Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 6 tuổi thông bqua hoạt động kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.92 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN

Người thực hiện: Trịnh Thị Liên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Xuân Vinh
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2018

1


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Mục lục

2

1. Mở đầu

3



1.1. Lý do chọn đề tài

3

1.2. Mục đích nghiên cứu

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu

4

2. Nội dung

5

2.1. Cơ sở lý luận

5

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

5

2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.


7

* Biện pháp 1: Tạo môi trường phong phú, hấp dẫn để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.

7

* Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động trong hoạt
động kể chuyện cho trẻ.

8

* Biện pháp 3: Rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ.

9

* Biện pháp 4: Lồng ghép hoạt động kể chuyện vào các hoạt động
khác để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

9

* Biện pháp 5: Tổ chức hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.

11

* Biện pháp 6: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phối hợp với
phụ huynh

11


* Biện pháp 7: Đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm lấy
trẻ làm trung tâm.

12

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

16

3. Kết luận - Kiến nghị

18

3.1. Kết luận

18

3.2. Kiến nghị

19

Tài liệu tham khảo

20
2


1. Mở đầu.

1. 1. Lí do chọn đề tài:
Bác Hồ hính yêu đã nói “Không có giáo dục thì không nói gì
đến nền kinh tế nước nhà” sản phẩm của giáo dục chính là con
người, là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước, trong
tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
“Trẻ em hôm nay
Thế giới ngày mai"
Trẻ em không chỉ là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi gia
đình mà còn là tương lai của đất nước, của xã hội. Việc bảo vệ
và chăm sóc là trách nhiệm của nhà nước của xã hội và của mỗi
gia đình. Trẻ em là người trực tiếp được giáo dục, là những chủ
nhân tương lai của đất nước. Do đó, sự nghiệp giáo dục đã và
đang được Đảng và nhà nước ta quan tâm, coi trọng hàng đầu
đặc biệt là giáo dục mầm non.
Giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đó là
một bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Nhiệm vụ của giáo viên mầm non là chăm sóc giáo dục để nhằm phát
triển tất cả những khả năng của trẻ, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân
cách con người, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng tiếp thu những kiến thức trong
học tập cũng như trong cuộc sống sau này.
Đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non là: Trẻ nhớ nhanh nhưng lại nhanh
quên. Khả năng ghi nhớ không chủ định là chủ yếu, khả năng ghi nhớ có chủ định
đang hình thành và phát triển. Chính vì vậy phương pháp dạy trẻ ngay từ buổi đầu
tiên là rất quan trọng, mỗi giáo viên chúng ta cần lựa chọn cho mình một phương
pháp dạy học phù hợp với đối tượng trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế của trường
của lớp mình. Từ đó giúp trẻ lĩnh hội được kiến thức một cách nhanh nhất, chính
xác nhất. Để giúp trẻ phát triển được ngôn ngữ một cách tốt nhất thì trước hết
người giáo viên cần nắm vững được vai trò của việc phát triển ngôn ngữ.
Ngôn ngữ có vai trò rất to lớn trong cuộc sống con người. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau

những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những điều kiện cần thiết như Bác Hồ đã
dạy: “Tiếng nói là thứ tình cảm lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta
phải giữ gìn và tôn trọng nó”.
Trong công tác giáo dục mầm non, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn
ngữ đối với giáo dục trẻ, ngôn ngữ đã góp phần tạo cho trẻ trở thành những con
người phát triển toàn diện.
3


Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống con người, ngôn ngữ giúp ta
nhận thức được thế giới xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ phong phú mà trẻ được nói
theo ý tưởng của mình. Ngôn ngữ chính là cơ sở của sự suy nghĩ và là công cụ tư
duy. Để đáp ứng nhận thức đó của trẻ không có cách nào khác là thông qua lời kể
của người lớn và thông qua các tác phẩm văn học có kết hợp hình ảnh trực quan.
Từ đó giúp trẻ có thể dùng lời nói để diễn đạt những cảm xúc của mình. Trẻ còn sử
dụng ngôn ngữ sâu sắc hơn, tạo cho trẻ được sống trong môi trường giao tiếp, trên
cơ sở đó nảy sinh ra nhiều suy nghĩ, sáng tạo mới.
Vì vậy là giáo viên mầm non được nhà trường phân công dạy lớp 5 - 6
tuổi, tôi không khỏi băn khoăn làm thế nào để dạy cho trẻ phát triển ngôn ngữ có
hiệu quả cao nhất tôi đã học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước, tham
khảo ý kiến đóng góp của lãnh đạo trường, cộng với việc tìm tòi, sưu tầm, sáng
tác những câu truyện, bài thơ, câu đố, những bài ca dao, đồng dao...
Để trẻ phát triển ngôn ngữ, mạnh dạn trong giao tiếp, giúp trẻ đón nhận
một cách thoải mái và hào hứng hơn. Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện”. Để
nghiên cứu và nhằm góp phần bé nhỏ của mình trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ nói chung và lớp tôi nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Giúp giáo viên tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm
nâng cao chất lượng dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua

hoạt động kể chuyện, đạt kết quả cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt
động kể chuyện”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu cơ sở lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu
có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp ghi chép, quan sát: Quan sát khả năng hoạt động của trẻ.
- Phương pháp điều tra thực tiễn, thực hành trực tiếp: Nghiên cứu tình
hình tại lớp để đưa ra các biện pháp phù hợp.
- Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại trò chuyện và phân tích, hướng trẻ
đi sâu vào nội dung câu chuyện.
- Phương pháp thực hành: Đóng vai các nhân vật trong truyện thể hiện lời
nói, cử chỉ, điệu bộ của từng nhân vật.
- Phương pháp toán học: Sử dụng phương pháp toán học để đánh giá kết
quả trên trẻ.
4


- Phương pháp khích lệ, nêu gương: Khuyến khích động viên, khích lệ trẻ
để tăng thêm hứng thú cho trẻ hoạt động.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Ngôn ngữ đối với con người nói chung, với sự phát triển của trẻ mầm non
nói riêng (đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi) có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một
trong những cơ sở, tiền đề để cho trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh
thần. Ngôn ngữ giúp cho sự phát triển tư duy của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện
giúp cho chúng ta và nhất là trẻ em giao tiếp với mọi người và giúp trẻ dễ dàng
hoà đồng vào cuộc sống một cách thân thiện nhất, nói sao cho mọi người hiểu,
hiểu khi người khác nói đó là điều cần thiết khi giao tiếp. Đồng thời, thông qua

giao tiếp giúp trẻ phát triển trí tuệ để nhận biết thế giới xung quanh và phát triển
tình cảm của trẻ.
Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học
khác như: Hoạt động khám phá khoa học, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình,
làm quen với chữ cái... mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn
làm quen văn học, bộ môn văn học trẻ sẽ được đọc thơ, Kể chuyện, đóng kịch tạo
cho trẻ được hoạt động nhiều, giúp trẻ khả năng phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn
ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tốt, cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ.
Bởi vì ở lứa tuổi trẻ được ví như tờ giấy trắng, trẻ đến lớp như mở đầu trang sách
cô giáo in lên những hình ảnh, những vốn từ, những nhân vật, cử chỉ khác nhau,
thông qua những bài thơ, câu chuyện giúp trẻ mở mang kiến thức về xã hội thiên
nhiên, thông qua môn văn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ quan
trọng trong chương trình giáo dục toàn diện cho trẻ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a. Thuận lợi:
Trường mầm non Xuân Vinh nằm giữa trung tâm của xã, trường có tổng số
học sinh 345 cháu gồm 12 nhóm lớp với 29 cán bộ và giáo viên, nhân viên trình độ
giáo viên đạt chuẩn 100% trên chuẩn 75% chất lượng giảng dạy ngày càng được
nâng lên, được phụ huynh học sinh tin tưởng số lượng học sinh ra lớp đông.
Năm học 2017 - 2018 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5 - 6 tuổi
với số cháu 35, trong đó 14 cháu nữ, 21 cháu nam, 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh
dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát
triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống
xung quanh trẻ. Đó là một thuận lợi lớn để tôi rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho
học sinh thông qua hoạt động kể chuyện,
5



Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu về chuyên môn, xây dựng
phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, Chỉ đạo sát
sao chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tạo mọi điều kiện giúp tôi những
nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi của các cháu.
b. Khó khăn
Qua thực tế ở địa phương cho thấy phụ huynh còn nói tiếng địa phương
nhiều, Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều. Phát âm
còn chưa chuẩn về các âm như: s - x., tr - ch.... Nhiều trẻ chưa phân biệt được
sự khác nhau trong cách phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung. Ví dụ:
Chưa - chư, mía - mí,15% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đồng đều,
không ổn định, vì vậy nên trẻ chưa chú ý đến các thành phần trong câu, trong từ,
bớt âm khi nói. 30% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế
dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. 10% trẻ nói, phát
âm do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ nói tiếng địa phương.
Đa số phụ huynh là nông nghiệp, bận công việc nên chưa quan tâm đến
trẻ, không trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về
nhu cầu trẻ cần. (Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào và chỉ tay vào đồ vật, đồ dùng nào
đó là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép), đây
cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ.
Với những khó khăn trên thân tôi thấy rằng cần có những biện tốt nhất
nhất nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ và tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và
hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập
cho trẻ làm quen văn học thông qua hoạt động truyện kể.
c. Kết quả thực trạng.
* Đặc điểm phát âm:
Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ hơn, ít ê a, ậm ừ, bên cạnh đó trẻ
vẫn còn phát âm sai những âm thanh khó, những từ có 2 - 3 âm tiết như: lựu lịu, hươu - hiu, mướp - mớp, rắn - dắn....
* Đặc điểm về vốn từ:
Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng từ 800 - 1300 từ. Danh từ và động từ
trẻ vẫn chiếm ưu thế. tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.

Trẻ chưa sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao thấp,
dài ngắn, rộng hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm, các từ chỉ màu sắc: đỏ,
vàng, trắng, đen, ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: hôm qua, hôm nay,
ngày mai, trẻ dùng chưa chính xác.
Một số trẻ biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam.

6


40% trẻ biết sử dụng các từ cao thấp, dài, ngắn, rộng,hẹp, 35% số trẻ đếm
được 1 - 10, tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác.
Ví dụ: Mẹ có mót ngồi không/ thay cho từ muốn ngồi không.
* Đặc điểm ngữ pháp:
Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ dùng từ
trong câu vẫn chưa thật chính xác: Ví dụ: Mẹ ơi, con muốn cái dép tê.
Trẻ chưa có khả năng kể lại chuyện theo trình tự lô gic.
Qua khảo sát thực trạng trên tôi đã có kết quả như sau:
TT

Nội dung khảo sát

1
2

Số
cháu
Khảo
sát
35
35


Kết quả
T-K

%

TB

%

Phát âm rõ ràng mạch lạc
20
57
15
43
Trẻ tự tin trong giao tiếp
18
51
17
49
Hứng thú tham gia kể chuyện
3
35
8
22
27
78
sáng tạo
Biết thể hiện ngôn ngữ hoàn
4

35
7
20
28
80
cảnh (Đóng kịch)
Để khắc phục giải quyết thực trạng và một số hạn chế trên tôi đã mạnh
dạn áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
hoạt động kể chuyện” cho trẻ như sau:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
* Biện pháp 1: Tạo môi trường phong phú, hấp dẫn để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Môi trường cho trẻ hoạt động là vô cùng quan trọng, bởi nó là chỗ dựa, là
cơ sở vững chắc cho trẻ hoạt động. Nó tạo cho trẻ hứng thú, mạnh dạn, tích cực
tham gia các hoạt động vì thế.
* Với môi trường trong lớp:
Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội
hình để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ.
Khi thực hiện các hoạt động làm quen văn học thể loại chuyện kể mà trọng
tâm là dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận dụng không gian lớp học, mảng
tường làm góc cổ tích của bé (hay bé yêu kể chuyện) để thu hút trẻ, giá đồ chơi
trưng bày các dụng cụ kể chuyện, sắp đặt tranh và các con rối sao cho trẻ dễ lấy,
dễ sử dụng, kích thích trẻ hoạt động tích cực hơn.
Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách
sử dụng tranh, sử dụng rối tay, sa bàn mô hình truyện, cho linh hoạt, thuần thục,

7


sau đó mới dạy trẻ... để giúp trẻ cảm thụ được tác phẩm văn học đó là một cách
tốt nhất.

* Với môi trường ngoài lớp:
Tôi đã không ngừng tận dụng không gian bên ngoài để cho trẻ được thực
hành trãi nghiệm: Thăm quan vườn cổ tích, trong vườn cổ tích có các nhân vật,
con vật như: Nàng bạch tuyết và 7 chú lùn, Tấm cám, và các con vật ngộ nghĩnh
khác. Tôi gợi cho trẻ gọi tên nhân vật, con vật, trong câu chuyện trẻ được nghe.
Gợi cho trẻ kể lại chuyện, đóng vai “nàng bạch tuyết và 7 chú lùn”, đóng vai
“Tấm cám” cách cô tấm cho cá ăn.…Tôi còn gợi ý cho trẻ xem tranh ảnh vẽ trên
tường trong vườn cổ tích, chân cầu thang, trên tường xung quanh trường .... cho
trẻ gọi tên các nhân vật, con vật có trong các câu chuyện, gợi hỏi trẻ con nhớ
nhân vật đó trong chuyện nào, nhân vật đó làm gì? động tác thế nào? Con làm
lại cho các bạn xem ........
Ngoài ra cho trẻ được vào góc thư viện của trường để được đọc chuyện
theo tranh, với đa dạng các loại chuyện tranh cho trẻ được thỏa thích khám phá.
Hơn thế nữa tôi còn cho trẻ được thăm quan vườn hoa, vườn rau của bé….Chơi
các đồ chơi ngoài sân vận động. Qua đó giúp trẻ được phát triển ngôn ngữ một
cách tốt nhất. Khi cho trẻ ra hoạt động ngoài trời dưới bóng mát của tán cây
ngoài sân trường, tôi thường tạo ra một sân khấu nhỏ di động đơn giản như bộ
bàn ghế, khăn, hoa lá cây, mũ, hay rối rật, rối tay.... Tôi khuyến khích trẻ đóng
kịch dưới bóng mát của cây, cô làm người dẫn chuyện, đôi khi đóng vai cùng trẻ
từ đó giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong hoạt động.
* Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động trong hoạt động kể chuyện
cho trẻ.
Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo,
lịch cũ, ống giấy, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ làm thành
những con rối, những mô hình nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Dựa và từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách
cụ thể, mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui
chơi tôi cho các cháu vào hoạt đông chơi góc để trẻ tạo ra những đồ chơi làm
bằng lá cây, giấy vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ
sưu tầm gợi mở cho trẻ tưởng tượng để kể chuyện.

Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con
rối thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật
trẻ thích.
Khi kể chuyện tùy vào nội dung câu chuyện ở mỗi chủ đề tôi sẽ lựa chọn
đồ dùng phù hợp. Trước khi kể cho trẻ nghe tô tập sử dụng đồ dùng sao cho thật
khéo léo, uyển chuyển theo nội dung câu chuyện, có thể sử dụng rối, mô hình,
8


mũ múa, tranh ảnh có màu sắc đẹp để gây hứng thú cho trẻ từ đó trẻ thích nghe
cô kể, thích xem tranh và biết cách sử dụng đồ dùng và giữ gìn tranh ảnh.
Đặc biệt cuối tiết học khi trẻ lên kể lại chuyện, hoạt động kể chuyện sáng
tạo, hay hoạt động đóng kịch tôi hướng dẫn và khuyến khích trẻ sử dụng đồ
dùng trực quan thật khéo léo, sinh động theo nội dung câu chuyện, cho nhiều trẻ
được tham gia, và thay đổi đồ dùng trực quan giúp trẻ không nhàm chán.
Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ... để làm
thành những con vật xinh xắn, ngộ nghĩnh, đa dạng màu sắc đẹp mắt gây hứng
thú cho trẻ và giúp trẻ có thể sử dụng để kể truyện theo ý thích của mình.
Ví dụ: Kể chuyện “Ba chú lợn con’’để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn bị một
sân khấu rối, các con rối được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ hoặc
có thể dùng vải may quần áo để trẻ hóa thân vào các nhân vật trong truyện.
* Biện pháp 3: Rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ.
Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, biết phân vai, biết nhập vai của mình nhận.
Rèn cho trẻ thói quen khi đứng trước đám đông, tạo cho trẻ cảm giác tự
tin, mạnh dạn, linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn đóng kịch.
Thông qua hoạt động này trẻ được thể hiện mình, được thực hành, trãi
nghiệm, được giao lưu, tiếp xúc với những hoạt cảnh mà mình thích, và sáng tạo
theo nội dung câu chuyện.
Cũng từ đó trẻ có được kỹ năng giao tiếp với bạn bè, với cô giáo và những
người xung quanh trẻ, kích thích được tính năng động, sáng tạo của trẻ.

Tạo điều kiện cho trẻ thoả thuận và tự chọn vai kể của mình theo ý thích
về sự sáng tạo của trẻ, có thể dùng lời khuyến khích động viên trẻ thực hiện vai
diễn của mình.
- Để kích thích được sự sáng tạo của trẻ tôi thường tập cho trẻ kể chuyện
bằng sa bàn. Chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hớp di chuyển các nhân vật
trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo các nhân vật
trong chuyện mình sử dụng. Hơn thế nữa tôi còn dạy trẻ ghép các nhân vật kể
chuyện, cho trẻ chọn những bức tranh trẻ thích nghép lại và kể chuyện theo ý
tưởng của mình. Sau những lần như thế tôi lại khen ngợi động viên, khuyến
khích để trẻ có động lực cho những lần sau.
* Biện pháp 4: Lồng ghép hoạt động kể chuyện vào các hoạt động khác để
phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Theo phương pháp dạy học tích hợp với môn làm quen văn học có thể lồng
ghép, kết hợp với tất cả các môn khác và giúp cho các bộ môn khác trở nên sinh
động hơn, đồng thời cũng làm tăng thêm vốn từ và kích thích sự phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
9


* Môn âm nhạc hoạt động bổ trợ đề tài: câu truyện: “Món quà của cô giáo”
Cho trẻ vận động theo bài hát “Cô giáo” sau đó đàm thoại và dẫn dắt vào bài.
* Môn toán: Tên bài dạy: “Truyện gấu con chia quà” trẻ biết cách xếp
tương ứng 1:1, biết đếm và chia đủ cho các thành viên trong gia đình.
* Hoạt động ngoài trời:
Dạy trẻ kể về những sự vật hiện tượng xung quanh cuộc sống hàng ngày,
những điều trẻ đã biết, tưởng tượng ... trẻ phải tự lựa chọn nội dung, hình thức,
ngôn ngữ, sắp xếp chúng theo một trình tự nhất định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể
theo dạng: Kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề.
Kể chuyện miêu tả hiện tượng thời tiết: trời âm u, mây đen, gió thổi mạnh trời sắp mưa.
Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự

kiện xảy ra trong thời gian nhất định của nhân vật nào đó. Ví dụ: Truyện (dê con
nhanh trí) con cáo giả vờ làm dê mẹ lúc dê đi vắng và nhúng chân vào chậu bột
cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng cáo vẫn bị dê con phát hiện và đuổi cáo đi.
* Hoạt động góc:
Dạy trẻ kể theo tri giác: Không ngừng phát triển ngôn ngữ độc thoại nên
cho trẻ nói đúng ngữ pháp tư thế tác phong khi trẻ nói và phát triển các cơ quan
cảm giác. Bởi vì trẻ quan sát tốt mới miêu tả tốt. Mục đích nhằm phát triển ngôn
ngữ cho trẻ phát triển tư duy lô gíc, khả năng quan sát, trẻ tập trung vào đồ chơi.
Chuẩn bị: Chọn đồ dùng, đồ chơi phải đẹp hấp dẫn về hình thức để làm
cho trẻ hứng thú, rung động khi kể. Chọn đồ chơi, vật thật có thể như: Gương,
lược, khăn, chén ly, cốc, gia súc, gia cầm, thực vật ... chọn tranh nên chọn tranh
có màu sắc tươi sáng bố cục rõ ràng, tổ chức cho trẻ làm quen với tranh hoặc vật
thật xác định màu sắc đặc điểm, cách chơi, cách sử dụng. Ví dụ: Người anh có
nhà to, ruộng vườn, còn em có gì? khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ phải đứng quay
mặt về phía các bạn, giọng kể phải rõ ràng, tốc độ hợp lý nếu trẻ kể sai hay
ngọng cô để trẻ kể song rồi sửa.
Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ mục đích là phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của mình. Ví dụ: Ngày mai
là ngày cuối tuần các con ở nhà làm gì? các con chú ý những việc đã làm hoặc đi
chơi như thế nào? kể lại cho cô nghe. Tôi chọn hình thức cả lớp tham gia sau đó
cho cá nhân trẻ kể.
Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là yêu cầu trẻ kể diễn cảm, lô gíc, các câu nói
phải đúng ngữ pháp, thể hiện rõ ràng về ngôn ngữ có thể kể bằng mô hình, hay
bằng tranh, có thể hình thức cô kể một đoạn, rồi yêu cầu trẻ kể tiếp, tổ chức
nhiều hình thức sinh động phát huy trí tưởng tượng của trẻ, đó cũng là điều kiện
thuận lợi để phát huy tính tư duy lô gíc cho trẻ một cách tốt nhất.
10


Hơn thế nữa trong giờ hoạt động góc tôi còn tổ chức cho trẻ vào góc thư

viện trong đó có đa dạng các loại sách, tranh truyện.
Cho trẻ được thực hành trãi nghiệm được cầm sách, giỡ sách, lật từng
trang một. Đầu tiên cô đọc truyện cho trẻ nghe, sau đó đàm thoại về nội dung
câu chuyện giúp trẻ hiểu sâu hơn về nội dung câu chuyện, về tính cách của từng
nhân vật trong chuyện.
Cô có thể cho trẻ tập kể chuyện theo tranh những nội dung câu chuyện
mà cô vừa đọc. Khi trẻ kể trẻ giỡ từng trang có các bức tranh trẻ chỉ nhìn vào
tranh và kể theo ý nghĩ của mình. Điều đó giúp tăng vốn từ cho trẻ và thể hiện
tính cách của mình theo nội dung câu chuyện.
* Biện pháp 5: Tổ chức hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
Hoạt động mọi lúc mọi nơi cũng là biện pháp giúp trẻ ổn định, và tăng
cường khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua cách hoạt động tổ chức
ngày lễ hội tổ chức cho trẻ hoạt động kể chuyện, đóng kịch, theo một chương
trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với
bộ môn làm quen với văn học thể loại kể chuyện cho trẻ.
Ví dụ: Ngày hội 8 - 3 trẻ kể về bà về mẹ, về cô giáo… hay ngày tết 1- 6 kể
về Bác Hồ với thiếu nhi, hay ngày 22 - 12 trẻ kể chuyện sáng tạo về chú bộ đội,
ngày tết trung thu trẻ kể về chị hằng nga, hoặc hội thi bé kể chuyện giỏi…..
* Biện pháp 6: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phối hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã biết môi trường tiếp xúc chủ yếu của trẻ là gia đình và
nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện
pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc tạo
nguồn nhiên liệu của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Tôi trao đổi và vận động phụ huynh giành thời gian để tâm sự với trẻ và
lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng, sử dụng tiếng phổ
thông, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, cha mẹ người thân phải cố gắng phát
âm đúng cho trẻ bắt chước.
Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh
không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ
không chính xác.

Làm bản tin về chương trình dạy theo chủ đề trong tuần để phụ huynh biết
và phối kết hợp với giáo viên rèn thêm cho trẻ ở nhà.
Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu, nguyên liệu như: giấy, sách, những lọ
nhựa, quần áo cũ, vải vụn ... để làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc học của trẻ.
Tuyên truyền dưới hình thức, bảng tuyên truyền đẹp, thay đổi nội dung và
hình thức phù hợp với chủ đề. ví dụ: Chủ đề: Thế giới thực vật, tết và mùa xuân,
11


bảng tuyên truyền có những hình ảnh về tết và mùa xuân, câu thơ, câu truyện,
bài hát, đồng dao...có tổ chức giao lưu giữa lớp với phụ huynh.
Tuyên truyền bằng truyền thanh, đài phát thanh có nội dung theo chủ đề,
những câu truyện hấp dẫn vào giờ đón, trả trẻ để các cháu và phụ huynh được
nghe.
Tuyên truyền góc chơi đặc biệt góc học tập, thường thay đổi tranh ảnh để lôi
cuốn trẻ, giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh vào giờ đón và trả trẻ trao đổi về
trẻ trong khi kể chuyện đọc truyện trò chuyện giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ một
cách tốt nhất
* Biện pháp 7: Đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm lấy trẻ làm
trung tâm.
Qua quan sát, khảo sát thực tế của lớp bản thân đã áp dụng “giáo dục trẻ
theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm” nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một
cách tốt nhất, trước tiên tôi đã sử dụng các bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm
phát triển thính giác, âm vị. Tiếp đó là tập trung vào tăng vốn từ, nói diễn cảm,
rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó, Bên cạnh đó tôi còn đi sâu vào vấn đề luyện
trí nhớ cho trẻ thông qua những bài thơ, đồng dao, đặc biệt là những câu chuyện
kể lôi cuốn, và hấp dẫn, gợi cho trẻ sử dụng câu đơn giãn, đủ nghĩa
Khi đã có một số vốn từ phong phú trẻ sẽ kể lại truyện, không bị bí từ khi
vào vai điễn, trẻ có thể kể sáng tạo hơn theo ý của mình và đóng kịch một cách
hứng thú hơn.

* Dùng các thủ thuật gây hứng thú cho trẻ.
Khi vào bài dạy tôi đã dùng những thủ thuật vào bài một cách sinh động để
gây sự chú ý của trẻ bằng bài hát hoặc trò chơi, câu đố, sử dụng rối tạo tình
huống hay bằng mô hình đưa trẻ vào nội dung chính một cách nhẹ nhàng, thoải
mái nhưng thích hợp.
- Ví dụ: Chủ điểm: Thế giới động vật, tên bài dạy kể chuyện “Ba chú lợn
con” tôi sử dụng mô hình các chú lợn con màu sắc xinh động ngộ nghĩnh, và các
ngôi nhà khác nhau, nhà rơm, nhà gỗ, nhà gạch, có cây cối, hoa đẹp để gây hứng
thú cho trẻ.
Tổ chức hoạt động đa dạng dựa vào hoạt động trọng tâm. Ví dụ khi trọng
tâm là kể chuyện sáng tạo, tôi cho trẻ tự lựa chọn cách sử dụng trang phục, đồ
dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ kể dựa theo các hình thức khác
nhau, tôi luôn động viên, khuyến kích trẻ, gợi ý cho trẻ thể hiện ngữ điệu giọng
nói của nhân vật khác nhau trong chuyện (Giọng nhẹ nhàng, gắt gỏng, quát to,
sợ hãi ...), hay cử chỉ điệu bộ nét mặt, động tác tay, cơ thể ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Từ đó trẻ thích thú tham gia kể chuyện sáng tạo, ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc và
chính xác hơn.
12


* Cùng trẻ kể lại chuyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề.
Dạy trẻ kể lại truyện: để trẻ tái hiện lại một cách diễn cảm tác phẩm văn
học mà trẻ được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của
các tác giả và của giáo viên. tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu
chuyện, trẻ phải kể bằng ngôn ngữ của chính mình, truyền đạt nội dung câu chuyện
một cách tự do thoải mái không áp đặt trẻ nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
* Yêu cầu với cô:
Khi kể phải diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ phải rõ
ràng. Mẫu chuyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt
được: Về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện.

Ví dụ: Câu chuyện: Quả bầu tiên: Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé con
nhà nghèo nhưng vô cùng tốt bụng cậu luôn quan tâm giúp đỡ mọi người, mọi
vật sống xung quanh mình. Khi thấy một con én bị thương cậu bé đã chăm sóc
con én khỏi đau và khi mùa đông đến cậu bé đã thả con chim én bay về xứ sở
phương nam để chánh rét, mùa xuân năm sau con chim én bay trở về và mang
cho cậu bé một hạt bầu tiên.
Thời gian đầu khi trẻ chưa quen trẻ kể theo mẫu câu của cô. Khi trẻ đã
quen cô khuyến khích trẻ kể bằng ngôn ngữ của mình.
Khi cô gọi trẻ lên, trẻ không kể, cô nên đặt câu hỏi gợi ý để trẻ trả lời giúp
trẻ mạnh dạn, có thói quen giao tiếp tốt.
Nếu trẻ quên, cô có thể nhắc hoặc đặt câu hỏi cho trẻ nhớ. Trẻ kể xong, cô
nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến cuối giờ trẻ sẽ quên mất
những ưu nhược điểm của mình hay của bạn.
Cô cần nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên
trẻ, nhận xét cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong của trẻ khi kể.
* Yêu cầu đối với trẻ:
Kể nội dung chính của câu chuyện không yêu cầu trẻ kể chi tiết lời kể
phải có cấu trúc ngữ pháp, giọng kể diễn cảm to, rõ ràng, không ê a, ấp úng cố
gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
Trước giờ kể chuyện cho trẻ nghe cô giao nhiệm vụ cho trẻ phải ghi nhớ
và kể lại nội dung câu chuyện mà cô sẽ kể.
Khi trẻ kể phải quay mặt xuống các bạn, kể với tốc độ vừa phải, giọng rõ
ràng, tư thế tự nhiên. Trong quá trình kể, trẻ đứng sai tư thế, phát âm sai cô nên
để trẻ kể xong mới sửa sai cho trẻ.
* Yêu cầu với câu hỏi:
Như chúng ta đã biết đàm thoại nhằm mục đích giúp trẻ nhớ lại nội dung
câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện kể, lựa chọn hình thức ngôn ngữ,
cách dùng từ đặt câu. Vì vậy khi đặt câu hỏi về tên nhân vật, thời gian, không
gian, hành động chính, lời nói, cá tính nhân vật... Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả
13



về hình thức và ngữ pháp, ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức
của trẻ. Khi đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa,
từ khó và những cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể.
* Chơi đóng vai theo chủ đề:
Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào cuộc nói chuyện với
bạn để phân vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước giọng nói của
các nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đối thoại của trẻ thêm phong
phú và đa dạng.
Ví dụ: chủ đề: Gia đình: Nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ đi
chợ, nấu ăn, chăm sóc các con; ba đi làm; ông bà kể chuyện cho các cháu nghe.
* Chơi đóng kịch:
Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn
ngữ đối thoại cho trẻ. Nội dung kịch được chuyển thể từ tác phẩm văn học mà
trẻ đã được làm quen. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giũa
chọn lọc.
Khi đóng trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ
đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: Chủ đề: Gia đình câu chuyện: Tích chu.
Cháu Xuân Vũ đóng vai Tích Chu (lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng
lời), sau biết lỗi (tỏ thái độ biết nhận lỗi, giọng trầm): Bà ơi bà ở đâu? Bà ở lại
với cháu đi, Cháu sẽ đem nước cho bà uống, bà ơi!
Cháu Khánh Ly đóng vai bà (giọng run run, rứt khoát): Bà đi đây! Bà
không về nữa đâu!
Cháu Quỳnh Anh đóng vai bà tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng
nói dịu dàng, nhỏ nhẹ): Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thì cháu phải đi lấy nước suối
tiên cho bà cháu uống, đường lên suối tiên xa lắm, cháu có đi được không?
* Từ những ví dụ trên tôi tiếp tục soạn một giáo án cụ thể mà tôi áp dụng
thực hiện trên trẻ lớp tôi qua việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua

hoạt động kể chuyện.
Chủ đề: Thế giới động vật
Nhánh các con vật sống trong rừng
Văn học: Truyện “Chú đê đen”.
( Truyện trẻ đã được làm quen)
I.Mục đích yêu cầu:
1.Kiến thức:
- Trẻ nhớ được tên câu truyện, tên tác giả, tên các nhân vật trong truyện,
- Trẻ hiểu nội dung truyện.
2. Kỹ năng:
- Luyện kỹ năng nghe và hiểu ngôn ngữ văn học.
14


- Luyện cách thể hiện ngữ điệu, giọng nói của các nhân vật trong chuyện.
+ Chó sói: Giọng gian ác, ồm ồm.
+ Dê đen: Dũng cảm, nói to.
+ Dê trắng: Nhỏ nhẹ, run sợ.
- Luyện kỹ năng cho trẻ nói câu dài
- Trẻ mạnh dạn trả lời câu hỏi của cô.
3. Giáo dục:
- Giáo dục trẻ biết dũng cảm, bình tỉnh giải quyết mọi chuyện.
II. Chuẩn bị:
- Powerpoint có các slide nội dung câu chuyện “Chú dê đen”
- Khung diễn rối câu chuyện
- Mũ các nhân vật trong chuyện: Chó sói, dê đen, dê trắng
- Sa bàn cảnh khu rừng có cây cối, cỏ, hoa…...
III. Tiến hành:
Hoạt động của cô
Dự kiến hoạt động của trẻ


15


1. Hoạt động 1: Ổn định tổ chức, gây hứng thú
- Cho trẻ hát minh họa bài “Đố bạn”
- Các con vừa hát bài hát gì?
- Trong bài hát có nhắc tới những con vật gì?
- Những con vật đó sống ở đâu?
- Có một câu chuyện kể về 2 chú dê lần lượt đi
vào rừng kiếm lá non để ăn, nước mát để uống
không may gặp phải chó sói. Chú dê trắng nhút
nhát nên đã bị chó sói ăn thịt còn chú dê đen vì
thông minh và dũng cảm nên không bị ăn thịt mà
còn đuổi được chó sói đi.
- Cô đố các con đó là nội dung câu chuyện gì?
2. Hoạt động 2:
Nội dung chính
* Cô kể lần 1: Kết hợp diễn rối cho trẻ xem.
- Các con vừa được xem vở rối gì?
- Trong vở rối có những nhân vật nào?
* Cô Kể lần 2: Kết hợp xa bàn - giảng nội dung
câu chuyện.
- Chú dê trắng đi vào rừng tìm cỏ non và nước
mát nhưng vì nhút nhát nên đã bị chó sói ăn thịt.
Còn chú dê đen vì dũng cảm nên đã không bị ăn
thịt và đuổi được chó sói đi.
* Cô kể lần 3: Kết hợp powerpoint - trích dẫn
đàm thoại làm rõ ý.
- Đàm thoại:

+ Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì?
+ Chú dê trắng đi vào rừng làm gì?
+ Đang gặm cỏ non dê trắng gặp ai?
+ Chó sói đã hỏi dê trắng những gì?
+ Dê trắng đã trả lời chó sói như thế nào?

- Trẻ hát cùng cô
- Bài đố bạn
- Con khỉ, chú voi, hươu sao,
bác gấu đen
- Sống ở trong rừng

- Chú dê đen

- Chú dê đen
- Chó soi, dê đen, và dê trắng

- Chú dê đen
- Tìm lá non và nước mát
- Gặp cho sói
- Dê kia mày đi đâu?
- Tôi đi tìm lá non để ăn và
nước suối mát để uống

+ Khi gặp chó sói thái độ của dê đen như thế
nào?
- Dũng cảm.
+ Chó sói hỏi dê đen những gì?
- Dê kia mày đi đâu?
+ Dê đen đã trả lời ra sao?

- Ta đi tìm những kẽ nào hay
gây sự đây.
+ Chó sói có ăn thịt dê đen được không? Vì sao? - Không! Vì dê đen dũng
cảm, quát to.
16


- Qua câu chuyện này các con yêu quý nhân vật
nào? Vì sao?
- Chú dê đen! Vì dê đen dũng
cảm, thông minh.
* Giáo dục: Nhờ trí thông minh và sự dũng cảm
mà dê đen đã đuổi được chó sói gian ác đi.
- Các con ơi truyện “Chú dê đen” không những
được trình chiếu trên mô hình hay trên màn hình
nữa đâu mà chuyện còn được chuyển thể thành
kịch bản để chúng mình tập đóng kịch nữa đấy.
Các con chắc hẵn đã chọn cho mình được một
nhân vật mà mình yêu thích rồi đúng không?, cô
mời các con lên chọn mũ nhân vật mà mình thích
nào!
- Vâng ạ.
+ Con muốn đóng vai con dê trắng, dê đen hay - Trẻ trả lời theo ý thích của
chó sói nào?
mình
+ Khi thể hiện nhân vật chó sói thì con phải nói
với ngữ điệu, giọng như thế nào?
- Hung giữ.
+ Bạn nào muốn đóng vai dê đen (dê trắng)?
- Trẻ trả lời

+ Khi đóng vai dê đen (dê trắng) các con sẽ nói
như thế nào?
- Trẻ trả lời
- Sau khi thỏa thuận vai diễn xong cô sẽ đóng vai
người dẫn truyện, chuẩn bị khung cảnh cho trẻ
tập đóng kịch.
3. Hoạt động 3:
Kết thúc
Cô nhận xét vỡ kịch và khen ngợi động viên trẻ. - Trẻ ra chơi.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Sau khi áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6
tuổi thông qua hoạt động kể chuyện” Trong năm học 2017 - 2018 tôi đã thu
được kết quả như sau:
* Đối với bản thân và giáo viên:
Bản thân tôi và giáo viên đã nắm chắc phương pháp, tự tin, linh hoạt hơn
trong các tiết dạy.
Bản thân có thêm nhiều kinh nghiệm tổ chức hoạt động giáo dục phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
Bản thân nắm vững được đặc điểm tâm lý ,tình hình của từng trẻ từ đó
đưa ra những biện pháp có phương hướng giáo dục trẻ thích hợp hơn.
17


Hình thức tổ chức đa dạng, phong phú theo các chủ đề.
Sưu tầm làm được nhiều đồ dùng, rối…và tổ chức cho trẻ được kể truyện
sáng tạo theo tranh, đóng kịch thể hiện năng khiếu của cá nhân trẻ và nhóm bạn.
* Đối với nhà trường:
- Từ việc áp dụng “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6

tuổi thông qua hoạt động kể chuyện” cho trẻ tại lớp, qua các thao giảng, thăm lớp
dự giờ ban giám hiệu thấy trẻ lớp tôi nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
cũng như tích cực tham gia và hoạt động đọc, kể diễn cảm các câu chuyện cũng
như đóng kịch thể hiện được nội dung và tính cách, cử chỉ điệu bộ của các nhân vật
trong chuyện, các giờ học của lớp đều đạt kết quả tốt. Từ đó tôi đã trao đổi kinh
nghiệm của bản thân với đồng nghiệp qua các buổi họp chuyên môn, đến nay các
lớp mẫu giáo trong trường đã tổ chức tốt việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ
qua các hoạt động, đặc biệt là đối với các lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Các lớp đã phối
hợp với phụ huynh làm rối tay, mủ, trang phục cho các nhân vật trong chuyện từ
nguyên liệu sẵn có ở địa phương. Tổ chức đóng kịch cho trẻ từ đó giúp trẻ hứng thú
hoạt động và thích được đến trường đến lớp để học.
- Đã tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan học hỏi dự giờ những tiết
dạy mẫu, dạy giỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học cho cô và trẻ.
* Đối với trẻ:
- Trẻ hứng thú tự nguyện tham gia các hoạt động.
- Trẻ biết kể chuyện, đọc thơ rõ ràng mạch lạc. So với đầu năm.
- Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, nhận thức tốt hơn trong cuộc sống.
- Hứng thú tham gia kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch.
* Cụ thể kết quả khảo sát cuối năm như sau:
Bảng đối chiếu kết quả đầu năm so với kết quả đánh giá cuối
năm sau khi thực hiện:
Số
Đầu năm
Cuối năm
T
cháu
Nội dung khảo sát
T
Khảo

sát T-K % TB % T-K % TB %
Phát âm rõ ràng mạch
1
35
20 57 15 43 35 100 0
0
lạc
Trẻ tự tin trong giao
2
35
18 51 17 49 32 91
3
9
tiếp
Hứng thú tham gia kể
3
35
8
22 27 78 30 86
5 14
chuyện sáng tạo
Biết thể hiện ngôn ngữ
4
35
7
20 28 80 29 83
6 17
hoàn cảnh (Đóng kịch)
18



Qua bảng khảo sát đầu năm tôi rất lo lắng về tình hình học tập của các
cháu nhất là việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt được rất thấp nhưng sau khi áp
dụng các biện pháp trên tôi rất vui mừng vì trẻ lớp tôi đạt được kết quả rất tốt.
3. Kết luận - Kiến nghị.
3.1. Kết luận:
Giáo dục mầm non là một bậc học đòi hỏi có nghệ thuật khoa học khác
với bậc học khác. Vì vậy, trước hết người giáo viên phải có sự năng động, sáng
tạo, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức lối sống, chủ
động trong công tác chuyên môn, chất lượng giáo dục trong nhà trường nói
chung và của lớp nói riêng.
Qua quá trình nghiên cứu và thực tế ở lớp, tôi đã rút ra cho mình những
bài học bổ ích giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn khi lên lớp. Điều quan trọng
đầu tiên đối với trẻ là chuẩn bị tri thức cho trẻ, kết hợp với việc soạn giáo đầy
đủ, sáng tạo và có thủ thuật lên lớp. Say mê không chưa đủ mà đòi hỏi môn văn
học phải phát huy hết khả năng của mình để dẫn dắt trẻ.
Vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng hơn, nói nhiều câu có
nghĩa đầy đủ, trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.
Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia
học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.
- Trẻ kể chuyện theo trí nhớ tốt.
- Trẻ đã tham gia đóng kịch thể hiện vai diễn của mình tốt
- Trẻ phát âm chính xác hơn, ít sử dụng ngôn ngữ địa phương.
- 100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ tham gia làm đồ dùng đồ chơi cho các
cháu như: tranh ảnh, sách báo, truyện theo chủ đề, truyện sáng tạo, khâu rối tay
giống vải, góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ, trẻ hứng thú khi học môn văn
học thể loại truyện kể.
3. 2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
Cần tăng cường cơ sở vật chất, ngoài ra cần đầu tư trang thiết bị dạy học

như: máy tính, máy chiếu dạy trẻ, có sân chơi, khu vườn cổ tích ... cho giáo viên
thực hiện tốt phương pháp đổi mới trong công tác giảng dạy, gây sự húng thú
của trẻ hiệu quả học tập của trẻ đạt chất lượng cao.
* Đối với phòng giáo dục:
Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia vào các hoạt động học tập ở các đơn
vị bạn có điều kiện cơ sở vật chất tốt, và có giáo viên dạy tốt để học tập trao đổi
rút kinh nghiệm.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc nghiên cứu áp dụng “Một số
biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể
chuyện”. ở trường mầm non Xuân Vinh. Rất mong nhận được sự đánh giá góp ý
19


của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để bản thân tôi có được những
kinh nghiệm quý báu giúp tôi có chuyên môn vững vàng hơn trong công tác
giảng dạy của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.

XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG

Xuân Vinh, ngày 18 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết SKKN

Đỗ Thị Dỹ
Trịnh Thị Liên


* Tài liệu tham khảo:
1. Điều lệ trường Mầm non
2. Hướng dẫn: Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo thông tư số
17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2019 của bộ trưởng bộ giáo dục đào
tạo - Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
3. Các chuyên san về giáo dục mầm non
4. Một số chuyên đề về giáo dục mầm non
5. Các chuyên san, Báo giáo dục và thời đại
6. Mạng Intenet.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Liên.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Mầm non Xuân Vinh.

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá
xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,

(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

21


Một số biện pháp cho trẻ mẫu
1.

giáo 4-5 tuổi làm quen với

Phòng giáo
dục Thọ Xuân

C

2003 - 2004

Phòng giáo
dục Thọ Xuân

C

2006 - 2007


Phòng giáo
dục Thọ Xuân

C

2013 - 2014

Phòng giáo
dục Thọ Xuân

B

2017-2018

hoạt động tạo hình
Một số biện pháp cho trẻ mẫu
2.

3.

4.

giáo 5 - 6 tuổi làm quen với
chữ cái.
Các biện pháp giúp trẻ 4-5
tuổi nâng cao khả năng cảm
thụ văn học
Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua hoạt động kể

chuyện.

22



×