MỤC LỤC
NỘI DUNG
Trang
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHIỆM
2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3
a. Thuận lợi
3
b. Khó khăn
3
c. Kết quả thực trạng
4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
18
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị
20
PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo
1
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Bác Hồ đã từng nói:
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan" [1]
Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây
là khâu quan trọng đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non học những gì? Học như thế nào để hình thành nhân cách
toàn diện con người sau này của trẻ. Tôi thấy, hoạt động khám phá khoa học ở
lứa tuổi mầm non vô cùng quan trọng trong việc cung cấp những kiến thức ban
đầu cho trẻ. Đặc biệt nó có tầm quan trọng rất lớn đối với việc phát triển trí tuệ.
Bởi nó giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh và trực tiếp giúp trẻ giải
quyết các câu hỏi trong cuộc sống hằng ngày của trẻ, cung cấp vốn kiến thức
ban đầu để trẻ bước vào ngưỡng cửa mới của cuộc sống sau này và là cơ hội tốt
để giúp trẻ hình thành phẩm chất, năng lực thích tìm tòi khám phá và trải
nghiệm. Vì tất cả thế giới xung quanh trẻ đều rất mới lạ, hấp dẫn, bất cứ cái gì
trẻ cũng thấy đáng yêu, đáng nhớ và cũng thấy mới mẻ đến lạ lùng.
Trường mầm non là trường học đầu tiên của mỗi người, nơi đó là phôi thai
đầu tiên nuôi trẻ lớn lên trên con đường học vấn. Chính vì thế những kiến thức
mà nhà sư phạm đưa tới cho trẻ dù chỉ là những kiến thức, tri thức sơ đẳng, đơn
giản song vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi đứa trẻ sau này.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người
phát triển toàn diện. Tất cả các hoạt động ở trường mầm non đều góp phần hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Trong đó hoạt động cho trẻ
khám phá khoa học giữ vị trí vô cùng quan trọng đối với trẻ mầm non nói chung
và trẻ 4 - 5 tuổi nói riêng. Bởi hiện nay, do yêu cầu của giáo dục mầm non,
không chỉ là tích hợp lồng ghép các hoạt động một cách nhẹ nhàng, linh hoạt,
sáng tạo mà môi trường xung quanh là trung tâm, trục xoay chính cho tất cả các
môn học, các hoạt động. Trẻ được khám phá khoa học để thỏa mãn nhu cầu
thích tìm tòi, ham hiểu biết về những điều mới lạ hấp dẫn trong cuộc sống, trong
thế giới tự nhiên, các con vật, cỏ cây hoa lá... Từ đó sẽ phát huy cao độ tính tích
cực nhận thức của trẻ, trẻ được tìm hiểu, khám phá nhiều điều mới lạ, hấp dẫn
tạo nên sự tò mò, ham hiểu biết. Qua đó giúp trẻ có nhiều kinh nghiệm sống,
mạnh dạn, tự tin hơn trong cuộc sống, trong giao tiếp, trong ứng xử, trong các
mối quan hệ. Dần dần giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, rõ ràng, có ý thức
tập thể, biết giúp đỡ mọi người xung quanh.
Khám phá khoa học cũng góp phần giáo dục tính thẩm mỹ cho trẻ. Qua đó
trẻ biết yêu quý cái đẹp, biết tự làm một số công việc như chăm sóc vật nuôi,
cây trồng, biết tự tạo ra cái đẹp, biết yêu lao động, và quý trọng các sản phẩm
2
lao động. Đồng thời qua các trò chơi khám phá môi trường xung quanh trẻ được
vận động một cách khoa học hợp lý, góp phần giúp trẻ phát triển cả về thể lực và
nhân cách.
Với tầm quan trọng đó bản thân tôi luôn suy nghĩ tìm tòi những biện pháp,
thủ thuật mới để việc dạy trẻ ngày càng hấp dẫn, thu hút, lôi cuốn trẻ tham gia
hoạt động một cách tích cực đạt hiệu quả cao nhất. Với tất cả những lí do trên đã
thôi thúc tôi lựa chọn “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng khám
phá khoa học cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở trường mầm non Nga Tân” làm đề
tài nghiên cứu trong một năm qua.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khám phá
khoa học nhằm giáo dục phát triển lĩnh vực nhận thức cho trẻ 4 - 5 tuổi tại
Trường mầm non xã Nga Tân huyện Nga Sơn .
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu là: Trẻ 4 - 5 tuổi - lớp: Thỏ Xám Trường Mầm non
Nga Tân - Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp trực quan, quan sát, phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp sưu tầm tài liệu thông tin minh chứng.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
+ Phương pháp thực hành trải nghiệm.
+ Phương pháp trò chuyện giao tiếp với trẻ.
+ Phương pháp trao đổi đồng nghiệp, trao đổi phụ huynh.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Hoạt động khám phá khoa học có vị trí quan trọng trong chương trình giáo
dục mầm non, đóng vai trò chủ đạo trong phát triển lĩnh vực phát triển nhận thức
cho trẻ. Vì vậy việc giáo viên tổ chức sáng tạo các hoạt động khám phá khoa học
làm trong trường mầm non sẽ quyết định hiệu quả tác động hiểu biết của trẻ đối
với môi trường xung quanh trẻ.
Trong chương trình đổi mới giáo dục mầm non hiện nay, hoạt động khám
phá khoa học cho trẻ được quan tâm đổi mới đặc biệt đến hình thức tổ chức hoạt
động cho trẻ. Hình thức đổi mới được thực hiện linh hoạt, nhằm khai thác tối đa
hiệu quả khả năng khám phá, tìm tòi, ham học hỏi ở tất cả các độ tuổi mầm non,
mà đặc biệt là độ tuổi 4 - 5 tuổi mà tôi đang trực tiếp nghiên cứu, áp dụng thực
tiễn trên trẻ. Vì vậy việc tư duy sáng tạo để có được hình thức tổ chức hoạt động
khám phá khoa học đạt hiệu quả là yêu cầu cần thiết mà mỗi giáo viên mầm non
phải thực hiện. Do đó, tôi căn cứ vào chương trình giáo dục mầm non của bộ
3
giáo dục và đào tạo: “Nội dung của đề tài được căn cứ từ xuất phát tâm sinh lý
của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi)” với các đặc điểm cơ bản như:
- Trẻ ghi nhớ có chủ định và có khả năng tập trung tốt, bền vững hơn.
- Khả năng tư duy trực quan hình tượng của trẻ phát triển mạnh mẽ.
- Ở tuổi này xuất hiện tư duy trực quan sơ đồ cụ thể là:
+ Trẻ có khả năng đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng
và có nhu cầu tìm hiểu bản chất của chúng.
+ Trẻ đã bắt đầu lĩnh hội được tri thức ở trình độ khái quát cao và một số
khái niệm sơ đẳng.
+ Ở trẻ phát triển chức năng ký hiệu của ý thức”.[2]
Vì trẻ nhỏ ở lứa tuổi này rất hiếu động, rất thích tìm tòi khám phá khoa học,
tất cả những cái trẻ nhìn thấy đều ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ, dần dần trẻ
có được những khái niện giản đơn nhất về thế giới xung quanh có nhu cầu muốn
tìm tòi, khám phá về tính chất, đặc điểm của sự vật hiện tượng xảy ra xung
quanh trẻ trong không gian. Với ý nghĩa, tác dụng và tầm quan trọng như vậy,
chúng ta thấy rằng khám phá khoa học là rất cần thiết và không thể thiếu được
trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non.
Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giáo viên là phải tạo ra sự hứng thú tích
cực trong trẻ để trẻ vừa nắm được kiến thức, vừa hình thành và rèn luyện những
kỹ năng cần thiết của khám phá khoa học và phát huy được tính tích cực, độc
lập, sáng tạo của trẻ và luôn lấy trẻ làm trung tâm của hoạt động mà cô tổ chức.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chuyên môn, thường xuyên tổ chức tiết
dạy mẫu, các hoạt động về khám phá khoa học ở các độ tuổi cho giáo viên học
hỏi, và rút kinh nghiệm.
- Bản thân tôi luôn yêu nghề mến trẻ luôn tận tụy với công việc, luôn có
tinh thần học hỏi, tham khảo sách báo tập san, thông tin đại chúng để tìm các
phương pháp, biện pháp tổ chức tốt các hoạt động gây hứng thú cho trẻ, giúp trẻ
lĩnh hội tri thức một cách nhanh nhất.
b. Khó khăn:
- Trường chưa đạt chuẩn quốc gia, nên thiếu nhiều về trang thiết bị cơ sở vật
chất. Bản thân giáo viên muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy,
nhưng thiếu máy chiếu, bút vẽ thông minh ..., làm giảm hiệu quả tiết dạy.
- Bản thân là giáo viên trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy và chưa có
những hình thức gây hứng thú mới lạ phong phú, hấp dẫn nên chưa gây được
hứng thú ở trẻ.
- Các cháu có cùng độ tuổi, song khả năng nhận thức và tiếp thu của trẻ
không đồng đều, còn hạn chế.
4
- Xã Nga Tân là xã còn khó khăn, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, bố mẹ
làm nghề nông nên không có điều kiện cho con tiếp xúc với khoa học, dẫn đến
nhận thức của trẻ kém.
Trước những thực trạng đó, bản thân tôi đã nhận thức được nhiệm vụ của
người giáo viên là không được nản lòng trước mọi thử thách khó khăn mà cần
phải biết tìm ra các phương pháp, biện pháp sáng suốt nhất để các hoạt động
thêm sinh động. Làm cách nào để đưa trẻ đến các hoạt động đặc biệt là khám
phá khoa học một cách nhẹ nhàng khéo léo mà vẫn đạt được hiệu quả cao nhất.
c. Kết quả thực trạng.
Để công tác nghiên cứu được chính xác và hiệu quả, tôi tiến hành khảo sát
chất lượng ban đầu của lớp Tôi như sau:
* Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm (Tháng 9/ 2017)
(Bảng khảo sát 1 ở phụ lục minh họa)
- Từ kết quả trên, tôi nhận thấy kết quả còn thấp chưa đáp ứng được với
chương trình và kế hoạch đề ra. Vì vậy tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng khám phá khoa học thông qua hoạt động làm
quen với môi trường xung quanh cho trẻ 4 - 5 tuổi nhằm phát triển lĩnh vực nhận
thức cho trẻ, hướng tới mục tiêu ảnh hưởng sự phát triển toàn diện cho trẻ trong
lớp học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1 Tạo môi trường khám phá khoa học phong phú ở trong và ngoài
lớp học để kích thích trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Khám phá khoa học là điều kiện tốt để trẻ học tập quyết định sự thành công
việc tổ chức hoạt động cho trẻ của giáo viên và hiệu quả giáo dục. Hoạt động
khám phá khoa học càng đòi hỏi về yêu cầu điều kiện thực hiện nhiều hơn, với
điều kiện ở lớp tôi chưa thể đáp ứng cho việc tổ chức cho trẻ khám phá khoa học
đạt hiệu quả cao. Vì vậy việc “Tạo môi trường cho trẻ khám phá khoa học” là
hết sức cần thiết.
* Tạo môi trường trong lớp:
Tôi thiết kế dưới dạng góc mở và tiến hành trang trí lớp học phù hợp với
từng chủ đề.
- Đồ dùng đồ chơi trong lớp được thay đổi, sắp xếp phù hợp với chủ đề và
thuận lợi cho từng góc chơi.
- Tạo môi trường giáo dục thuận lợi cho trẻ được hoạt động đặc biệt là môi
trường thiên nhiên tại lớp. Trong năm học qua tôi đã sử dụng những thùng xốp,
chậu nhựa và tiến hành cho trẻ khám phá thực nghiệm bằng cách cho trẻ được tự
tay ươm trồng và chăm sóc một số loại rau, hoa. Qua đó trẻ biết đựơc quá trình
sinh trưởng và phát triển của các loại cây đó. Góc thiên nhiên của lớp tôi được
5
trồng nhiều loại cây khác nhau, những loại cây quen thuộc, gần gũi với trẻ và
thiết kế phù hợp theo từng chủ đề, trẻ được chăm sóc hàng ngày.
- Tôi lựa chọn địa điểm là khu vực hiên sau của lớp học để xây dựng khu
thiên nhiên cho trẻ được hoạt động trong khuôn viên trường, lớp học. Tạo điều
kiện cho trẻ được hoạt động trải nghiệm khám phá hàng ngày.
Ví dụ: Chủ đề thế giới thực vật khám phá sự phát triển của cây. Tôi chuẩn
bị hình ảnh quy trình phát triển của cây ở góc thiên nhiên của lớp, hột hạt đồ
dùng thí nghiệm liên quan đến các hoạt động tìm hiểu sự phát triển của cây. Tôi
cho trẻ thực hành ươm trồng và theo dõi quá trình phát triển của một số loại cây
ngắn ngày đặc trưng ở địa phương như rau cải, cà chua, hành, cây đay... Trẻ
được tự xới đất gieo hạt, tưới nước, chăm sóc cho hạt nảy mầm thành cây. Hay
cho trẻ quan sát, khám phá vật chìm vật nổi, cao thấp, dài ngắn, to nhỏ, nhẵn,
sần sùi, vị ngọt, chua,... để thỏa mãn các câu hỏi vì sao của trẻ.
- Cho trẻ được tạo ra sản phẩm tại lớp cùng cô.
Ví dụ: Thiết kế thiệp chúc mừng cô nhân ngày 20/11, ngày 8/3, chúc mừng
bà, mẹ nhân ngày 20/10...
- Tổ chức cho trẻ đóng kịch sáng tạo, tự bạch bằng ngôn ngữ của mình dưới
hình thức các hội thi, các chương trình chào mừng để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Ví dụ: Cho trẻ đóng vai các loại gia súc, gia cầm tự kể về mình và thi tài
với nhau. Qua đó trẻ thu lượm được những kiến thức về các con vật qua đặc
điểm cấu tạo, lợi ích tác dụng, cách chăm sóc bảo vệ.
Ngoài ra, tôi sử dụng các cây xanh, thảm cỏ, bông hoa là những đồ dùng đồ
chơi tự làm để phục vụ cho hoạt động góc với các trò chơi giúp trẻ được trải
nghiệm và khám phá trong hoạt động góc .
Ví dụ: Sự phát triển của cây từ hạt:
Qua hoạt động này giúp trẻ biết được thực hành trải nghiệm, biết được quá
trình phát triển của cây. Tạo sự hứng thú cho trẻ trong việc gieo trồng, theo dõi,
chăm sóc sự phát triển của cây.
Tôi đã chuẩn bị đồ dùng, nguyên vật liệu để trẻ được khám phá và trải
nghiệm đó là: Hạt hoa, khay gieo hạt và bông thấm nước và đất. Một chậu đất
nhỏ và dụng cụ làm đất.
Sau đó tôi tiến hành trẻ cùng khám phá và trải nghiệm bằng cách:
+ Tiến hành cho hạt nẩy mầm: Ngâm hạt hoa vào trong nước ấm khoảng 2
đến 3 tiếng rồi lấy ra. Và 1 hạt không ngâm nước, đặt 2 hạt vào đất để trong
chậu, đặt 2 chậu, bên cạnh nhau. (có đánh dấu 2 chậu)
+ Hàng ngày cho trẻ quan sát và tưới nước vào chỉ một chậu và tại chậu này
hạt lớn dần. Còn chậu kia không tưới nước hạt sẽ không nẩy mầm.
6
+ Tôi cùng trẻ làm đất cho vào chậu cây, gieo hạt đã nảy mầm vào chậu
cây, đặt chậu nơi có ánh sáng.
+ Hàng ngày tôi dẫn trẻ theo dõi và tưới nước cho chậu cây. Tôi hướng dẫn
trẻ quan sát và cùng thảo luận theo hệ thống câu hỏi mở đã chuẩn bị. Mỗi lần
cùng trẻ khám phá tôi ghi nhật ký và trẻ dán hình ảnh tương ứng theo năm quá
trình phát triển của cây.
- Trong quá trình trẻ khám phá và trải nghiệm sự phát triển của cây, tôi luôn
giải đáp những thắc mắc của trẻ một cách kịp thời. Đồng thời luôn tạo cơ hội để
trẻ tự khái quát lại 5 quá trình phát triển của cây theo nhật ký mà tôi và trẻ đã
ghi chép được. Tôi khẳng định kết luận lại để khắc sâu kiến thức cho trẻ.
Hình ảnh minh họa sự phát triển của cây
*Môi trường ngoài lớp:
Tôi tận dụng sân, vườn trường kết hợp với hoạt động ngoài trời để tạo nên
góc cho trẻ thực nghiệm các hoạt động như: Thực nghiệm sự phát triển của cây,
tạo góc thí nghiệm vật chìm nổi, chơi với nước, với cát…khám phá theo dõi sự
thay đổi của cây cối trong trường. Tôi cho trẻ tự khái quát lại 5 quá trình phát
triển của cây theo nhật ký của trẻ ghi được. Tôi khẳng định lại.
- Cây cần gì để lớn?
- Giúp trẻ hiểu được cây cần nước, ánh sáng và không khí:
+ Thông qua quan sát quá trình phát triển của cây, trẻ biết được cây sống
được là nhờ có nước, ánh sáng và không khí.
+ Giáo dục trẻ cây xanh có tác dụng rất lớn với môi trường sống
+ Khuyến khích trẻ trồng cây xanh, yêu quý và bảo vệ cây xanh.
7
Hình ảnh môi trường ngoài lớp học
Tôi tham mưu với ban giám hiệu nhà trường để tổ chức các buổi tham
quan, dạo chơi để trẻ được tìm hiểu một cách thực tế môi trường ngoài lớp.
Đồng thời tôi luôn tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tiếp cận với thế giới xung
quanh ngoài lớp học như: Khuôn viên trường, nghĩa trang liệt sĩ, trạm y tế,
trường tiểu học, các khu trang trại mô hình VAC, cánh đồng cói, xưởng dệt
chiếu cói và làm các sản phẩm từ cói.
Ví dụ: Ở chủ đề Nghề nghiệp với chủ đề nhánh nghề truyền thống quê em.
Tôi lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu nghề dệt chiếu quê em” và cho trẻ được khám
phá trực tiếp cánh đồng cói, xưởng dệt chiếu, đan lõi ở gần trường. Tôi luôn tạo
cơ hội giúp trẻ được trải nghiệm về nghề truyền thống của địa phương, được
tham quan quy trình làm cói cũng như những sản phẩm độc đáo từ cói, biết được
sự vất vả của các bác nông dân trồng cây cói, làm các sản phẩm từ cói như
chiếu, thảm, làn…Từ đó, giáo dục trẻ yêu nghề truyền thống của quê hương, biết
gìn giữ, bảo tồn và phát huy để sản phẩm chiếu cói Nga Sơn quê mình mãi là
niềm tự hào. “Chiếu Nga Sơn gạch Bát Tràng. Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà
Đông” [3]
8
Hình ảnh minh họa trẻ tham quan trải nghiệm nghề truyền thống địa phương
Ví dụ: Ở đề tài “Làm quen với một số loại hoa” tôi cho trẻ được khám
phá trực tiếp các loại hoa ở khuôn viên trường và 1 số vườn hoa ở gần trường.
Với đề tài “ Làm quen với một số con vật nuôi trong gia đình và làm
quen với một số loại rau” tôi kết hợp với nhà trường cho trẻ đi thăm quan mô
hình trang trại tại địa phương. Tham quan các mô hình trang trại chăn nuôi, mô
hình vườn rau sạch ở trước cổng trường.
Với đề tài “ Tìm hiểu một số danh lam thắng cảnh địa phương” tôi tổ
chức cho trẻ đi tham quan các di tích lịch sử tại địa phương mình như: Chùa
Tiên, Nghĩa trang lịch sử, thăm quan trạm y tế nơi chăm sóc sức khỏe cho trẻ và
mọi người, tạo tâm thế hồ hởi, phấn khởi thu hút trẻ tích cực tham gia vào hoạt
động trải nghiệm...
Như vậy trẻ sẽ được trải nghiệm với thực tế và trẻ sẽ phát huy được khả
năng quan sát, so sánh, phán đoán từ đó trẻ tích cực với hoạt động khám phá
khoa học.
2.3.2. Thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức khám phá khoa học
mới lạ, hấp dẫn để kích thích trẻ tích cực tham gia hoạt động học có chủ
định.
9
Hoạt động khám phá khoa học không phải là hoạt động khô khan, buồn
tẻ và cũng không đòi hỏi giáo viên phải có nhiều năng khiếu, song làm thế
nào để giáo viên truyền thụ một cách chính xác mà hoạt động không bị cứng
nhắc. Hiện nay chúng ta đang thực hiện chương trình giáo dục Mầm non mới
nên phương pháp dạy học cũng được linh hoạt sáng tạo, nhẹ nhàng thoải mái,
không gò ép. Trước khi thực hiện cho trẻ hoạt động khám phá khoa học tôi
thường nghiên cứu tài liệu tham khảo để tìm ra nhiều hình thức dạy trẻ, sau đó
chọn một hình thức dạy trẻ hấp dẫn nhất và phù hợp với đặc điểm của trẻ.
Để hoạt động học có chủ định của trẻ diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải
mái, không gây áp lực đối với trẻ, tôi đã tiến hành thay đổi hình thức tổ chức
bằng cách tích hợp lồng ghép các môn học khác làm cho giờ học không cứng
nhắc, gây nhàm chán cho trẻ.
Áp dụng phương pháp, biện pháp trên tôi đã tiến hành tổ chức cho trẻ hoạt
động khám phá cụ thể khi dạy trẻ làm quen với “Thế giới động vật”
Ví dụ 1: Ở chủ đề: “Động vật yêu quý” khi dạy trẻ đề tài: “Một số động vật
sống trong gia đình”.
Tôi đã trang trí ở góc mở làm nổi bật chủ đề, đặc biệt là góc khám phá khoa
học. Ở góc này tôi đã sử dụng góc mở có tên “Những con vật thân yêu” có hình
ảnh, đồ dùng tự làm (bằng các nguyên vật liệu phế thải) các con vật sống trong
gia đình.
Tôi chuẩn bị đầy đủ đồ dùng của cô, của trẻ:
- Máy tính, máy chiếu, bài giảng Power point về một số con vật nuôi trong gia đình. .
Đài, đĩa nhạc các bài hát: Gà trống mèo con và cún con, con gà trống...
- Mô hình các con vật nuôi trong gia đình để trẻ quan sát. Mũ gà con.
Sau đó tôi tiến hành tổ chức hoạt động với nhiều hình thức mới lạ.
Hoạt động 1: Trò chuyện, gây hứng thú.
- Tôi và 2 trẻ cùng mặc quần áo đóng vai gà trống, mèo con, cún con, trò
chuyện và cho trẻ vận động ngẫu hứng theo nhạc bài: Gà trống, mèo con và cún
con.
- Trò chuyện về một số con vật nuôi trong gia đình.
Hoạt động 2: Tìm hiểu một số con vật nuôi trong gia đình.
* Trẻ quan sát theo nhóm.
- Cô cho trẻ về 2 nhóm quan sát các con vật nuôi trong gia đình. Cô đến
từng nhóm, bao quát và đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ nói về những đặc điểm
nổi bật: Hình dáng, thức ăn, sinh sản, tiếng kêu...của các con vật nuôi trong gia
đình.
- Trẻ về chỗ ngồi, chia sẻ về những con vật vừa được quan sát với cô và các
bạn.
* Quan sát con gà trống
10
- Cho trẻ xem hình ảnh gà trống để trẻ đoán và đàm thoại:
+ Đây là con gì? Con biết gì về con gà trống? Gà trống có những bộ phận
gì? Cái mỏ của gà trống như thế nào? Để làm gì? Đôi chân của gà trống có gì
đặc biệt? Tiếng gáy của gà trống như thế nào?
(Gà trống gáy để gọi mọi người thức dậy mỗi buổi sáng. Chúng mình cùng
làm chú gà trống gáy)
- Mở rộng: Ngoài gà trống ra chúng mình còn biết những con gà nào khác nữa?
( gà mái, gà con...).
+ Thức ăn của gà là gì? (thóc, ngô, khoai, sắn...)
+ Con gà nào đẻ trứng ?
- Cô khái quát: Gà là con vật được nuôi trong gia đình. Gà có 2 chân, 2
cánh, đẻ trứng và thuộc nhóm gia cầm.
* Quan sát con Mèo:
- Cô đọc câu đố:
“Con gì tai thính mắt tinh
Nấp trong bóng tối, ngồi rình chuột qua”
+ Ai đã biết gì về con Mèo? Mắt mèo có gì đặc biệt? (mắt tròn, sáng, giúp
mèo có thể dễ dàng đi lại vào ban đêm). Con mèo có mấy chân? Chân mèo có
đặc điểm gì? (Chân mèo có một lớp đệm thịt giúp cho mèo đi lại nhẹ nhàng
không bị các con mồi phát hiện. Móng vuốt sắc nhọn để vồ mồi và giữ chặt con
mồi).
+ Tiếng kêu của mèo như thế nào? Thức ăn của mèo là gì? Món ăn mèo thích
nhất là gì? Mèo đẻ con hay đẻ trứng? Mèo được nuôi ở đâu? Nuôi mèo để làm
gì?
- Cô khái quát: Mèo là con vật được nuôi trong gia đình, có 4 chân, đẻ con
và thuộc nhóm gia súc.
* So sánh: Gà trống và mèo
- Con gà trống và con mèo có điểm gì giống, khác nhau?
- Giống nhau: Đều là con vật nuôi trong gia đình.
- Khác nhau:
+ Gà: Có mỏ nhọn, có cánh, có 2 chân, đẻ trứng.. . thuộc nhóm gia cầm.
11
+ Mèo: Có 4 chân, đẻ con...thuộc nhóm gia súc.
* Mở rộng kiến thức và giáo dục: Ngoài những con vật được làm quen
chúng mình còn biết những con vật nào khác được nuôi trong gia đình?
- Cho trẻ quan sát hình ảnh một số con vật nuôi trong gia đình.
- Cô nói: Có rất nhiều các con vật nuôi trong gia đình. Những con có 2
chân, có cánh, có mỏ đẻ trứng là thuộc nhóm gia cầm. Những con có 4 chân đẻ
con là thuộc nhóm gia súc. Nhưng chúng đều được nuôi trong gia đình và gọi
chung là động vật nuôi trong gia đình. Các con hãy yêu quý, chăm sóc, bảo vệ ...
Hoạt động 3: Trò chơi “Bắt chước vận động của các con vật”
- Cô cho trẻ bắt chước vận động của các con vật:
+ Nào chúng mình hãy cùng bắt chước vận động của con mèo khi rình
chuột nào!
+ Khi gà trống chuẩn bị gáy thì như thế nào? (Vỗ cánh, vươn vai, nghển cổ,
kiếng chân lên... ). Cho trẻ gáy ò ó o...
- Nhận xét, động viên, tuyên dương trẻ
- Kết thúc: cho trẻ xem video về “ Gà trống, mèo con và cún con”.
Thông qua hoạt động trẻ được khắc sâu kiến thức khi khám phá ở đó. Tạo
cho trẻ kĩ năng nhận biết các con vật thường nuôi trong gia đình và còn nhận
biết được các con vật thuộc nhóm nào, trẻ biết phân biệt, nhóm động vật đẻ con
hay đẻ trứng quen thuộc. Trẻ không bị bỡ ngỡ mà trở nên thân thuộc, mặt khác
trẻ còn phát triển được kĩ năng về số đếm, nhận biết số và đếm số tương ứng số
lượng các con vật, số chân, số các con vật nuôi trong gia đình mình, giúp củng
cố số lượng cho trẻ. Sau mỗi chủ đề khác nhau tôi có thể thay đổi các ký hiệu
hình ảnh cho phù hợp với từng chủ để cần dạy cho trẻ.
VD: Ở chủ đề PTGT khi cho trẻ làm quen với các phương tiện giao thông
đường bộ. Tôi cho trẻ quan sát vật thật xe máy, xe đạp, tranh ảnh một số phương
tiện giao thông đường bộ quen thuộc và trẻ chưa biết để trẻ thảo luận, so sánh từ
đó nói lên hiểu biết của mình. Thông qua hoạt động trẻ biết được tên gọi, đặc
điểm hình dáng, kích thước tiếng động cơ của các phương tiện, nơi hoạt động.
Tổ chức cho trẻ cho trẻ chơi trò chơi, nhìn hình ảnh đoán nơi hoạt động, tiếng
kêu, công dụng. Tôi chia trẻ làm 4 nhóm, 4 nhóm trưởng lần lượt lên chọn ô cửa
rồi về tổ mình suy nghĩ một phút, cùng nhau thảo luận, hết một phút cả tổ chọn 1
bạn lên thuyết trình về phương tiện ở ô cửa vừa mở ra.
Tôi thường xuyên củng cố kiến thức cho trẻ, tuyên dương, khuyến khích
trẻ. Trẻ rất thích tìm hiểu, khám phá về thế giới xung quanh, có sự nhạy cảm về
các giác quan, có khả năng quan sát, nhận xét ghi nhớ về bản thân, các hiện
tượng sự vật gần gũi của trẻ được nâng lên rõ rệt.
12
ảnh
1
2
1
3
4
3
4
Hình
minh
họa các ô cửa kỳ diệu để trẻ khám phá
Nhờ việc thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức khám phá khoa học mới
lạ, hấp dẫn mà tôi đã kích thích trẻ tích cực tham gia hoạt động học có chủ định
đạt hiệu quả rất cao. 100% trẻ hứng thú tích cực tham gia khám phá, quan sát và
trải nghiệm.
2.3.3. Tích cực tạo điều kiện cho trẻ khám phá khoa học thông qua các
hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
Tôi lên kế hoạch trong ngày, để tận dụng mọi thời điểm dạy trẻ tích hợp
trong mọi hoạt động của trẻ trong thời gian ở trường để lồng ghép nhận biết hoạt
động khám phá khoa học. Qua mỗi tuần tôi rút kinh nghiệm từ thực tế đưa ra để
trẻ khám phá, làm quen phù hợp với độ tuổi và nhận thức của trẻ trong lớp.
+ Hoạt động đón trẻ: Tôi luôn trò chuyện trao đổi với phụ huynh về tình
hình của trẻ và trò chuyện với trẻ.
VD: Hôm nay Mai An được mẹ đưa đi học bằng xe gì? Trên đường đi con
ngồi trên xe như thế nào? Con thấy xung quanh mọi người tham gia giao thông
trên đường như thế nào? Con học được những gì?
+ Thể dục sáng: Tôi cho trẻ quan sát quang cảnh, thời tiết mà trẻ ra sân,
đặt câu hỏi gợi mở:
- Các con thấy hôm nay thời tiết thế nào? (Trẻ trả lời theo hiểu biết . . )
- Chúng ta đang ở thời điểm nào của 1 ngày? 1 ngày gồm những buổi nào?
Chúng ta đang ở mùa nào trong năm? Mùa này chúng sẽ mặc quần áo như thế
nào? . . .
Hoặc khi dạy trẻ nhận biết thay đổi các cây xanh xung quanh trẻ, trẻ nhận
ra dấu hiệu của các mùa, trẻ sẽ tư duy, qua đó trẻ trò chuyện với bạn, trẻ phải
suy nghĩ để đưa ra câu trả lời từ đó phát triển ngôn ngữ, những trẻ nói lắp, nói
chưa rõ lời dần được cải thiện. Trẻ chú ý hơn, khả năng ghi nhớ tốt hơn, vốn
hiểu biết được tích lũy qua mỗi ngày, trẻ dần hoàn thiện tri thức hơn.
Ở mỗi chủ đề tôi lồng ghép, hướng dẫn để trẻ được tìm hiểu, khám phá, làm
quen với môi trường xung quanh trẻ.
* Ở hoạt động góc:
13
- Góc xây dựng: Cho trẻ xây dựng mô hình đường giao thông ở phố mình.
- Góc KPKH: Cho trẻ ghép ô tô từ những mảnh ghép rời. Trẻ được tìm hiểu
về đặc điểm cấu tạo của ô tô.
- Góc phân vai: Đóng vai cảnh sát giao thông và người tham gia giao thông.
- Góc nghệ thuật: Hát các bài hát về phương tiện giao thông như “ Em tập
lái ô tô”, “ Em đi qua ngã tư đường phố”, “ Đường em đi”
Qua các góc chơi trẻ tái hiện lại các công việc của người lớn cũng như thu
lượm được nhiều kiến thức về môi trường xung quanh.
- Góc thiên nhiên: Tổ chức cho trẻ khám phá góc thiên nhiên, làm thí
nghiệm vật chìm, vật nổi, đong đo nước, và pha màu nước.
* Ở hoạt động ngoài trời:
Tổ chức cho trẻ quan sát mô hình giao thông đèn xanh đèn đỏ.
Khi cho trẻ đi tham quan, đi dạo, ta có thể hỏi trẻ:
+ Xung quanh sân trường chúng ta có những gì? (Trẻ kể theo hiểu biết)
+ Tổ chức cho trẻ lao động cuối tuần hoặc tổ chức cho trẻ tham gia các trò chơi
như:
* Trò chơi nhặt ốc, sỏi màu xanh, màu đỏ, màu vàng để xếp thành hình đèn
giao thông:
Tôi chia trẻ thành từng nhóm. Mỗi trẻ có một cái rổ (hộp...) làm giỏ đựng
ốc và khoảng 10 viên sỏi hoặc viên bi, hạt, vải, nhãn... trẻ bốc hết số sỏi vào hai
lòng bàn tay, trải đều ra sàn. Sau đó trẻ vừa đọc lời ca, vừa đưa hai ngón tay trỏ
vào hai lòng bàn tay, trải đều ra sàn. Sau đó trẻ vừa đọc lời ca vừa đưa hai ngón
tay trỏ ra cắp từng hạt sỏi để vào giỏ bên cạnh. Mỗi câu ca, cắp một viên sỏi, trẻ
phải nhặt hết số sỏi, ai nhặt nhiều hơn là người thắng cuộc. Lần chơi đầu tiên, cô
giáo lưu ý nhắc trẻ nhặt sỏi bằng ngón tay trỏ và ngón tay cái. Nếu trẻ không gắp
được ( trẻ khó khăn về vận động tay...) thì cho trẻ đếm bằng thẻ số, ký hiệu số
lượng sỏi của các bạn, để xem ai nhiều hơn, ai ít hơn. Trẻ chơi kết hợp với lời ca
như sau: ‘‘Ốc một. Ốc hai. Bạn gái. Nhặt đi nào!”. Khi trẻ nhặt xong cho trẻ
cùng nhau xếp các đèn giao thông xanh, đỏ vàng để củng cố kiến thức cho trẻ.
Như vậy, thông qua việc cho trẻ làm các thí nghiệm, trò chơi trẻ sử dụng
tích cực các giác quan. Qua đó phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân
tích, so sánh tổng hợp và khả năng cảm nhận của trẻ nhanh nhạy chính xác hơn,
những biểu tượng kết quả trẻ thu nhận được trở lên cụ thể và sinh động hấp dẫn
hơn. Trẻ thích thú khi được quan sát hoặc thử nghiệm những hoạt động khám
phá cùng cô cùng bạn. Thông qua các trò chơi, Tôi đã tạo được cho trẻ sự hứng
thú, sự khéo léo, mềm dẻo linh hoạt và tạo được sự cạnh tranh lành mạnh, từ đó
trẻ được cuốn hút vào các hoạt động học một cách tự nhiên và hiệu quả nhất
thông qua các hình thức chơi.
14
Tóm lại: Qua hoạt động khám phá khoa học và tận dụng dạy trẻ mọi lúc
mọi nơi tôi thấy:
- Trẻ tập trung chú ý vào đối tượng. Ham học hỏi, khám phá tìm hiểu về
những sự vật, sự việc gần gũi diễn ra xung quanh trẻ.
- Giúp trẻ phát triển nhận thức nhanh, thông qua các hoạt động làm quen
với môi trường xung quanh. Mạnh dạn tự tin, trả lời lưu loát các câu hỏi.
Nhờ đó, trẻ có thêm hiểu biết về thế giới xung quanh một cách sâu rộng
hơn. Tạo điều kiện thuận lợi khi bước vào giờ học trẻ tham gia trả lời câu hỏi
một cách sôi nổi và hứng thú hơn. Trẻ được hoạt động một cách tích cực và tự
tin hơn, mạnh dạn nói lên suy nghĩ và hiểu biết của mình...tạo không khí thoải
mái cho giờ học. Và như vậy giờ học trở thành cuộc trò chuyện giữa cô và trẻ
chứ không mang tính áp đặt, gò bó. Nhờ đó mà giờ học mang lại kết quả cao
hơn.
2.3.4. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động khám phá
khoa học.
Ở lứa tuổi mầm non trẻ rất thích xem những hình ảnh ngộ nghĩnh màu sắc
sặc sỡ, sự hoạt động của các nhân vật sẽ tạo cho trẻ sự thích thú, trẻ sẽ tập trung
chú ý vào hoạt động khám phá khoa học sẽ cho kết quả tốt nhất. Chính vì vậy tôi
đã học hỏi tìm tòi, áp dụng thêm một số kiến thức của mình về tin học vào việc
soạn giáo án trên máy vi tính, sử dụng một số ứng dụng phần mềm vào việc tổ
chức các hoạt động cho trẻ ở lớp tôi, đặc biệt là hoạt động khám phá khoa học.
Một điều chính không thể thiếu trong hoạt động khám phá khoa học là cần
phải có hình ảnh để trẻ khám phá. Những hình ảnh sống động, màu sắc đẹp sẽ
thu hút, lôi cuốn sự chú ý của trẻ, trẻ sẽ nhớ lâu, kích thích trí tưởng tượng, óc
sáng tạo của cho trẻ.
Ví dụ 1: Khi thực hiện chủ đề thế giới thực vật với đề tài: Sự nẩy mầm của
cây từ hạt. Tôi cho trẻ xem video, hình ảnh về quá trình phát triển của cây trên
powerpoint. Tôi trình chiếu trên powerpoint từng hình ảnh của quá trình phát
triển của cây cho trẻ quan sát. Với hình ảnh động về sự phát triển của cây như
vậy trẻ tỏ ra hứng thú và khắc sâu kiến thức hơn.
15
Hình ảnh minh họa cho trẻ xem quá trình phát triển của cây [4]
- Sau đó tôi giáo dục trẻ phải biết bảo vệ và chăm sóc cây xanh
Ví dụ 2: Với chủ đề "Nước và các hiện tượng tự nhiên" để trẻ tìm hiểu về
các hiện tượng tự nhiên như: mưa, bão, sấm chớp... Tôi cho trẻ xem trên
powerpoint những hình ảnh sống động được quay trực tiếp từ các cơn mưa, bão,
sấm chớp...
- Giáo dục trẻ không chơi ngoài trời mưa, ở trong nhà khi có sấm chớp.
Hình ảnh cho trẻ quan sát hiện tượng mưa, sấm chớp.[5]
Như vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức khám phá
khoa học sẽ thu hút, lôi cuốn sự chú ý của trẻ, trẻ sẽ nhớ lâu, kích thích trí tưởng
tượng, óc sáng tạo của cho trẻ ngày càng phong phú.
16
2.3. 5. Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại và phán đoán ở
trẻ.
Biết được kỹ năng và nghệ thuật dạy trẻ hoạt động khám phá khoa
học cũng chưa thật sáng tạo, nên bản thân tôi khắc phục bằng cách: Thường
xuyên học tập bạn bè đồng nghiệp, luyện tập giọng nói sao cho thật truyền cảm,
tác phong dạy sao cho nhẹ nhàng, linh hoạt. Về kiến thức phải nắm vững
phương pháp dạy, cung cấp cho trẻ kiến thức dù đơn giản nhưng cũng phải thật
chính xác. Tận dụng mọi thời gian để tự rèn luyện mình, dù ở lớp hay ở nhà. Sử
dụng bộ tranh cho trẻ khám phá khoa học, theo nội dung từng bài, theo đúng
chương trình. Luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhận xét, của BGH sau mỗi tiết
dạy, để từ đó phát huy những mặt tốt, khắc phục những hạn chế .
Với mỗi đối tượng trẻ được làm quen, trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa
ra ý kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần
làm quen như vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những
hiểu về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng .
Sau khi trẻ được làm quen 3 - 4 đối tượng (trong 1 bài) tôi cho trẻ so sánh 2
đối tượng một, để trẻ có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ phân loại trong các trò
chơi.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Gia đình” khi dạy trẻ nhận biết về các hình và màu sắc ở
các kiểu nhà khác nhau
- Tôi trang trí góc mở với hình ảnh các ngôi nhà, các kiểu nhà, được vẽ bởi
các hình: vuông làm thân nhà, hình tam giác làm mái nhà, hình chữ nhật làm cửa
ra vào. (Cô có thể yêu cầu trẻ vẽ, tô các hình theo màu sắc khác nhau tạo thành
ngôi nhà).
- Thông qua đó trẻ được quan sát và khắc sâu hơn hình ảnh, đặc điểm của
các hình. Từ đó trẻ quan sát và có thể sắp xếp, nhận biết các hình để tạo thành
ngôi nhà có màu sắc khác nhau qua mỗi lần chơi. Như vậy trẻ vừa biết quan sát
các kiểu nhà gần gũi, mà biết thêm được các hình làm nên ngôi nhà, từ đó củng
cố kiến thức về các hình và màu sắc cho trẻ.
Tổ chức các trò chơi trong mỗi tiết đạy, tôi tổ chức đan xen trò chơi động
với trò chơi tĩnh, làm cho không khí tiết dạy vui tươi hào hứng và hiệu quả .
Trong hoạt động góc, trẻ được chơi và trải nghiệm ở tất cả các góc, đặc biệt
ở góc thiên nhiên: Trẻ tưới cây, nhặt lá khô héo, bắt sâu, xem sách về môi trường
xung quanh. Đặc biệt trẻ được chơi nhiều đồ vật thật, khi được hoạt động nhiều
với đồ vật thật, trẻ được nhìn, sờ, nắn, ngửi ,… Từ đó có hình ảnh trọn vẹn về
những gì xung quanh trẻ, không những thế mà tôi còn phát huy tính sáng tạo của
trẻ bằng cách cho trẻ làm tranh từ nguyên liệu thiên nhiên như: Hoa, lá ép khô ,
vỏ cây , cọng rơm . . góp phần nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại và
phán đoán ở trẻ.
Ví dụ : Cô và trẻ quan sát cây hoa hồng, hướng trẻ nhận biết màu sắc cánh
hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn, các mép của lá có răng cưa. Đưa hoa
17
lên ngửi có mùi thơm. Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của
đối tượng nên trẻ so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh. Nhờ đó mà các giác
quan của trẻ được phát triển hài hòa.
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để trẻ khám phá thế
giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ
môi trường.
Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của mỗi người, về
mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục ATGT với trẻ tạo cho
trẻ thói quen và ý thức khi tham gia giao thông với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn
giản. Đi trên đường không chạy, không nô đùa, đi bên tay phải, hoặc là nhìn
những tín hiệu giao thông. Hướng dẫn trẻ một số phương tiện giao thông đơn
giản.
Ví dụ: Hàng ngày bố mẹ đưa chúng mình đi học bằng phương tiện gì? Ngồi
sau xe chúng mình phải làm gì? Khi tham gia giao thông mọi người phải thế
nào? Chú cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ gì?
Từ những câu hỏi gợi mở, hướng trẻ vào luật lệ giao thông, để trẻ hiểu và
không bị lạ lẫm với những kiến thức đó. Trẻ được trao đổi cùng bạn, để hiểu hơn
về an toàn giao thông . . .
Thông qua mỗi hoạt động ở các thời điểm trong ngày của trẻ là một cơ hội
để trẻ được nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại và phán đoán. Từ đó,
trẻ tiếp thu, lĩnh hội hệ thống kiến thức trong thế giới xung quanh trẻ nhanh và
chính xác nhất.
2.3.6. Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để tạo cơ hội cho trẻ khám phá,
trải nghiệm môi trường xung quanh gia đình bé.
Tôi nhận thức được tại gia đình thường có rất nhiều cơ hội để giúp trẻ trải
nghiệm, vì vậy ngay từ đầu năm học khi nghiên cứu đề tài khám phá khoa học
tôi đã tổ chức 1 số hoạt động mẫu để giúp phụ huynh có nhận thức sâu sắc hơn
về hoạt động này, thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh về tầm quan
trọng của môn học này thông qua góc trao đổi phụ huynh và trao đổi trực tiếp.
Đối với trẻ mầm non dễ nhớ lại dễ quên, nếu không được luyện tập thường
xuyên thì sau ngày nghỉ sẽ quên lời cô dạy. Nên bên cạnh đó trước khi tiến hành
các đề tài khám phá khoa học tôi thường xuyên trao đổi, thông báo trước với
phụ huynh về đề tài đó, để hướng phụ huynh tới phương pháp dạy trẻ, để phụ
huynh có thể nói chuyện với trẻ giúp đỡ trẻ về đề tài đó để từ đó giúp trẻ hiểu
đúng và sâu sắc hơn về đề tài đó. Thay vì phụ huynh chỉ quan tâm xem cháu học
đến số mấy? Biết được những gì? Mà bỏ qua những thứ cần thiết bên cạnh cuộc
sống của trẻ.
Ví dụ: Với đề tài: Cây xanh và môi trường sống ở chủ đề thế giới thực vật
Tôi trao đổi với phụ huynh thường xuyên trò chuyện với trẻ để trẻ có những
hiểu biết về cây xanh và môi trường sống, về các hoạt động để bảo vệ cây xanh.
Giáo dục trẻ yêu quý, biết bảo vệ cây xanh, giữ gìn môi trường xanh – sạch –
18
đẹp. Tôi hướng dẫn phụ huynh về nhà cho trẻ quan sát thực tế bố mẹ trồng cây
và trò truyện bằng các câu hỏi qua các vấn đề có thực tế tại gia đình như:
Theo con biết đây là cây gì? Cây cần những điều kiện gì để lớn lên? Ý
nghĩa của cây xanh ? Bảo vệ và chăm sóc cây xanh?...
Hay các hoạt động ở nhà của bé; Bé cùng mẹ rửa con ốc để nấu canh chua;
Mẹ cùng bé trải nghiệm qua việc quan sát trả lời các câu hỏi: Con ốc trong chậu
nước chìm hay nổi? Khi con ốc nổi lên mặt nước thì sao? Có ăn được nữa
không? Con thấy con ốc đang di chuyển bằng cách nào? . . . Từ đó kích thích sự
húng thú tìm tòi của trẻ, trẻ chú ý quan sát, trẻ có thể dễ dàng đặt câu hỏi với bố
mẹ, người thân, phát triển nhận thức tư duy cho trẻ.
Ngoài ra tôi huy động phụ huynh sưu tầm tranh ảnh, nguyên vật liệu phế
thải hoặc đồ vật thật như: cây rau bắp cải, củ su hào để tôi cho trẻ khám phá về
các loại rau. Hoặc huy động phụ huynh sưu tầm các loại hộp sữa để tôi làm hộp
zích zắc cho trẻ chơi trò chơi trong hoạt động khám phá khoa học.
Việc kết hợp giữa gia đình và cô giáo là không thể thiếu được, giúp trẻ
luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về thiên nhiên, về xã hội
phong phú và đa dạng hơn, Vì trẻ ở môi trường là nông thôn, nên ở nhà trẻ được
tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá rất nhiều, được bố mẹ thường
xuyên cung cấp và củng cố những gì đã có thì hiệu quả việc cho trẻ tham gia vào
hoạt động khám phá khoa học là rất cao.
Sau khi thực hiện biện pháp này tôi đã nhận được sự phối hợp và ủng hộ
nhiệt tình cả về vật chất và tinh thần, như vậy phụ huynh đã nhận thức đúng đắn
về tầm quan trọng của hoạt động, vì vậy phụ huynh đã tự nguyện quyên góp các
phế liệu, cây cảnh, hột hạt do phụ huynh làm ra và ủng hộ tiền quỹ lớp để xây
dựng góc thiên nhiên ở lớp, giúp cô làm đồ dùng đồ chơi phục vụ hoạt động
khám phá khoa học mang lại hiệu quả cao.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Nhờ việc áp dụng đồng bộ các giải pháp và hình thức đổi mới tôi đã cải tiến
chất lượng, tiến hành cho trẻ hoạt động và thu được kết quả khả quan như sau:
- Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm (tháng 4/2018)
(Bảng khảo sát 2 ở phụ lục minh họa)
* Đối với hoạt động giáo dục:
Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng khám phá khoa học đã gây
được hứng thú, thu hút trẻ vào các hoạt động mà tôi tổ chức, 100% trẻ háo hức
được phát biểu ý kiến của mình, trên 90% trẻ hứng thú tiếp thu kiến thức, thực
hành trải nghiệm. Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt. Như vậy, kết quả
thực nghiệm của tôi thành công và đây sẽ là những kinh nghiệm trong tổ chức
cho trẻ khám phá khoa trong công tác giáo dục trẻ.
* Đối với cô:
19
Bản thân tôi qua sáng kiến tự rút bài học cho bản thân, sửa lỗi sai cho tiết học
tiếp theo, giúp tôi trau dồi kiến thức, lĩnh hội tri thức kinh nghiệm trong việc dạy trẻ
để kiến thức ngày một dày dặn hơn.
* Đối với đồng nghiệp:
Từ một số biện pháp mà tôi đã thực hiện, giúp đồng nghiệp trong trường học
hỏi, và rút kinh nghiệm từ đó đưa vào hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả cao
hơn, lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia hoạt động.
* Đối với nhà trường:
Thông qua hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm của tôi, giúp ban giám hiệu tổ chức
các tiết dạy mẫu về hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả cao hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Sau khi áp dụng đề tài này tôi thấy KPKH là một môn học hấp dẫn, song để
thực hiện đúng và hay lại không phải là dễ, bởi môn học này rất khó và khô
khan. Nếu cô giáo không biết cách tổ chức, gây hứng thú và lồng ghép tích hợp
nhẹ nhàng, linh hoạt các môn học khác cũng như sử dụng những thủ thuật hay
để lôi cuốn trẻ tích cực tham gia vào hoạt động thì sẽ không bao thành công.
Chính vì vậy cô giáo ngoài nắm vững các bước trên lớp cần phải thường xuyên
trau dồi kiến thức, học hỏi bạn bè, sách báo, ứng dụng công nghệ thông tin, tìm
hiểu trên các trang wed điện tử...để có một phương pháp dạy trẻ tốt nhất.
Đồng thời khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy, bản
thân tôi thấy mình cần phải không ngừng học hỏi nghiên cứu tài liệu, vận dụng
linh hoạt hơn nữa các phương pháp, biện pháp, hình thức phù hợp để giúp trẻ 4 5 tuổi làm quen với hoạt động khám phá khoa học một cách tốt nhất và đạt kết
quả cao nhất tôi rút ra được bài học kinh nghiệm sau:
- Nắm vững phương pháp cho trẻ làm quen với hoạt động khám phá khoa
học và sử dụng các biện pháp dạy trẻ sao cho phù hợp, sáng tạo, thường xuyên
thay đổi các hình thức tổ chức cho trẻ để tránh sự nhàm chán.
- Giáo viên cần chuẩn bị nội dung bài dạy chu đáo về mọi mặt, phải năng
động sáng tạo, tìm tòi kiến thức phù hợp.
- Các biện pháp được thiết kế rất dễ thực hiện, việc chuẩn bị dụng cụ đơn
giản, ít tốn kém, đảm bảo vệ sinh, an toàn cho trẻ.
- Sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy một
cách thành thạo, phù hợp.
- Nắm vững đặc điểm nhận thức của từng cá nhân trẻ để có phương pháp
dạy phù hợp.
- Tạo tình huống lôi cuốn trẻ và cho trẻ tích cực hoạt động tham gia một
cách hứng thú.
- Cô hiểu tâm sinh lý của trẻ, có những xử lý tình huống phù hợp.
- Cô cần phối hợp với gia đình và nhà trường để hiểu trẻ hơn.
20
- Các nội dung dạy trẻ luôn có tính mở, hấp dẫn, kích thích được sự tìm tòi
khám phá của trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, các thao tác tư duy như: So sánh,
phân tích - tổng hợp, óc phán đoán và khả năng suy luận của trẻ cũng được phát
triển, trẻ được vận động nhiều hơn, tạo điều kiện cho trẻ phát triển cơ thể. Qua
các hoạt động này trẻ được trải nghiệm và tự phát hiện ra các đặc điểm, mối
quan hệ giữa các sự vật hiện tượng xung quanh, trẻ tiếp thu các kiến thức khoa
học dễ dàng, có hệ thống và chính xác hơn.
- Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để có sự giúp đỡ theo yêu cầu
của nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện các chương
trình giáo dục cho trẻ.
Chính vì vậy các biện pháp, giải pháp tôi đã tiến hành trong nghiên cứu và
tiến hành áp dụng đề tài tại lớp tôi phụ trách, tôi đã đúc rút thành những kinh
nghiệm của bản thân trong quá trình tổ chức cho trẻ khám phá khoa học để áp
dụng trong công tác giáo dục trẻ của lớp tôi một cách hiệu quả, và rất quan trọng
và cần thiết để tạo cho trẻ một nền móng vững chắc là hành trang để trẻ chuẩn bị
bước các lớp tiếp theo.
3.2. Kiến nghị
* Đối với nhà trường.
- Tạo điều kiện cho giáo viên tham quan, học hỏi dự giờ những hoạt động
mẫu, dạy giỏi để nâng cao trình độ.
- Trang bị đầy đủ vật chất, đồ dùng dạy học cho cô và trẻ.
* Đối với phòng giáo dục:
Thường xuyên tổ chức tập huấn cho giáo viên tìm hiểu nâng cao kiến thức
kỹ năng về các phương pháp hướng dẫn trẻ khám phá khoa học.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm đầu tiên tôi đã nghiên cứu trong năm
qua. Tôi rất mong sự góp ý chân tình của các đồng nghiệp và hội đồng khoa học
ngành, để bản thân nâng cao hơn nữa kết quả của hoạt động khám phá khoa học
nói riêng và các hoạt động khác nói chung. Giúp tôi hoàn thiện hơn, vững vàng
hơn trên con đường truyền thụ kiến thức của mình cho thế hệ trẻ mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng
Nga Tân, ngày 13 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không sao chép nội
dung của người khác.
Người thực hiện
Mai Thị Tuyết
PHỤ LỤC
21
Bảng 1. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm (Tháng 9/ 2017)
ST
T
1
2
3
4
Tiêu chí đánh giá
Trẻ thích khám phá
tìm hiểu về thế giới
xung quanh
Trẻ hứng thú tham gia
hoạt động
Trẻ tích cực tham gia
thực hành, trải nghiệm.
Kỹ năng quan sát,
phán đoán, so sánh
Số
lượng
Kết quả trên trẻ
Đạt
Khá
TB
Tốt
Số
trẻ
Tỷ lệ
%
Số
trẻ
Tỷ Số Tỷ
lệ % trẻ lệ %
30
11
37
7
23
5
30
11
37
7
23
30
11
37
7
30
10
33
7
Chưa đạt
Số
trẻ
Tỷ lệ
%
17
7
23
5
17
7
23
23
5
17
7
23
23
5
17
8
27
Bảng 2. Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm (tháng 4/ 2018)
ST
T
1
2
3
4
Tiêu chí đánh giá
Trẻ nắm kiến thức kĩ
năng yêu cầu của
hoạt động khám phá
khoa học
Trẻ hứng thú tham
gia hoạt động
Kỹ năng tư duy của
trẻ
Kỹ năng quan sát,
phán đoán, so sánh
Số
lượng
Kết quả trên trẻ
Đạt
Khá
TB
Tốt
Số
trẻ
Tỷ lệ
%
Số
trẻ
Tỷ Số
lệ % trẻ
30
26
87
2
7
30
26
87
2
30
20
67
30
20
67
Chưa đạt
Tỷ
lệ %
Số
trẻ
Tỷ lệ
%
1
3
1
3
7
1
3
1
3
5
16
3
10
2
7
5
16
3
10
2
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
22
[1]. Trích Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3) NXB chính trị quốc gia, Hà Nội
2000;
[2]. Tài liệu chuyên đề phát triển nhận thức cho trẻ mầm non; Thông tư
28/2016/TT-BGD&ĐT của bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo.
[3]. Ca dao Việt Nam
[4] . Hình ảnh tham khảo nguồn Internet;
[5] .Hình ảnh tham khảo nguồn Internet.
23