, để tránh nhàm chán tôi xen kẽ thêm múa, hát, và diễn kịch theo tổ, cô
động viên trẻ sáng tạo các vai diễn theo ý thích, tôi tổ chức cho trẻ biễu diễn
với hình thức như:
“Vườn cổ tích”, “Bé làm nghệ sĩ”,
Với những tổ có nhiều bạn xuất sắc sẽ có thưởng, quà tặng là những
bông hoa, ngôi sao, lá cờ, nhưng trẻ rất thích thú, vui tươi, phấn khởi.
12



Với giờ học này tôi thường vận động những phụ huynh có thời gian đến
để dự và tham gia cùng các con.
Qua cách làm trên nhằm giúp phụ huynh hiểu hơn về nội dung và
phương pháp dạy học của nhà trường nhằm tuyên truyền đến phụ huynh từ đó
họ sẽ quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho cô giáo cũng như nhà trường
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra vào các ngày lễ ngày hội như: Ngày 8/3, ngày 20/11, ngày
22/12 .... Tôi đều tổ chức cho trẻ biểu diễn kết hợp giữa thơ, kịch, múa, hát để
chúc mừng.
- Với phương pháp thực hành và ôn luyện như trên đã tạo điều kiện cho
trẻ thể hiện khả năng của mình qua đọc thơ, kể truyện do đó giáo viên có thể
đánh giá được khả năng cảm thụ thơ, truyện của trẻ đến đâu qua đó để cô có
biện pháp và hình thức dạy cho phù hợp với trẻ.
Với hình thức này một số trẻ nhút nhát của lớp tôi đã dần được lôi cuốn
vào hoạt động vì thế trẻ đã mạnh dạn tự tin hơn rất nhiều, chất lượng của lớp
đã được nâng lên.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Qua một năm áp dụng thực hiện đề tài “Nâng cao chất lượng làm quen
với văn học cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi” do tôi phụ trách đã thu được kết quả cụ
thể như sau:
4.1. Đối với trẻ:
- 100% trẻ yêu thích môn học, trẻ thích tham gia vào hoạt động đọc thơ,
kể truyện, đóng kịch.
- 100% trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, không còn trẻ nói ngọng, nói lắp.
- Kinh nghiệm sống và trí tưởng tượng của trẻ đã phong phú hơn, vốn từ
cũng phát triển hơn nhều, trẻ nói rõ ràng mạch lạc, đặc biệt là một số cháu nhút
nhát đầu năm, qua thời gian được luyện tập đến nay các cháu đã mạnh dạn tự
tin lên rất nhiều.

- 100% phụ huynh nhiệt tình tham gia ủng hộ các hoạt động của lớp do
cô phát động như: Tranh ảnh, sách báo, băng đĩa...
*So sánh kết quả khảo sát đầu năm và cuối năm như sau :
Tổng số học sinh được đánh giá: 40 trẻ
Các tiêu chí đánh giá

Kỹ năng nghe
Kỹ năng nói
Kỹ năng đọc

Nghe và giao tiếp thông thường
Nghe làm theo chỉ dẫn
Khả năng phát âm tốt
Trả lời được câu hỏi thông thường
Trẻ đọc thơ, kể truyện diễn cảm
Trẻ hứng thú với sách

Đầu năm
Trẻ đạt Tỷ lệ
%
32/40
80
30/40
75
31/40
77,5
32/40
82
20/40
50

25/40
62,5

Cuối năm
Trẻ đạt Tỷ lệ
%
40/40
100
40/40
100
40/40
100
40/40
100
32/40
82
40/40
100
13


- Đồ dùng minh họa cho môn văn học:
+ Tranh minh họa truyện : 3 bộ (đủ các câu truyện cho các chủ đề)
+ Tranh minh họa thơ: 3 bộ
+ Vẽ tranh minh học : 2 bộ
+ Rối tay, mô hình:
4 bộ
+ Thiết kế giáo án điện tử các tiết dạy: 60%
- Với kết quả như trên lớp tôi được nhà trường đánh giá cao về sự cố
gắng của bản thân, được đồng nghiệp tin tưởng.

4.2. Đối vơi bản thân:
Từ kết quả trên, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
Để tiến hành tổ chức cho trẻ làm quen với văn học phù hợp với đặc
điểm tâm lý trẻ và đạt hiệu quả cao ngoài kiến thức đã được học tôi phải tận
dụng thời gian để tự học bằng cách đọc thêm các tài liệu về văn học cho trẻ
mẫu giáo . Tích cực dự giờ đồng nghiệp để học hỏi và trao đổi với các bạn
đồng nghiệp về kinh nghiệm tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với văn
học. Tham khảo thêm các tiết dạy trên mạng Internet, để nâng cao nghiệp vụ và
kỹ năng sư phạm.
Nắm vững phương pháp dạy trẻ mẫu giáo lớn làm quen với văn học, từ
đó xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình.
Giáo viên luôn học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, vận dụng sáng
tạo các phương pháp, biện pháp vào từng bài, từng giờ hoạt động cụ thể phù
hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ.
Tìm ra những trò chơi mới, đồ dùng đồ chơi đẹp, hấp dẫn để cuốn hút
trẻ vào giờ học.
Tạo môi trường văn học, học chữ viết phong phú, cuốn hút trẻ vào hoạt
động. Học hỏi thêm kinh nghiệm, kiến thức từ chị em đồng nghiệp, từ sách
báo, tài liệu, các phương tiện thông tin đại chúng.
Trau dồi khả năng đọc, kể diễn cảm.
Tạo được lòng tin với phụ huynh để từ đó cùng phối hợp với giáo viên
để nâng cao chất lượng bộ môn văn học dạy trẻ, ủng hộ kinh phí, nguyên vật
liệu để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
Thường xuyên ghi chép khả năng cảm thụ văn học của trẻ, những điểm
được và chưa được để có biện pháp bồi dưỡng cho trẻ phù hợp.
4.3. Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Trong quá trình nghiên cứu và áp dụng những biện pháp giảng dạy, chất
lượng giáo dục bộ môn văn học, lớp tôi đạt kết quả cao , bản thân được được
cử dạy mẫu để mọi người học tập vì vậy đã được đồng nghiệp và ban giám
hiệu nhà trường đánh giá cao, điều đó đã khích lệ bản thân cần cố gắng nhiều

hơn nữa để đưa chất lượng môn văn học cũng như các môn học khác của lớp
ngày càng đạt kết quả cao hơn .
III/ KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
14


1. Kết luận:
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà bản thân đã rút ra trong quá
trình nghiên cứu đề tài này, rất mong được sự đóng góp ý của các cấp lãnh đạo
và các bạn đồng ngiệp.
2. Kiến nghị:
Đề nghị với các cấp lãnh đạo quan tâm tạo điều kiện, để giáo viên
trường mầm non Bắc Sơn được đến thăm quan các trường điểm trong và ngoài
tỉnh để giáo viên được học tập kinh nghiệm hay về áp dụng vào giảng dạy
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hơn nữa trong công tác chăm sóc giáo
dục trẻ./.
Tôi xin cam đoan sáng kiến này do tôi viết,
không sao chép lại của người khác.
Bắc Sơn, ngày 18 tháng 3 năm

XÁC NHẬN

2016
VỊ

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN

Người viết
Nguyễn Thị Mai


XÁC NHÂN CỦA TRƯỞNG PHÒNG
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

15



×