Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Chi tiêu chính phủ và vấn đề biến đổi khí hậu ở các nước asean giai đoạn 1990 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐĂNG KHOA

CHI TIÊU CHÍNH PHỦ VÀ VẤN ĐỀ
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở CÁC NƯỚC
ASEAN GIAI ĐOẠN 1990-2013.

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐĂNG KHOA

CHI TIÊU CHÍNH PHỦ VÀ VẤN ĐỀ
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở CÁC NƯỚC
ASEAN GIAI ĐOẠN 1990-2013.

Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Vũ Thị Minh Hằng

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện. Các số liệu
sử dụng để phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng và đã được công bố theo đúng
quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn được tôi tìm hiểu, phân tích một cách
trung thực, khách quan. Tất cả những bài tham khảo và kế thừa đều được trích dẫn và
tham chiếu đầy đủ theo quy định.


MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ........................................................................................... 1
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU: .......................................................... 3
3. MỤC TIÊU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: ...................................................... 5
4. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: .................................................. 6
5. PHẠM VI THU THẬP SỐ LIỆU:............................................................................ 7
6. Ý NGHĨA THỰC TIỄN: .......................................................................................... 7

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT. ............................................................... 9
1.1. Tổng quan về chi tiêu chính phủ............................................................... 9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại chi tiêu chính phủ......................................... 9
1.1.2. Vai trò của chi tiêu chính phủ và các nhân tố tác động. ................................... 11

1.1.3. Quan điểm của các nhà kinh tế học về chi tiêu chính phủ................................ 14

1.2. Biến đổi khí hậu. ...................................................................................... 19
1.2.1. Biến đổi khí hậu là gì? ...................................................................................... 19
1.2.2. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. .................................................................. 20
1.2.3. Tác động của biến đổi khí hậu. ......................................................................... 23

1.3. Những nhân tố tác động tới biến đổi khí hậu......................................... 25
1.3.1. Chi tiêu chính phủ của quốc gia. ...................................................................... 25
1.3.2. Mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia. ............................................................. 28
1.3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế. ................................................... 31


1.3.4. Độ mở thương mại của nền kinh tế. ................................................................. 33

1.4. Tổng quan tình hình nghiên cứu............................................................. 34
1.5. Kết luận. ................................................................................................... 38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHI TIÊU CHÍNH PHỦ VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU TẠI ASEAN. ......................................................................................... 39
2.1. Vấn đề biến đổi khí hậu. ......................................................................... 39
2.1.1. Lượng phát thải khí CO2 tại các nước ASEAN. .............................................. 39
2.1.2. Hậu quả của biến đổi khí hậu tại một số nước ASEAN. .................................. 41

2.2. Chính phủ các nước ASEAN đối phó với biến đổi khí hậu như thế nào? .. 44
2.2.1. Thực trạng tổng chi tiêu chính phủ tại các nước ASEAN. ............................... 44
2.2.2. Chi tiêu chính phủ nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. ................................ 45
2.2.3. Chi tiêu chính phủ nhằm giảm nhẹ biến đổi khí hậu. ....................................... 47

2.3. Bài học kinh nghiệm có thể áp dụng tại Việt Nam. ............................... 49
2.4. Kết luận. ................................................................................................... 50

CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG. ................. 51
3.1. Mô hình thực nghiệm. ............................................................................. 51
3.2. Dữ liệu nghiên cứu................................................................................... 53
3.3. Phương pháp ước lượng. ......................................................................... 57
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT LUẬN. ......................... 58
4.1. Kết quả nghiên cứu. ................................................................................ 58
4.2. Kết luận. ................................................................................................... 61
PHẦN KIẾN NGHỊ........................................................................................ 62
1. HÀM Ý CHÍNH SÁCH: ......................................................................................... 62
2. CÁC HẠN CHẾ CỦA BÀI NGHIÊN CỨU: ......................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Thống kê các biến được sử dụng trong bài......................................................... 7
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước ASEAN 2004-2015 (%).................. 39
Bảng 3.2: GDP trên đầu người tại các nước ASEAN 2006-2013 (USD). ..................... 40
Bảng 4.2: Thâm hụt ngân sách tại các nước ASEAN 2006-2013 (%GDP)................... 45
Bảng 5.3: Thống kê các biến chính được sử dụng trong bài nghiên cứu. ...................... 53
Bảng 6.3: Thống kê mô tả các biến trong mô hình. ....................................................... 54
Bảng 7.3: Bảng kiểm định tính dừng các biến bằng nhiều phương pháp. ..................... 55
Bảng 8.3: Bảng ma trận hệ số tương quan các biến trong mô hình. .............................. 56
Bảng 9.4: Kết quả ước lượng cho biến phụ thuộc lnCO2. ............................................. 58
Bảng 10.4: Kết quả kiểm định mô hình. ........................................................................ 59


DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Nguồn phát thải khí nhà kính liên quan CO2. ............................................... 21
Hình 2.1: Tương tác giữa chi tiêu chính phủ và môi trường.......................................... 28

Hình 3.1: Đường cong Kuznets về môi trường. ............................................................. 29
Hình 4.2: Lượng phát thải CO2 trên đầu người ở nước cao nhất và thấp nhất tại
ASEAN 1980-2014 (tấn theo hệ mét trên đầu người) ................................................... 41
Hình 5.2: Chi tiêu chính phủ tại một số nước ASEAN 1980-2014 (triệu USD). .......... 44


1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hiện nay, con người đang phải hứng chịu hàng loạt các vấn đề bức xúc về môi trường
trên phạm vi toàn cầu, chẳng hạn: biến đổi khí hậu, tuyệt chủng một số giống loài,
nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm, tầng ôzôn bị hủy hoại, đất đai dần biến thành
hoang mạc, nguy cơ phát tán các chất độc hại … Những vấn đề này đều trực tiếp tác
động tới sự sống còn của con người cũng như sự phát triển của nhân loại. Trong các
vấn đề kể trên, dù ở mức độ quốc gia hay toàn cầu thì biến đổi khí hậu luôn được xem
là vấn đề sống còn và là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển lâu dài của nhân loại.
Mặt khác như chúng ta đã biết, nguyên nhân mà biến đổi khí hậu xảy ra có thể là do
yếu tố tự nhiên chẳng hạn: mặt trời thay đổi cường độ sáng, chu kỳ hoạt động núi lửa,
dòng chảy đại dương thay đổi, quỹ đạo quay của trái đất thay đổi; cũng có thể là do yếu
tố con người thông qua lượng khí nhà kính được phát thải (bao gồm: CO2, CH4, N2O,
CFC và HCFC). Bên cạnh đó, tồn tại một số phản ứng có thể làm gia tăng hoặc làm
giảm bớt các biến đổi ban đầu. Ví dụ như các đại dương và chỏm băng, chúng phản
ứng rất chậm với biến đổi từ bức xạ mặt trời vì khối lượng của chúng quá lớn. Vì vậy,
môi trường khí hậu có thể mất nhiều thế kỷ hoặc lâu hơn để bộc lộ hoàn toàn những
biến đổi và hệ quả cuối cùng là nó làm chậm đi tiến trình biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, các nhà khoa học đã tranh luận rất nhiều về vấn đề này và hiện nay họ đã
thống nhất và cho rằng: trong vài thập kỷ gần đây, những hoạt động của con người
nhằm phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia ở các lĩnh vực như giao thông vận tải,
nhiên liệu, công nông lâm nghiệp, xây dựng và sinh hoạt đã làm gia tăng nồng độ các
khí có thể gây ra hiệu ứng nhà kính, làm hành tinh xanh nóng dần lên và hệ quả là làm

hệ thống khí hậu toàn cầu bị thay đổi theo IPCC (2014). Cũng đồng ý với kết luận trên,
nghiên cứu thực nghiệm của Crowley (2000) cho rằng trước năm 1850 vai trò của núi
lửa và ánh sánh mặt trời là rất quan trọng, giải thích từ 41 đến 64% biến đổi khí hậu;
trong khi đó từ sau năm 1850 thì khí nhà kính mà cụ thể là CO2 có ảnh hưởng lớn tới


2
biến đổi khí hậu. Cụ thể theo như đánh giá của Ủy Ban liên chính phủ về biến đổi khí
hậu (IPCC) năm 2014 nhận định răng: các ngành năng lượng, công nghiệp,…. đã sử
dụng nhiên liệu hóa thạch bằng việc đốt chúng đã góp gần một nửa (46%) vào nguyên
nhân nóng lên toàn cầu, nạn phá rừng chiếm khoảng 18% nguyên nhân, lĩnh vực nông
nghiệp chiếm khoảng 9%, lĩnh vực sản xuất hóa chất chiếm khoảng 24% và còn lại
(3%) là từ các hoạt động khác của con người.
Mặt khác, theo học thuyết trường phái Keynes, một công cụ quan trọng nhằm giảm bớt
những hậu quả tiêu cực của thất bại thị trường và góp phần gia tăng tính “tăng trưởng
bền vững” là việc thực hiện chi tiêu của chính phủ. Ban đầu, cơ chế mà qua đó chi tiêu
chính phủ và môi trường tương tác với nhau được thực hiện về mặt lý thuyết bởi Heyes
(2000), Lawn (2003) và Sim (2006) khi cố gắng mở rộng mô hình Keynes bằng cách
kết hợp yếu tố môi trường vào mô hình IS-LM ở cấp độ lý thuyết mà không thay đổi
cấu trúc cơ bản (Halkos và Paizanos 2013). Gần đây, theo Halkos và Paizanos (2016)
có năm cách khác biệt mà thông qua đó các khoản chi của chính phủ có thể tác động
đến chất lượng của môi trường: (i) thứ nhất, khi quy mô chính phủ tăng lên, góp phần
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ,
lĩnh vực vốn ít gây ô nhiễm so với ngành công nghiệp và nông nghiệp; (ii) thứ hai, chi
tiêu của chính phủ nhằm duy trì trật tự, an ninh công cộng và bảo vệ quyền sở hữu, từ
đó có thể làm giảm các tác động ngoại tác về môi trường như việc các nguồn tài
nguyên thiên nhiên bị khai thác một cách quá mức và hỗ trợ thực hiện các quy định của
nhà nước về môi trường; (iii) thứ ba, các khoản chi của chính phủ trong giáo dục và y
tế có thể làm tăng nhận thức của công chúng liên quan đến ảnh hưởng tiêu cực từ ô
nhiễm môi trường và do đó làm tăng nhu cầu về cải thiện chất lượng môi trường; (iv)

thứ tư, một trình độ học vấn cao cũng có thể đóng góp vào kiểm soát tốc độ tăng dân số
và từ đó có thể làm giảm áp lực môi trường. Hơn nữa, nếu môi trường được xem là
hàng công cộng cao cấp thì có khả năng nó chỉ được đáp ứng khi đã đáp ứng các nhu
cầu về hàng hoá công khác; (v) Cuối cùng, đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật (như xe


3
buýt, ga điện ngầm, nhà máy sử dụng năng lượng tái tạo…) có thể làm giảm sự xuống
cấp của môi trường bằng cách thúc đẩy các phương pháp sản xuất và hành vi của người
tiêu dùng sạch hơn.
Nói tóm lại, chính phủ tác động vào nền kinh tế của quốc gia thông qua việc chi tiêu
của ngân sách Nhà nước là có tác động tới môi trường. Và theo Halkos và Paizanos
(2013) cho rằng với một tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên tổng sản phẩm quốc dân thì nó sẽ
gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực khác nhau về kinh tế lẫn xã hội của quốc
gia đó, trong đó có vấn đề biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường là một
lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn làm hoặc không thể làm (Lopez và cộng sự
2011). Mặc dù vậy, theo Halkos và Paizanos (2013) chi tiêu chính phủ ảnh hưởng đến
biến đổi khí hậu như thế nào đã không được nghiên cứu rộng rãi và chỉ mới bắt đầu thu
hút sự chú ý ở những năm gần đây. Hơn thế, theo Sử Đình Thành và cộng sự (2016)
kết quả về vai trò của chính sách tài khóa trong việc cắt giảm khí thải CO2 vẫn còn
mang tính tranh luận.
Bên cạnh đó, như chúng ta đã biết thì nhóm các quốc gia ASEAN, gồm cả trong đó
Việt Nam, có nét tương đồng rất lớn về kinh tế, văn hóa, lịch sử đấu tranh giành độc
lập cũng như cộng đồng kinh tế ASEAN được hình thành cho thấy rằng việc nghiên
cứu ở nhóm nước này là khả thi. Từ đó, tôi quyết định chọn đề tài “Chi Tiêu Chính
Phủ Và Vấn Đề Biến đổi khí hậu Ở Các Nước Asean Giai Đoạn 1990-2013”.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
Biến đổi khí hậu luôn được xem là một yếu tố có vai trò quan trọng sống còn tới sự
phát triển bền vững của toàn nhân loại. Sau nhiều cuộc tranh luận trong một khoảng
thời gian dài, các nhà khoa học đã thống nhất rằng con người trong quá trình phát triển

kinh tế và xã hội của mình đã làm hệ thống khí hậu toàn cầu bị thay đổi (IPCC 2014).
Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường là một lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn làm
hoặc không thể làm. Chính vì vậy, cần phải có sự can thiệp từ phía chính phủ, mà cụ
thể ở đây là chi ngân sách nhà nước. Mặc dù vậy, chi tiêu chính phủ ảnh hưởng đến


4
biến đổi khí hậu như thế nào đã không được nghiên cứu rộng rãi và chỉ mới bắt đầu thu
hút sự chú ý ở những năm gần đây (Halkos và Paizanos 2013).
Về nghiên cứu thực nghiệm thì một số nhà nghiên cứu cho rằng chi tiêu chính phủ có
tác động âm lên lượng phát thải khí CO2. Min (2003) nghiên cứu tại Hàn Quốc từ năm
1991 đến năm 2000 thấy rằng chính phủ đầu tư trong lĩnh vực môi trường đã làm giảm
mức phát thải các khí như NO2, SO2, TSP và CO. Trong một nghiên cứu khác có liên
quan, Lopez và Palacios (2010) đã kiểm tra vai trò chi từ phía chính phủ và thuế môi
trường đối với chất lượng môi trường ở châu Âu bằng cách sử dụng dữ liệu 21 quốc gia
ở châu Âu cho giai đoạn 1995-2006 và báo cáo rằng chi tiêu chính phủ là tiêu cực và
có ý nghĩa đến ô nhiễm không khí, ngay cả khi kiểm soát thành phần của chi tiêu công.
Lopez và cộng sự (2011) nghiên cứu ở 120 quốc gia giai đoạn 1980 đến năm 2004 cho
rằng chính phủ chi tiêu cho các hàng hóa công sẽ làm giảm đi ô nhiễm, tuy nhiên, tăng
tổng chi tiêu chính phủ mà không thay đổi thành phần của nó cũng không làm giảm ô
nhiễm. Theo Halkos và Paizanos (2013), đối với cả SO2 và CO2 thì chi tiêu chính phủ
có ảnh hưởng tiêu cực cả về trực tiếp lẫn gián tiếp khi thông qua thu nhập đầu người,
bằng nghiên cứu mẫu 77 quốc gia trong giai đoạn 1980-2000. Sau đó, họ tiếp tục
nghiên cứu tại Hoa Kỳ từ năm 1973 đến năm 2013, kết quả chỉ ra rằng việc thực hiện
chi tiêu ngân sách mở rộng mang lại hiệu quả giảm bớt phát thải khí CO2, trong khi cắt
giảm thuế sẽ làm tăng phát thải CO2 do tiêu dùng gây ra (Halkos và Paizanos, 2016).
Sử Đình Thành và cộng sự (2016) nghiên cứu chính sách tài khóa ảnh hưởng như thế
nào đến lượng phát thải CO2 thông qua bộ dữ liệu bảng gồm 60 quốc gia đang phát
triển giai đoạn 2001 đến 2014, bằng việc tách chính sách tài khóa thành những phần
như: chi tiêu chính phủ, số thu thuế và bội chi ngân sách. Nhóm tác giả đã đi đến hai

kết luận như sau: (1) Cả chi tiêu chính phủ, số thu thuế và bội chi của ngân sách đều có
tác động âm và có ý nghĩa thống kê lên lượng phát thải khí CO2; (2) Kể cả khi các
nước này cam kết thực hiện theo Nghị định thư Kyoto, thì tác động này cũng là âm.


5
Một số các nhà nghiên cứu khác thì lại cho rằng chi tiêu của chính phủ có tác động
dương lên lượng phát thải khí CO2. Frederik và Lundstrom (2000) điều tra ảnh hưởng
của tự do chính trị và kinh tế đến mức phát thải CO2, bằng việc phân tích dữ liệu của
75 nước trong giai đoạn 1975-1995. Họ thấy rằng ảnh hưởng của quy mô chi tiêu chính
phủ đối với mức độ ô nhiễm là khác nhau. Cụ thể, nếu quy mô chi tiêu chính phủ được
xác định là nhỏ thì sẽ làm giảm lượng phát thải CO2 và ngược lại. Tức là khi quy mô
chi tiêu chính phủ có kích thước lớn sẽ làm tăng lên lượng khí CO2. Theo Bernauer và
Koubi (2006), khi chi tiêu chính phủ gia tăng thì ô nhiễm không khí cũng sẽ gia tăng
và mối quan hệ này không bị ảnh hưởng bởi chất lượng chi tiêu chính phủ khi nghiên
cứu cho mẫu 42 quốc gia trong giai đoạn 1971-1996. Tuy nhiên, họ không xem xét
điều kiện bậc hai hoặc cao hơn của thu nhập trong phân tích của họ và họ lập luận mơ
hồ rằng thu nhập cao hơn dẫn đến quy mô chi tiêu của chính phủ sẽ lớn hơn và chất
lượng không khí sẽ tốt hơn (Halkos và Paizanos 2013).
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu phân tách tác động thành ngắn hạn và dài hạn thì
lại cho ra kết quả đa dạng. Adewuyi (2016) xem xét ảnh hưởng chi tiêu của hộ gia
đình, chính phủ và cả doanh nghiệp lên lượng phát thải khí CO2 ở nhiều quốc gia trên
thế giới trong giai đoạn 1990-2001, kết luận rằng: chi tiêu hộ gia đình đối với phát thải
CO2 là tiêu cực, đầu tư tư nhân là tích cực, khoản chi thường xuyên của chính phủ
trong dài hạn có ảnh hưởng tích cực nhưng trong ngắn hạn lại là tiêu cực, cuối cùng
khoản chi của chính phủ cho đầu tư trong dài hạn có tác động tiêu cực nhưng trong
ngắn hạn lại là tích cực. Galinato và cộng sự (2016) nghiên cứu tại Mỹ Latin và một số
nước châu Á từ năm 1980 đến năm 2001 cho rằng chi tiêu chính phủ làm tăng lượng
khí thải CO2 trong ngắn hạn nhưng nó lại có tác động không đáng kể trong dài hạn.
3. MỤC TIÊU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Bài nghiên cứu với mục đích xem xét chi tiêu chính phủ ảnh hưởng như thế nào đối với
biến đổi khí hậu ở các nước ASEAN. Từ đó, gợi ra một số ý kiến về chi tiêu chính phủ


6
để nó thực sự có thể góp phần làm giảm biến đổi khí hậu trên phạm vi khu vực và toàn
cầu.
Để giải quyết những vấn đề trên, bài nghiên cứu tiến hành trả lời các câu hỏi sau:
(i)

Chi tiêu chính phủ tác động đến biến đổi khí hậu như thế nào?

(ii) Nếu có thì tác động đó là cùng chiều, ngược chiều hay không có tác động?
Do đó, bài nghiên cứu có các đối tượng chính: chi tiêu chính phủ và biến đổi khí hậu.
4. MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
4.1. Mô hình:
Bài nghiên cứu này, tôi ước tính tác động của chi tiêu chính phủ đối với biến đổi khí
hậu hay lượng phát thải khí CO2 cả về trực tiếp lẫn gián tiếp, bằng cách sử dụng một
mô hình tương đồng với mô hình được sử dụng bởi Welsch (2004) và Cole (2007)
trong việc điều tra tác động của tham nhũng đối với ô nhiễm và được thể hiện trong bài
nghiên cứu của Halkos và Paizanos (2013), khi lượng phát thải khí CO2 gia tăng đồng
nghĩa với nó là hiện tượng biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng trầm trọng. Phương trình
cụ thể như sau:
=

+
+

+


+

(

) +

+

Trong đó:
 Các biến có ký hiệu ln ở trước là được tính bằng logaric cơ số 10.
 CO2 đại diện cho biến đổi khí hậu, được đo bằng lượng phát thải khí CO2 trên
đầu người (đơn vị tấn theo hệ mét).
 GOV là phần trăm chi tiêu chính phủ trong GDP (đơn vị %).
 GDPc là GDP đầu người thực tính theo giá năm 2011 (đơn vị đô la Mỹ).
 FDI là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi vào thuần theo GDP (đơn vị %)
 Open là tỷ lệ xuất nhập khẩu trong GDP. (đơn vị %)
 i lần lượt là 8 nước thành viên ASEAN gồm: Campuchia, Indonesia, Lào,
Malaysia, Phillipin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.


7
 t là chuỗi thời gian chạy từ 1990 đến 2013.
Biến Invest trong mô hình gốc được chuyển thành FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
4.2. Dữ liệu:
Bảng 1: Thống kê các biến được sử dụng trong bài.
Biến

Mô tả

Nguồn


CO2

Phát thải CO2 trên đầu người, đơn vị tấn theo mét. World Bank (2017)

GDPc

GDP đầu người thực ($ 2011).

Penn World Table 9.0

GOV

Phần trăm chi tiêu chính phủ trong GDP.

Penn World Table 9.0

FDI

Phần trăm đầu tư trực tiếp nước ngoài theo GDP

World Bank (2017)

Tỷ lệ xuất nhập khẩu trong GDP.

Penn World Table 9.0

Open

Nguồn: tác giả thống kê thu thập.

4.3. Phương pháp ước lượng:
Sử dụng phương pháp Pooled OLS, Fixed Effects Model (hiệu ứng tác động cố định)
và Random Effects Model (hiệu ứng tác động ngẫu nhiên) để ước lượng các hệ số
trong mô hình. Bên cạnh đó, ta phải lựa chọn mô hình tối ưu trong ba mô hình trên.
Sau đó, để đảm bảo độ vững của mô hình được chọn ta phải kiểm tra các bệnh của hồi
quy như tự tương quan, phương sai thay đổi hoặc đa cộng tuyến. Kế tiếp ta phải khắc
phục các bệnh đó ta sử dụng Bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS) để kết quả đạt
được tính vững và hiệu quả.
5. PHẠM VI THU THẬP SỐ LIỆU:
Không gian gồm: Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Phillipin, Lào, Campuchia
và Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 1990 đến năm 2013.
6. Ý NGHĨA THỰC TIỄN:
Bài nghiên cứu này, tôi ước tính tác động chi tiêu chính phủ lên biến đổi khí hậu hay
lượng phát thải khí CO2 ở khu vực các quốc gia ASEAN. Theo đó, tác động này là âm,


8
dương hay không có tác động nhằm củng cố thêm bằng chứng thực nghiệm tại
ASEAN. Cũng như có thể giúp cho chính phủ các nước có một chính sách chi tiêu hợp
lý để giảm bớt tình trạng biến đổi khí hậu.


9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
1.1. Tổng quan về chi tiêu chính phủ.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại chi tiêu chính phủ.
Trong khuôn khổ phạm trù tài chính công, có thể nói chi tiêu chính phủ bao gồm các
khoản chi tiêu từ chính quyền các cấp, từ các đơn vị quản lý hành chính và từ cả các

đơn vị sự nghiệp chịu sự kiểm soát và tài trợ bởi chính phủ. Mặt cơ bản thì chi tiêu
chính phủ là cụ thể hóa các khoản chi của ngân sách nhà nước được Quốc hội thông
qua hằng năm. Nó phản ánh giá trị kinh tế của hàng hoá mà chính phủ mua vào, để qua
đó cung cấp lại cho xã hội các loại hàng hoá và dịch vụ công nhằm thực hiện các chức
năng cơ bản của Nhà nước về kinh tế, chính trị và xã hội.
Các nhà kinh tế học cổ điển mà đại diện là Adam Smith. Theo trường phái này, họ
quan điểm rằng vai trò của lao động là quan trọng, chính lao động là thứ đã tạo ra giá
trị của hàng hóa và nó trở thành thước đo cho giá trị. Và chính vì họ đề cao sức lao
động trong một xã hội nên họ cho rằng lao động sẽ đạt tối ưu khi chính phủ không can
thiệp. Do đó, họ phủ nhận vai trò điều tiết và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của chính
phủ thộng qua học thuyết “Bàn Tay Vô Hình”, họ cho rằng chính phủ sẽ kiềm chế
động lực lao động mà động lực này phát sinh từ giá trị mà con người tạo ra khi lao
động. Họ khẳng định cơ chế tự điều tiết của thị trường tự do theo quy luật khách quan
là tốt nhất, bất kỳ sự can thiệp nào từ phía chính phủ đều sẽ chỉ làm kiềm chế tăng
trưởng mà thôi. Nói tóm lại, “theo họ (các nhà kinh tế học cổ điển), chính phủ chỉ biết
lấy đi của cải của xã hội (dưới hình thức nộp thuế bắt buộc) chứ không trả lại cho xã
hội, vì vậy cần phải triệt tiêu mọi khoản chi của chính phủ để tránh lãng phí nguồn lực
xã hội”, giáo trình Tài chính công (2005, trang 226).
Nhưng theo thời gian quan điểm đó đã dần phai mờ bởi học thuyết của Keynes. Theo
Vedder và Gallaway (1998, trang 1), không có xã hội nào trong lịch sử đạt được một
mức độ cao của sự sung túc về kinh tế mà không có chính phủ. Bên cạnh đó, chính phủ


10
còn có một vai trò quan trọng đó là tái phân phối thu nhập xã hội; bằng việc chính phủ
chi tiêu thì chính phủ đã “bơm ra” cho xã hội những khoản thu nhập đã lấy đi từ xã hội
bởi hình thức thu thuế. Bằng quá trình đó, chính phủ đã thực hiện tái phân phối thu
nhập xã hội một cách công bằng hơn, hạn chế những thất bại của thị trường (như hàng
hóa công thuần túy, tình trạng độc quyền, thông tin bất cân xứng và ngoại tác) để nhằm
đảm bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.

Vai trò của chi tiêu chính phủ tuy có thay đổi qua thời gian nhưng chúng đều có những
đặc điểm cơ bản sau:
(i)

Phục vụ vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của người dân ở một phạm vi vùng hay

một quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng quản lý toàn diện nền kinh tế và xã hội
của chính phủ và cũng chính trong quá trình thực hiện chức năng đó chính phủ đã cung
cấp một lượng hàng hoá và dịch vụ công cộng khổng lồ cho nền kinh tế quốc gia.
(ii)

Luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ về kinh tế, chính trị

và xã hội mà Nhà nước phải thực hiện.
(iii)

Hoàn toàn mang tính công cộng. Chi tiêu chính phủ tương ứng với việc

cung cấp hàng hoá và dịch vụ công cho nền kinh tế quốc gia với mục đích thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ mà chính phủ được giao. Đồng thời đó là các khoản chi cần
thiết, phát sinh, đáp ứng nhu cầu tương đối ổn định như: chi tiền lương cho cán bộ
công chức, chi nhằm duy trì hàng hoá dịch vụ công để phục vụ người dân, ….
(iv)

Mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực tiếp. Biểu hiện ở chỗ

người dân nộp tiền thuế cho nhà nước không vì mục đích mua được một món hàng nào
đó mà do tính bắt buộc của nhà nước. Hơn nữa, khi nhà nước dùng tiền thuế để cung
cấp hàng hóa dịch vụ công phục vụ công dân thì không thể xác định được số tiền đó cụ
thể là của người nào.

Bên cạnh đó, nhằm giúp chính phủ xây dựng những chương trình hành động, tăng
cường hiệu quả trong quá trình thi hành ngân sách Nhà nước nói chung và chi tiêu
chính phủ nói riêng. Cũng như phân chia trách nhiệm rõ ràng về phân phối và chấp


11
hành ngân sách Nhà nước. Đồng thời để các nhà kinh tế có thể phân tích ảnh hưởng
của các hoạt động tài chính từ phía chính phủ đối với nền kinh tế thì việc phân loại chi
tiêu chính phủ là hết sức quan trọng. Có nhiều cách phân loại chi tiêu chính phủ, sau
đây là một số cách thông thường:
(i)

Căn cứ vào chức năng của Nhà nước, chi tiêu chính phủ được phân ra: Xây

dựng cơ sở hạ tầng; Toà án và Viện kiểm soát; Chi cho quân đội và an ninh xã hội; Chi
giáo dục; Chi an sinh xã hội; Chi hỗ trợ doanh nghiệp; Chi để quản lý hành chính Nhà
nước; Chi cho các chính sách đặc biệt và chi khác.
(ii)

Căn cứ vào tính chất kinh tế, chi tiêu chính phủ phân ra thành: Chi thường

xuyên và Chi đầu tư phát triển.
(iii)

Căn cứ vào quy trình lập ngân sách, chi tiêu chính phủ được chia ra theo

yếu tố đầu vào và đầu ra.
1.1.2. Vai trò của chi tiêu chính phủ và các nhân tố tác động.
 Chi tiêu chính phủ có những vai trò quan trọng chủ yếu:
Thứ nhất, vai trò phân bổ nguồn lực xã hội đây là một vai trò quan trọng nhất. Chính

phủ can thiệp vào nền kinh tế thị trường để hạn chế những thất bại của thị trường như
độc quyền, hàng hóa công cộng, ngoại tác hay thông tin không đối xứng. Tuy nhiên, ta
phải chấp nhận rằng sự can thiệp của chính phủ không phải là chìa khóa vạn năng để
giải quyết tất cả vấn đề. Bởi lẽ chính phủ cũng có những hạn chế của mình và mọi
chính sách can thiệp của chính phủ đều kèm theo những chi phí nhất định. Chính vì
thế, khi chính phủ thực thi một chính sách thì lợi ích mà chính sách này mang lại cho
xã hội lớn hơn chi phí phát sinh mà xã hội phải gánh chịu từ chính sách này và lúc đó
chính sách này mới được xem là tốt. Chẳng hạn như chính phủ ban hành chính sách ưu
đãi về vốn cho doanh nghiệp để xây nhà cho hộ gia đình có thu nhập thấp thì lợi ích mà
các ngôi nhà hoặc chung cư đó mang lại cho xã hội phải lớn hơn chi phí bỏ ra như chi
phí cơ hội, các khoản phí để xây dựng, …


12
Thứ hai, chi tiêu chính phủ có vai trò phân phối lại thu nhập. Đây là mục tiêu quan
trọng cần đạt được đằng sau nhiều chính sách của chính phủ. Chính phủ có thể đạt
được mục tiêu này bằng nhiều cách thức nhưng trực tiếp nhất và thường dùng nhất là
đánh thuế luỹ tiến rồi sau đó chi trợ cấp cho một số đối tượng nhất định. Bên cạnh đó,
việc chính phủ cung cấp các dịch vụ về giáo dục, đào tạo, y tế, nhà ở và các dịch vụ xã
hội khác cũng liên quan tới vai trò phân phối lại của chính phủ. Ngoài ra, các hoạt động
điều tiết thị trường như chống độc quyền, an toàn lao động, vệ sinh thực phẩm… cũng
mang hàm ý phân phối lại. Tuy nhiên, đứng sau mỗi mức độ phân phối lại đó đều hàm
chứa sự đánh đổi giữa công bằng và hiệu quả, vì nó có liên quan đến những chi phí
nhất định để đảm bảo vai trò phân phối lại đạt được hiệu quả tối ưu nhất.
Thứ ba, chi tiêu chính phủ có vai trò ổn định hóa nền kinh tế. Các chính sách của chính
phủ nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô trong nền kinh tế như cải thiện cán cân thanh
toán, gia tăng tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế,…. Bằng việc sử dụng một
cách cẩn thận công cụ chi của chính phủ mà chính phủ có thể ảnh hưởng tới tổng chi
tiêu của xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tổng sản lượng, tỷ lệ người lao động có việc
làm, mức giá của nền kinh tế.

Tóm lại, chi tiêu chính phủ có một vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển nền
kinh tế và xã hội của một quốc gia. Và để hiện thực hóa vai trò của chi tiêu chính phủ,
ta cũng cần phải biết rõ các nhân tố tác động đến nó, để từ đó có những chiến lược, kế
hoạch, biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế hoặc phát huy trong từng trường hợp cần
thiết.
 Có nhiều nhân tố tác động chi tiêu chính phủ, nhưng cơ bản có các nhân tố sau:
Thứ nhất, là do nhu cầu về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế ngày càng tăng cao.
Khi xã hội phát triển, công nghiệp hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ thì hệ thống các mối
quan hệ trong xã hội, thương mại và pháp lý của nền kinh tế ngày càng trở nên đa dạng
hóa và phức tạp hóa hơn. Khi đó, chính phủ cần phải có vị thế cao hơn để xây dựng và
vận hành tổ chức để giải bài toán về các mối quan hệ đan xen đó, điều này tất yếu dẫn


13
đến sự gia tăng về quy mô và số lượng chi của chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực pháp
luật và duy trì trật tự giao thông, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục, ….
Hơn thế nữa, khu vực tư nhân sẽ không thể cũng như không muốn sản xuất những hàng
hóa dịch vụ công cho xã hội vì cơ chế “người hưởng tự do không phải trả tiền”. Sự phát
triển của nền kinh tế sẽ làm xuất hiện những nhu cầu về hàng hóa dịch vụ công mới, tuy
nhiên, khu vực tư sẽ không tham gia vì không có lời hoặc không đủ nguồn lực để thực
hiện. Vì vậy, vai trò của chính phủ là cần thiết nhằm tham gia sản xuất những loại hàng
hóa dịch vụ công để thỏa mãn nhu cầu của người dân.
Thứ hai, là do xã hội hóa các rủi ro. Bắt nguồn từ sự thay đổi phong tục và tư tưởng.
Đáng lý ra mỗi cá nhân trong xã hội phải cố gắng tự mình đối phó với rủi ro bằng cách
phòng ngừa, hạn chế hoặc khắc phục rủi ro. Nhưng do không đủ khả năng hoặc không
nhận thức được đầy đủ trách nhiệm nên dần dần các cá nhân này đã đẩy sang “vai” của
nhà nước. Nghĩa là chính phủ phải đứng ra bảo hiểm, phụ cấp lương và tái phân phối
các gánh nặng đó cho toàn thể xã hội. Ví dụ như người nông dân ở Kontum phá rừng
trồng mì vì thấy rằng giá mì tăng cao nhưng không nhận thức được hậu quả từ việc phá
rừng cũng như giá cả chỉ là nhất thời, cũng như việc phải phụ thuộc rất nhiều vào

người mua (có mua hay không) và khi đỗ vỡ thì gánh nặng thất nghiệp, lỗ vốn, môi
trường huỷ hoại,… lại đè nặng lên vai chính phủ.
Thứ ba, là do thay đồi công nghệ. Sự thay đổi công nghệ ảnh hưởng lớn đến tỷ trọng
chi tiêu hàng hóa công cộng, thể hiện qua việc quy trình sản xuất bị thay đổi cũng như
số lượng và chủng loại sản phẩm được tạo ra. Ảnh hưởng này có thể theo chiều hướng
làm gia tăng hoặc thu hẹp tầm ảnh hưởng của hàng hóa dịch vụ công, kéo theo nó sẽ
tác động làm thay đổi tăng hoặc giảm chi tiêu chính phủ.
Thứ tư, là thay đổi dân số. Đây cũng là một yếu tố quan trọng, nó quyết định sự thay
đổi tỷ trọng của chi tiêu chính phủ. Dân số tăng sẽ khiến cho chính phủ quốc gia phải
gia tăng các khoản chi cho giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng….. Tương tự hiện tượng “lão


14
hóa dân số” cũng khiến chính phủ phải gia tăng các khoản chi cho y tế, chăm sóc sức
khỏe và phúc lợi xã hội.
Thứ năm, là quá trình đô thị hóa. Tiến trình đô thị hóa sẽ làm nảy sinh nhiều nhu cầu
mới (vốn không có ở vùng nông thôn). Đại bộ phận những nhu cầu phát sinh thêm đó
là các hàng hóa dịch vụ công cộng như cầu, đường, hệ thống cấp thoát nước, nhà máy
nước, nhà máy điện, khu vui chơi, giải trí, dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục… và vì thế,
chi tiêu chính phủ cũng sẽ thay đổi.
Ngoài ra, còn có các yếu tố bên ngoài khác như khủng hoảng kinh tế (nó trực tiếp ảnh
hưởng đến thị trường mua bán trong nước), vấn đề an ninh quốc phòng khu vực cũng
như thế giới (làm gia tăng chi tiêu cho quân đội),…..
1.1.3. Quan điểm của các nhà kinh tế học về chi tiêu chính phủ.
 Thứ nhất là trường phái kinh tế học cổ điển:
Adam Smith (1723–1790), ông là người đầu tiên đưa ra lý thuyết tăng trưởng đầy mới
mẻ cho xã hội loài người và được xướng danh là cha đẻ của nền kinh tế học với tác
phẩm tiêu biểu Tài Sản Quốc Gia (1776) đặc trưng bởi hai học thuyết cơ bản: “Giá trị
Lao Động” và “Bàn Tay Vô Hình”. Ông đánh giá cao vai trò của lao động, chính lao
động đã tạo ra giá trị của xã hội và sau đó nó trở thành thước đo cho giá trị. Nguồn gốc

tạo ra sự thịnh vượng của một quốc gia đó là lao động. Giá trị làm cơ sở cho giá cả bao
gồm giá cả ban đầu thể hiện qua giá trị thực của hàng hóa và giá cả thị trường được
hình thành dựa trên quan hệ cung cầu. Học thuyết “Giá Trị Lao Động” có vai trò quan
trọng trong việc đưa ra cơ sở để xác định giá trị của hàng hóa. Tuy nhiên trong xã hội
lúc bấy giờ học thuyết này chỉ phù hợp đối với nền kinh tế sản xuất hàng hóa giản đơn,
bởi vì khi nó được đưa vào đánh giá trong quá trình tái sản xuất thì bộc lộ nhiều khuyết
điểm. Bên cạnh học thuyết “Giá Trị Lao Động” đề cao sức lao động trong xã hội,
Adam Smith đã phủ nhận vai trò điều tiết và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của chính
phủ thộng qua học thuyết “Bàn Tay Vô Hình”. Học thuyết này cho rằng nếu chính phủ
không có bất kỳ sự can thiệp nào thì lao động sẽ đạt được hiệu quả cao nhất. Nhưng


15
phủ nhận này chỉ được đánh giá về mặt kinh tế còn về mặt xã hội thì tồn tại vô số vấn
đề khác nhau bên cạnh vấn đề kinh tế, do đó, cần có một cơ quan đứng ra quản lý chứ
không thể nào tự do được. Ông cho rằng chính phủ sẽ kiềm chế động lực lao động mà
động lực này phát sinh từ giá trị mà con người tạo ra khi lao động. Ông khẳng định cơ
chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường theo quy luật khách quan là tốt nhất và tối ưu
nhất, bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ đều sẽ chỉ kiềm chế tăng trưởng mà thôi.
Trên tinh thần kế thừa và phát triển học thuyết của Smith, nhà kinh tế học người Anh
David Ricardo (1772–1823) là một gương mặt đại diện cho trường phái cổ điển, ông đã
cho ra đời cuốn sách nổi tiếng là “Những Nguyên Lý Của Kinh Tế Chính Trị Và Thuế
Khóa”. Ở đây, ông nhận định rằng tăng trưởng có 3 yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
đó là lao động (điều này ông kế thừa từ quan điểm của Adam Smith), vốn và yếu tố
cuối cũng là quan trọng nhất là đất đai. Quan điểm của ông phát sinh trong thời đại
nông nghiệp là chính, do đó, để tạo ra của cải vật chất hàng hóa cho xã hội thì nông
nghiệp phải phát triển đầu tiên. Đứng từ cách nhìn này thì đất chính là yếu tố quyết
định, con người sử dụng đất nhưng không thể làm ra đất, chính vì vậy đất cũng chính là
yếu tố giới hạn tăng trưởng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, ông cũng thừa rằng sự can
thiệp của chính phủ sẽ chỉ làm cho xã hội giảm tích lũy vì để chi tiêu cho những mục

đích không sinh lời. Chính vì vậy, ông chủ trương không cần chính phủ can thiệp vào
nền kinh tế quốc dân hay thậm chí là chính phủ không được can thiệp vì điều đó sẽ cản
trở sự phát triển của nền kinh tế.
 Thứ hai, học thuyết Karl Marx:
Khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần thứ nhất xảy ra năm 1825, cùng với nó là hiện
tượng thất nghiệp và sự bần cùng hoá của giai cấp công nhân. Lúc bấy giờ, Karl Marx
cho rằng yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế phải là đất đai, lao động, vốn và
tiến bộ kĩ thuật. Và ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong quá trình tạo
ra giá trị thặng dư. Theo ông, đối với nhà tư bản sức lao động là một loại hàng hoá đặc
biệt. Trong quá trình nhà tư bản thuê công nhân làm việc, hàng hoá mà người công


16
nhân làm ra có giá trị lớn hơn giá trị bản thân của nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao
động của người công nhân cộng với giá trị thặng dư. Theo ông yếu tố vốn và tiến bộ kĩ
thuật có mối quan hệ với nhau: tiến bộ khoa học kĩ thuật sẽ làm tăng số lượng máy móc
và dụng cụ lao động, nghĩa là nhà tư bản phải cần nhiều tiền vốn hơn để mua máy móc,
trang thiết bị. Và cách duy nhất để gia tăng vốn là tiết kiệm, do đó, các nhà tư bản chia
giá trị thặng dư ra hai phần: một phần để tiêu dùng và một phần tích luỹ nhằm phát
triển sản xuất.
Về quan hệ cung cầu và vai trò của nhà nước: dựa trên việc phân tích chu kỳ kinh
doanh và khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản, ông cho rằng khủng hoảng thừa là
do cầu thiếu, mà kết quả là mức tiền công của người công nhân giảm và mức lợi nhuận
của nhà tư bản cũng giảm. Do đó, muốn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thừa này,
ông nhấn mạnh vai trò các chính sách của nhà nước, đặc biệt là các chính sách nhằm
kích cầu tiêu dùng. Như vậy, Karl Marx đã đặt nền tảng đầu tiên cho việc xác định vai
trò của chính phủ của chính sách nhà nước trong điều tiết cung cầu của nền kinh tế.
 Thứ ba là trường phái kinh tế học tân cổ điển:
Trường phái này xuất hiện vào cuối thế kỉ thứ 19 là thời kì đánh dấu sự hát triển vượt
bậc của khoa học công nghệ cùng với hàng loạt các phát minh vĩ đại và nguồn tài

nguyên dồi dào được khai thác để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Người đi
tiên phong là Alfred Marshall (1842-1924). Trường phái tân cổ điển cho rằng tăng
trưởng chịu tác động bởi các yếu tố sau: lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên và khoa
hoc công nghệ. Họ phân yếu tố nguồn lực ra thành hai nhóm cơ bản: nhóm thứ nhất
gồm lao động, vốn và tài nguyên thiên nhiên hay còn gọi là nhóm các yếu tố tăng
trưởng theo chiều rộng; nhóm thứ hai gồm khoa hoc và công nghệ hay còn gọi là nhóm
yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu. Các nhà kinh tế học của trường phái tân cổ điển cho
rằng công nghệ là yếu tố đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng
thời, họ cũng không chấp nhận quan điểm cho rằng sản xuất yêu cầu phải có tỷ lệ nhất
định về lao động và vốn, bởi vì khi đưa yếu tố công nghệ vào thì sẽ có nhiều cách để


17
tối ưu hoaá kết hợp giữa lao động và vốn. Do vậy, ta có nhiều cách thức để tăng trưởng
kinh tế bằng việc sử dụng các công nghệ khác nhau phù hợp với điều kiện của mỗi
doanh nghiệp, của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, họ cũng cho rằng chi tiêu chính phủ là
không cần thiết.
 Thứ tư, trường phái Keynes:
Khi “Đại khủng hoảng” xảy ra từ năm 1929 đến năm 1933, lý thuyết cổ điển tỏ ra bất
lực trong việc giải thích những hiện tượng kinh tế lúc bấy giờ như mức sản lượng thấp
nhưng tỉ lệ thất nghiệp cao và kéo dài. Lúc này khoa học công nghệ có nhiều bước tiến
vượt bậc trong các lĩnh vực như phân bón, thuốc trừ sâu, máy kéo, giống cây mới, kĩ
thuật thâm canh,…điều này đã giúp cho sản lượng của ngành nông nghiệp tăng lên
nhanh chóng. Do đó, yếu tố đất đai cho dù là có giới hạn thì lương thực, thực phẩm vẫn
cung cấp đủ cho con người.
Điều đó đã dẫn đến lý thuyết Keynes ra đời của do nhà kinh tế học người Anh đề ra,
John Maynard Keynes. Tư tưởng của ông về kinh tế học đã mang lại cái nhìn đầy mới
mẻ với cuốn sách nổi tiếng “Lý Thuyết Chung Về Việc Làm, Lãi Suất Và Tiền Tệ”
(1936), ông đề cao vai trò đầu tư công của chính phủ_nó là lực đẩy để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của quốc gia. Và theo lý thuyết Keynes, cung cầu cân bằng có thể tại

mức sản lượng dưới ngưỡng tiềm năng, tại trạng thái cân bằng này, công việc chưa đáp
ứng đủ nhu cầu lao động. Vì vậy, thu nhập tạo ra không đủ trang trải chi tiêu dẫn đến
tiêu dùng vượt qua thu nhập. Một tình trạng đặc biệt đã xảy ra, khi thu nhập được nâng
lên thì theo dự đoán tiêu dùng sẽ tăng thêm. Tuy nhiên, nếu dựa trên quy luật tâm lý cơ
bản, đặc biệt trong trường hợp một người đạt được trạng thái bão hòa trong nhu cầu
của mình, thì người đó lại có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn là tiêu dùng. Điều đó dẫn
đến việc tiêu dùng sẽ tăng chậm hơn mức tăng của thu nhập. Theo quan điểm của
Keynes, tổng cầu xã hội sẽ giảm trong trường hợp này và đây chính là nguyên nhân
làm nền kinh tế tăng trưởng chậm. Mặt khác đối với hoạt động đầu tư của hội, đặc biệt
là đầu tư công, nó đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng nền


18
kinh tế của quốc gia. Họat động đầu tư sẽ giải quyết việc làm cho người lao động, khi
người lao động có thu nhập và khi thu nhập tăng tới một mức độ nào đó thì tổng cầu
tiêu dùng sẽ tăng và nền kinh tế sẽ tăng trưởng theo. Như vậy, chính phủ có vai trò
quan trọng trong việc kích cầu tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
 Thứ năm, trường phái kinh tế học hiện đại;
Các quốc gia áp dụng lý thuyết Keynes trong một khoảng thời gian khá dài. Thì chính
phủ tại các quốc gia này lại có xu hướng quá đề cao vai trò điều tiết của chính phủ và
xem nhẹ cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường, chính điều này đã trở thành một
chướng ngại mới cho quá trình phát triển của các quốc gia. Trong bối cảnh đó, vào
những năm 40 của thế kỷ XX một trường phái kinh tế mới đã ra đời. Đó là lý thuyết
kinh tế của Paul Samuelson, ông ủng hộ xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp_bằng việc
kết hợp một cách tối ưu giữa “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình”. Về mặt bản chất
đó là sự xích lại gần nhau giữa học thuyết kinh tế cổ điển và học thuyết kinh tế Keynes.
Tuy nhiên nó không đơn thuần chỉ là một phép cộng toán học mà là sự kết hợp phức
tạp giữa những điều kiện và những yếu tố với nhau.
Lý thuyết kinh tế hiện đại thống nhất các yếu tố nguồn lực của trường phái cổ điển là
vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ. Đồng thời, cũng thống nhất

phương pháp phân tích của hàm Cobb–Douglas về các tác động của các yếu tố nguồn
lực và Samuelson cho rằng nguồn gốc của tăng trưởng chính là do tác động của những
yếu tố này. Tuy nhiên ông lại đưa tài nguyên thiên nhiên vào vốn và gọi công nghệ là
hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, yếu tố lao động không chỉ đơn giản là lao động tay
chân, lao động cơ bắp nữa mà là lao động có trình độ có tư duy.
Mặt khác, lý thuyết kinh tế hiện đại cũng gợi ý cho các nhà sản xuất kinh doanh rằng
họ có thể lựa chọn sản xuất kinh doanh bằng hình thức nhiều vốn hoặc nhiều lao động.
Và Samuelson cho rằng một trong những đặc tính cơ bản của nền kinh tế hiện đại ngày
nay là “kỹ thuật tiên tiến dựa trên việc sử dụng vốn lớn”. Do đó vốn là yếu tố quan
trọng để phát huy các yếu tố khác.


×