Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.17 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ THÚY HÀ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
ĐỂ XÂY DỰNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ THÚY HÀ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
ĐỂ XÂY DỰNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 838.01.07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN QUANG HUY

HÀ NỘI, năm 2018

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Luật Kinh tế “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong
cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

VÕ THỊ THÚY HÀ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP ..............................................................................................8
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................8
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH
QUẢNG NAM .........................................................................................................25
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ...25
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp tại tỉnh Quảng Nam. ...............................40
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM........................56
3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất .......................................................................................56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................................58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BT

: Bồi thường

CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GCNQSDĐ


: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

HT

: Hỗ trợ

KN, TC

: Khiếu nại, tố cáo

LĐĐ

: Luật đất đai

NNTHĐ

: Nhà nước thu hồi đất

NĐT

: Nhà đầu tư

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất


SDĐ

: Sử dụng đất

TĐC

: Tái định cư

THĐ

: Thu hồi đất

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là nền tảng cho mọi quá
trình sản xuất hoạt động thông qua đó thúc đẩy quá trình phát triển KT-XH của đất
nước. Trong quá trình sản xuất, đất đai là nhân tố hàng đầu không thể thiếu của các
ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đất đai còn là cơ sở để các ngành, các
lĩnh vực hoạt động có hiệu quả.
Trong tình hình đất nước ta hiện nay, khi chấp nhận nền kinh tế thị trường và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng

như quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ. Các quá trình này đã kéo theo việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất để phục vụ nhu cầu phát triển ngày càng cao của
xã hội. Do đó, hàng loạt các công trình, dự án lần lượt được triển khai thực hiện ra
đời, làm cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng khi
nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp diễn ra mạnh mẽ và sôi nổi.
Tỉnh Quảng Nam được tái lập năm 1997, với xuất phát điểm là một trong
những tỉnh nghèo của cả nước nhưng có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, nền kinh
tế được xác định có cơ cấu thương mại dịch vụ, nông công nghiệp. Trong thời gian
qua, nhiều dự án phát triển kết cấu hạ tầng, khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ
đã được đầu tư như: Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, Khu Kinh tế mở Chu
Lai, Khu công nghiệp Tam Hiệp, Khu công nghiệp Tam Thăng, các khu du lịch ven
biển, tuyến Cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi... đã góp phần làm thay đổi căn bản về
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của
tỉnh [58, tr.1]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn nhiều dự
án chưa được triển khai hoặc triển khai chậm tiến độ mà nguyên nhân căn bản là
công tác thu hổi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn nhiều bất cập, những
vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện ảnh hưởng đến các yếu tố xã hội
như: người lao động mất đất sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho nhân
dân, tái định cư,... chưa được giải quyết triệt để, làm chậm tiến độ bàn giao mặt

1


bằng để thi công các công trình. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để
giải quyết những bất cập nêu trên, vừa đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên liên
quan vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng công tác này là việc làm cần thiết, nhằm
kịp thời đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại, làm cho công tác quản lý
nhà nước về đất đai ngày càng tốt hơn, đẩy nhanh công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng và củng cố lòng tin của người dân vào chủ trương, đường lối của Đảng và

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, học viên chọn đề tài: “Pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu tìm hiểu trong khuôn khổ luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp là một trong những chế định quan trọng của pháp luật đất
đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống đã trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của
người dân, cộng đồng dân cư nơi có đất bị thu hồi và lợi ích của nhà đầu tư nên thời
gian qua đã có rất nhiều sách báo, công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dưới góc độ
lý luận và thực tiễn, tiêu biểu là các công trình nghiêu cứu của các tác giả như:
Tác giả Lê Hải Yến (2010) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng tại địa bàn Quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội”.
Nghiên cứu này tập trung vào phân tích áp dụng Luật trong thực tiễn quận Tây Hồ
trong giai đoạn đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội và vẫn còn bỏ ngỏ những
mảng trống trong nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong tái định cư đảm bảo nhà ở
cho dân như thế nào.
Tác giả Hoàng Thị Thu Trang (2012) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp
dụng tại Nghệ An”;
Tác giả Đỗ Phương Linh (2012) với đề tài: "Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư
người có đất bị thu hồi trong giải phóng mặt bằng - thực trạng và giải pháp hoàn thiện";

2


Tác giả Trần Phương Liên (2013) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Thực trạng
và hướng hoàn thiện";
Tác giả Phạm Thu Thủy (2014) với đề tài: “Pháp luật về bồi thường khi nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”;
Tác giả Trần Cao Hải Yến (2014) với đề tài: “Thực thi pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay”;
Tác giả Nguyễn Văn Thiện (2016) với đề tài: “Đánh giá công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư tại dự án nâng cấp mở rộng Quốc lộ 1, đoạn qua
huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam”;….
Trong các công trình nêu trên, các tác giả đã nghiên cứu phân tích nhu cầu
thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là nhu cầu tất
yếu khách quan, từ đó lý giải sự cần thiết của việc xây dựng chính sách bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư đưa ra những cơ sở pháp lý cho việc bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất; các luận văn đã nghiên cứu, phân tích đánh giá pháp luật về thu hồi đất
nói chung và những quy định chi tiết, cụ thể riêng biệt của từng địa phương trong
thu hồi đất, bồi thường và tái định cư để phù hợp với thực trạng của địa phương;
đánh giá những điểm hợp lý và bất hợp lý trong các quy định hiện hành về thu hồi
đất, bồi thường, tái định cư, những dẫn chứng cụ thể, những bài học kinh nghiệm
rút ra từ thực tiễn; phân tích tâm lý, tác động về vật chất, tinh thần của người có đất
bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp và cuộc sống của họ sau khi thu hồi đất
trên phạm vi cả nước hoặc một địa bàn cụ thể.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả từ các công trình khoa học đã nghiên
cứu. Tác giả cho rằng, đây là vấn đề khá phức tạp trong thực tiễn áp dụng .Vì vậy,
Luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về hỗ trợ, bồi thường, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp mà chưa được
các nhà nghiên cứu tiếp cận hoặc đã được tiếp cận nhưng chỉ ở mức độ khái quát:
những nguyên tắc, điều kiện của việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Luận
văn sẽ nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc, toàn diện hơn vấn đề bồi thường,

3


hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp tại

tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp.
- Tìm hiểu và đánh giá hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong những năm qua.
- Phân tích ảnh hưởng của việc thực hiện các chính sách trong công tác
GPMB của dự án đến đời sống của người dân bị thu hồi đất.
- Đề xuất các giải pháp khắc phục những khó khăn, yếu kém nhằm đẩy nhanh
tiến độ GPMB để thực hiện các công trình, dự án phù hợp với tốc độ phát triển KT-XH
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp; khái niệm, đặc điểm và
yêu cầu của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để
xây dựng các khu công nghiệp.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm rõ khái niệm, đặc điểm, các yếu tố
chi phối pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp, lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật cũng như
cơ cấu pháp luật điều chỉnh về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất để xây dựng các khu công nghiệp ở Việt Nam.

4



- Đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nhằm
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế; trên cơ sở đó,
Luận văn đưa ra định hướng và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để
xây dựng các khu công nghiệp ở Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây
dựng các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu
công nghiệp ở tỉnh Quảng Nam là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng, phức tạp liên
quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của một bản
luận văn thạc sĩ luật học, Luận văn không kỳ vọng tìm hiểu toàn diện và giải quyết
thấu đáo các yêu cầu của vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp ở tỉnh Quảng Nam dưới góc độ pháp lý
mà giới hạn phạm vi ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu
công nghiệp ở tỉnh Quảng Nam, thông qua việc tìm hiểu, đánh giá nội dung Luật
Đất đai năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, Luận văn đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin nhằm nghiên cứu vấn đề trong trạng thái vận động biến đổi

không ngừng và trong mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa hiện tượng nghiên

5


cứu với các hiện tượng khác, đồng thời các hiện tượng nghiên cứu luôn được xem xét
trong quá trình từ hình thành đến phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bên
cạnh đó, tôi cũng dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cùng với những phương pháp trên, học viên đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu thập
chủ yếu là các quy định của cơ quan nhà nước ở tỉnh Quảng Nam và các cơ quan
liên ngành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng
các khu công nghiệp. Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua báo cáo, văn
bản chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh Quảng Nam, các cơ quan liên ngành và
thông qua các công trình, bài viết, tạp chí, internet… để lấy thông tin, số liệu liên
quan đến thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp tại tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: được sử dụng để tổng hợp và phân tích
các quy định của pháp luật về bồi thường (BT) khi nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ),
cũng như các thông tin về thực tiễn áp dụng. Phương pháp này còn được sử dụng để
nhận xét, đánh giá trong luận văn.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các tài
liệu, các số liệu mà tôi thu thập từ thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp. Qua đó, tác
giả có được các số liệu, thông tin tin cậy trình bày trong luận văn.
Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so

sánh, logic... để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về mặt lý luận, luận văn đã hệ thống hoá và góp phần phát triển, bổ sung cơ

6


sở lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
để xây dựng các khu công nghiệp, làm rõ cơ chế điều chỉnh của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các
nhà hoạch định chính sách, pháp luật đất đai, các nhà quản lý đất đai mà còn là tài
liệu chuyên khảo cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học về pháp
luật đất đai ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về luật học ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung
chính của Luận văn, bao gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp.
Chương 2.Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng các khu công
nghiệp tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để
xây dựng các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

7



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
1.1.1.1. Thu hồi đất
Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp
luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp
luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử
dụng, thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai bằng
một quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thông qua những
hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai, với tư cách là đại
diện chủ sở hữu đối với đất đai.
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng "Thu hồi: Lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp
phát ra hoặc bị người khác lấy" [32, tr.759].
Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là: "Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về
sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng
đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử
dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng" [21]. Khái niệm này thực ra cũng chưa hẳn là một định
nghĩa rõ ràng về thu hồi đất, mặc dù có đề cập các trường hợp thu hồi đất của Nhà
nước nhưng nội hàm của khái niệm này chưa bao quát hết các trường hợp thu hồi đất
của Nhà nước. Nhà nước không chỉ thu hồi đất của người có hành vi vi phạm về sử
dụng đất hay thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích


8


quốc gia, lợi ích công cộng, mà còn thu hồi đất khi có vi phạm từ phía cơ quan
quản lý như đất được giao không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền hoặc
thu hồi khi người sử dụng đất chết mà không có người thừa kế, ...
Trong từng thời kỳ, khái niệm thu hồi đất được pháp luật ghi nhận như sau:
Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 ra đời, đã đề cập vấn đề thu
hồi đất, nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường
hợp bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và Điều 26 Luật Đất đai năm
1993).
Luật Đất đai năm 2003 giải thích thuật ngữ thu hồi đất tại Khoản 5 Điều 4:
“Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản
lý theo quy định của Luật này" [14].
Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu
lực vào ngày 01/7/2014, tại khoản 11, Điều 4 đã quy định: "Nhà nước thu hồi đất là
việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất
đai" [15].
Từ những phân tích trên, có thể hiểu một cách khái quát về thu hồi đất như sau:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng
đất đã giao cho các chủ thể sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai".
1.1.1.2. Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm
giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi
vi phạm [11]. Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu. Vì vậy, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị

quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất [9]. Có 2
loại bồi thường: Bồi thường về đất và bồi thường về tài sản.

9


Bồi thường về đất là bồi thường đối với toàn bộ diện tích đất Nhà nước thu hồi
theo nguyên tắc diện tích đất bị thu hồi bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. Diện
tích đất bồi thường là diện tích đất hợp pháp được xác định lại trên thực địa - thực tế
đo đạc diện tích thu hồi của từng chủ sử dụng đất.
Bồi thường về tài sản hiện có gắn liền với đất và các chi phí đầu tư vào đất
bị Nhà nước thu hồi gồm: Nhà, các công trình, vật kiến trúc, cây cối hoa màu,
mồ mã, công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật gắn liền với đất đai bị thu hồi.
1.1.1.3. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa
điểm mới [9].
Các loại hỗ trợ bao gồm: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư đối với trường
hợp thu hồi đất ở, hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
nghề và tạo việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp; hỗ trợ khi thu hồi
đất nông nghiệp trong khu dân cư, đất vườn, ao không được công nhận là đất ở [3].
1.1.1.4. Tái định cư
Tái định cư là quá trình thiết lập lại cuộc sống cho người bị thu hồi đất phải di
chuyển chỗ ở đến nơi ở mới ổn định cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Khu TĐC là địa bàn được quy hoạch để bố trí các điểm TĐC, hệ thống cơ sở
hạ tầng, công trình công cộng và khu vực sản xuất. Trong khu TĐC có ít nhất một
điểm TĐC [12].
Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật mà phải
di chuyển chỗ ở thì được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
+ Bồi thường bằng nhà ở.

+ Bồi thường bằng giao đất ở mới.
+ Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.
1.1.2. Phân biệt giữa hỗ trợ, tái định cư với bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
Khi nghiên cứu pháp luật về BT khi NNTHĐ, ta thấy giữa BT với HT và
TĐC có quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, giữa chúng cũng thể hiện những
điểm khác biệt cơ bản, đó là:

10


Về nguyên tắc, BT khi NNTHĐ thực hiện theo nguyên tắc là BT toàn bộ giá trị
quyền SDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi khi thỏa mãn điều kiện được BT, BT
toàn bộ thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; chi phí đầu tư vào đất do ngừng hoặc bị
ngưng trệ quá trình sản xuất và BT các thiệt hại vô hình xảy ra khi NNTHĐ. Còn
HT và TĐC, Nhà nước căn cứ vào các yếu tố như: mức độ khó khăn về đời sống và
sản xuất, vấn đề đào tạo và chuyển đổi nghề nghiệp, về điều kiện nhân khẩu, nhà ở,
các chi phí khác có liên quan để xem xét hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ để tổ chức,
cá nhân bị THĐ sớm ổn định đời sống, sản xuất, kinh doanh.
Về nội dung, khi NNTHĐ sẽ BT giá trị quyền SDĐ đối với diện tích đất bị thu
hồi (là quyền tài sản quan trọng của người SDĐ), các tài sản gắn liền với đất, các
chi phí đầu tư vào đất, các thiệt hại do ngừng việc hoặc bị ngưng trệ quá trình sản
xuất và các thiệt hại vô hình khác…, các thiệt hại này phát sinh trực tiếp từ việc
THĐ do đó Nhà nước có trách nhiệm phải BT. Ngược lại, hỗ trợ là việc Nhà nước
giải quyết các hệ quả tiếp theo nảy sinh sau khi BT, GPMB nhằm giúp người bị
THĐ giảm bớt các khó khăn về thu nhập, về việc làm, về cuộc sống... Còn TĐC là
việc Nhà nước thực hiện BT cho người bị THĐ trong trường hợp phải di chuyển
chỗ ở.
Về vị trí, vai trò, BT khi NNTHĐ đóng vai trò trung tâm và có tính chất quyết
định trực tiếp đến quyền và lợi ích của người bị THĐ, Nhà nước có nghĩa vụ BT

ngang giá và sát với giá thị trường về những thiệt hại hữu hình và vô hình phát sinh
trực tiếp từ hoạt động THĐ. Với hỗ trợ lại khác, đây là một giải pháp nằm trong BT,
nó đóng vai trò bù đắp vào khoảng trống mà các quy định về BT còn thiếu, chưa
hoàn thiện và không vươn tới được chức năng của BT. Nhà nước quy định và thực
hiện các chính sách hỗ trợ nhằm mục đích giúp cho người bị THĐ nhanh chóng ổn
định sản xuất, khôi phục, cải thiện và nâng cao mức sống. Còn TĐC chính là việc
Nhà nước BT về đất, các tài sản gắn liền với đất và các chi phí di chuyển, ổn định
cuộc sống của người bị THĐ trong trường hợp phải di chuyển chỗ ở, do đó TĐC
giữ vai trò là yếu tố bổ trợ giúp các quy định về BT được áp dụng triệt để và có tính
khả thi cao trong thực tiễn [49, tr. 39].

11


1.1.3. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để xây dựng các khu công nghiệp
Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất đai, nhất là trong giai đoạn
thực hiện CNH - HĐH, tốc độ đô thị hóa nhanh đã gây áp lực rất lớn cho việc SDĐ.
Điều này đòi hỏi việc phân bổ quỹ đất quốc gia nói chung và ở mỗi địa phương nói
riêng phải chi tiết, mang tính khoa học và có tầm nhìn chiến lược. Để hoàn thành
mục tiêu này, không thể tránh khỏi việc NNTHĐ của các chủ thể đang sử dụng. Do
đó, việc BT, HT, TĐC khi NNTHĐ đóng vai trò hết sức quan trọng được thể hiện
trên các phương diện sau đây:
Thứ nhất, đảm bảo chia sẻ về mặt lợi ích và bù đắp những thiệt hại để người bị
THĐ sớm ổn định đời sống, sản xuất, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người bị
THĐ. Trên cơ sở đó, góp phần duy trì và ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội,
cũng như tạo ra động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước [71, tr.20].
Thứ hai, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa cũng như tính chất
phức tạp của việc BT, HT, TĐC khi NNTHĐ của các nhà quản lý, của chính quyền
địa phương. Trong quá trình thực hiện việc BT, GPMB, các cơ quan và cán bộ có

thẩm quyền không chỉ dựa vào các quy định của pháp luật mà còn lắng nghe ý kiến,
nguyện vọng chính đáng của người dân, trên cơ sở đó đưa ra các phương án giải
quyết công việc một cách linh hoạt, mềm dẻo, vừa đảm bảo tốt các quyền lợi và lợi
ích của người SDĐ, vừa không làm trái các chính sách, pháp luật về BT, HT, TĐC
khi NNTHĐ. Bên cạnh đó, thông qua thực tiễn thi hành việc BT khi NNTHĐ sẽ
nâng cao năng lực, kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ làm công tác BT, HT và TĐC
góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Không những vậy, còn giảm các tác
động tiêu cực đến người SDĐ và các dự án có nhu cầu SDĐ; từ đó góp phần củng
cố lòng tin của nhân dân vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước nhất là trong lĩnh vực đất đai.
Thứ ba, tìm ra lời giải hợp lý cho bài toán “lợi ích ba bên” là Nhà nước Người bị THĐ - Doanh nghiệp, nhà đầu tư. Đây là một trong những động lực quan
trọng nhằm thực hiện tốt các chính sách về phát triển KT - XH của Đảng và Nhà
nước, đồng thời làm tăng tính hấp dẫn về môi trường đầu tư.

12


Thứ tư, BT, HT, TĐC khi NNTHĐ góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế,
chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị THĐ, nhất là đối với người nông dân. Khi
NNTHĐ nông nghiệp mà không có đất để BT, người nông dân ngoài việc được Nhà
nước BT bằng tiền, họ còn được HT tạo việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp, HT ổn
định đời sống sản xuất và HT khác... tránh tình trạng nhiều người rơi vào hoàn cảnh
khó khăn, thậm chí trở thành nghèo đói chỉ sau một thời gian mất đất [71, tr.21].
1.1.4. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Bất cứ một lĩnh vực nào, một quan hệ xã hội nào phát sinh trong đời sống xã
hội cũng rất cần đến sự điều chỉnh của pháp luật, nhằm định hướng các quan hệ này
đi theo một trật tự chung thống nhất, phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của các bên
tham gia quan hệ và vì lợi ích chung của toàn xã hội. Trong lĩnh vực đất đai, để thực
hiện việc THĐ Chính phủ, các cấp, các ngành đã ban hành các quy phạm pháp luật

để giải quyết những vấn đề phát sinh khi NNTHĐ. Nghiên cứu, tìm hiểu nội dung
các quy định này, có thể thấy pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ là một chế
định quan trọng của pháp luật đất đai Việt Nam và được hiểu về mặt lý luận như
sau: “Pháp luật về BT, HT,TĐC khi NNTHĐ là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
BT, HT, TĐC khi NNTHĐ, nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích
của chủ đầu tư và của người bị THĐ” [49, tr.46].
1.1.4.1. Đặc điểm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
Pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ mang một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ chịu sự ảnh hưởng và chi
phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, điều này được minh chứng ở hai khía
cạnh sau:
Một là: Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai nên Nhà
nước có quyền phân bổ và điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu phát triển KT - XH.
Trên cơ sở đó, Nhà nước có quyền THĐ của người này để chuyển giao cho người

13


khác. Vì vậy, pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ quy định quyền của Nhà
nước trong việc ra quyết định THĐ trong những trường hợp cần thiết do nhu cầu
của Nhà nước và xã hội ngay cả khi người sử dụng đất đang khai thác, sử dụng.
Hai là, để tránh sự lạm quyền, độc quyền, tùy tiện trong thu hồi và BT, HT,
TĐC khi thu hồi đất, pháp luật về BT, HT, TĐC phải quy định rõ và chặt chẽ về căn
cứ thu hồi đất, các nguyên tắc, điều kiện, nội dung và trình tự thủ tục thực hiện việc
BT, HT, TĐC chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật khi NNTHĐ.
Thứ hai, cơ sở để BT, HT, TĐC không chỉ dựa trên những thiệt hại vật chất
thực tế mà còn phải tính đến những tổn hại phi vật chất ở thời điểm thu hồi và trong
tương lai mà người dân phải đối mặt khi NNTHĐ. Bởi lẽ, đối tượng bị THĐ sẽ chịu

nhiều tác động từ tâm lý, tinh thần đến đời sống vật chất, sinh hoạt của người dân.
Đặc biệt đối với người nông dân khi THĐ nông nghiệp thì họ mất đất sản xuất bởi
đất bị thu hồi chính là tư liệu sản xuất chính không gì thay thế được.
Thứ ba, pháp luật BT, HT, TĐC khi NNTHĐ phải giải quyết hài hòa mâu
thuẫn giữa lợi ích “công” của Nhà nước, của xã hội và lợi ích “tư” của người sử
dụng đất. Điều này thể hiện khi THĐ để sử dụng cho mục đích chung thì Nhà nước
phải chú trọng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất bị thu hồi,
dựa trên cơ sở QSDĐ là một loại quyền về tài sản được pháp luật bảo hộ.
Các quy định về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ được ban hành phù hợp với thực
tiễn, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân thì được họ đồng tình ủng hộ,
việc thu hồi đất được thực hiện nhanh chóng, dứt điểm. Ngược lại, các quy định về
BT, HT, TĐC khi NNTHĐ không phù hợp với thực tế, tác động tiêu cực đến tâm lý,
suy nghĩ của người dân thì sẽ không nhận được sự đồng thuận, phát sinh các tranh
chấp, khiếu kiện kéo dài tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội; hậu quả là việc
THĐ gặp nhiều khó khăn, phức tạp và thậm chí là không thực hiện được [49, tr.48].
1.1.4.2. Các yêu cầu của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
Các thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nước thu hồi đất để bồi thường
Trên phương diện lý luận, thiệt hại về vật chất và tinh thần của người bị THĐ

14


là hậu quả phát sinh trực tiếp từ việc THĐ của Nhà nước. Trong khi đó, quyền SDĐ
và quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân đã được Hiến pháp,
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Do vậy, chúng ta phải xác định đúng, đầy đủ và khách
quan những thiệt hại xảy ra khi Nhà nước THĐ để xây dựng phương án BT, HT,
TĐC “thỏa đáng” trên cơ sở đảm bảo hài hòa quyền lợi Nhà nước, của NĐT, nhất là
đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ. Với cách tiếp cận nêu
trên, các thiệt hại mà người bị THĐ có thể phải gánh chịu bao gồm:

Thứ nhất, thiệt hại về công sức đầu tư mà người bị THĐ bỏ ra để làm tăng giá
trị quyền SDĐ. Không những thế, đây còn là thiệt hại về quyền khai thác và hưởng
các lợi ích từ diện tích đất đai do bị Nhà nước thu hồi.
Thứ hai, thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư của người
bị THĐ được tạo ra trong quá trình SDĐ, gồm: nhà cửa, các công trình kiến trúc,
cây trồng và các tài sản khác gắn liền với đất.
Thứ ba, thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất mà đến thời điểm NNTHĐ còn chưa
thu hồi được. Chi phí đầu tư vào đất còn lại được xác định bằng tổng chi phí hợp lý
tính thành tiền đầu tư vào đất trừ đi số tiền tương ứng với thời gian đã SDĐ. Các
khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm: tiền SDĐ của thời hạn chưa SDĐ trong
trường hợp giao đất có thời hạn, tiền thuê đất đã nộp trước cho thời hạn chưa SDĐ
(có chứng từ hóa đơn nộp tiền), chi phí san lấp mặt bằng, tôn tạo đất theo hiện trạng
khi được giao, được thuê, phù hợp với mục đích SDĐ và các chi phí khác có liên
quan.
Thứ tư, thiệt hại do ngừng việc, ngừng sản xuất kinh doanh khi NNTHĐ người
SDĐ bị mất việc làm hoặc bị ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, các thiệt hại vô hình mà người bị THĐ phải gánh chịu như: chỗ ở
mới xa hơn, xa trường học và bệnh viện, chi phí sinh hoạt trong thời gian học nghề,
thời gian và chi phí để chuyển hộ khẩu về nơi ở mới, thời gian xin chuyển trường
học cho con cái,… Các thiệt hại này, từ trước đến nay chưa được xem xét và định
giá để làm căn cứ BT, HT, TĐC. Tuy nhiên, Nhà nước cũng chỉ nên đặt ra các tiêu
chí và phương pháp để xác định giá trị của các thiệt hại vô hình, chứ không nên đưa

15


ra một con số cụ thể. Chính người bị THĐ sẽ là người trực tiếp tính toán những
thiệt hại vô hình của họ, sau đó những giá trị vô hình mà người bị THĐ đã tính toán
cần được thẩm định lại một cách khách quan, toàn diện bởi một cơ quan thẩm định
độc lập.

Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và người
được hưởng lợi từ việc thu hồi đất của Nhà nước
Nhằm tạo ra quỹ đất để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, Nhà nước phải tiến hành THĐ. Điều này
sẽ gây ra những thiệt hại về vật chất, tinh thần cũng như làm ảnh hưởng đến đời
sống, sản xuất của người bị THĐ. Bởi vậy, khi tiến hành THĐ, Nhà nước cần có
những biện pháp thỏa đáng để giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước,
người bị THĐ và những người được hưởng lợi từ việc THĐ. Để đảm bảo lợi ích
giữa các chủ thể nêu trên cần cân nhắc và giải quyết theo hướng sau:
Về phía Nhà nước: tiến hành THĐ là nhằm phân phối lại quỹ đất cho phù hợp
với mục tiêu quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Thêm vào đó, với
chức năng đại diện cho chủ sở hữu, Nhà nước sẽ thực hiện vai trò điều tiết các lợi
ích kinh tế của các chủ thể liên quan đến việc THĐ chủ yếu thông qua các chính
sách tài chính về đất đai nhằm đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Về phía người được hưởng lợi từ việc THĐ (nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân
khác…) có thể nói những chủ thể này ít nhiều đều được hưởng lợi ích nhất định từ
hoạt động THĐ của Nhà nước. Do đó, lợi ích này cần phải tính toán và giải quyết
một cách hài hòa, để đảm bảo lợi ích cho NĐT. Mặt khác, Nhà nước phải xác lập
được cơ chế, chế tài ràng buộc trách nhiệm của NĐT để tránh hiện tượng vì lợi ích
của chính NĐT sẵn sàng làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người bị THĐ.
Mặc khác Nhà nước cũng cần phải xem xét và giải quyết mối quan hệ về lợi ích
giữa người bị THĐ với những người được hưởng lợi từ việc THĐ sử dụng vào mục
đích công cộng như xây dựng đường giao thông, công viên, trường học, bệnh
viện…Vì người bị THĐ có thể phải di chuyển chỗ ở hoặc bị mất một phần diện tích
đất nhất định, nhưng có những người SDĐ gần khu vực đó không những không bị

16


mất đất mà còn được hưởng lợi do việc Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

KT - XH đã làm tăng giá trị quyền SDĐ của các chủ thể này. Hơn nữa, hiện nay
Nhà nước vẫn chưa có cơ chế nhằm điều tiết một phần giá trị tăng thêm từ đất mà
không phải do người SDĐ đầu tư mang lại, do đó đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa
các chủ thể sử dụng đất với nhau và hiển nhiên về phần Nhà nước cũng mất đi một
nguồn thu đáng kể cho ngân sách.
Về phía người bị THĐ: cần nhận thức đầy đủ về lợi ích chung mang lại cho
cộng đồng từ việc THĐ của Nhà nước, do đó khi Nhà nước đã thực hiện BT, HT và
TĐC theo đúng quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm bàn giao mặt
bằng đúng thời hạn. Song, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp người bị THĐ
được BT với mức giá thỏa đáng, nhưng họ vẫn cố tình chậm bàn giao mặt bằng với
suy nghĩ chay ì kéo dài sẽ được nhận mức giá BT cao hơn. Vấn đề này xảy ra một
mặt dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài, vượt cấp, mặt khác kéo dài thời gian
GPMB làm chậm tiến độ triển khai thực hiện dự án, gây lãng phí, thất thoát rất lớn
cho Nhà nước, NĐT và cho xã hội. Như vậy, lợi ích của các chủ thể nêu trên không
phải lúc nào cùng đồng hành sát cánh cùng nhau, nhiều khi các lợi ích đó sẽ xung đột
với nhau. Việc xác định và giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa các bên không
những tạo ra sự đồng thuận trong quá trình thực hiện BT, HT, TĐC, mà còn góp phần
đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc công bằng, công khai trong SDĐ [71, tr.14].
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các tổ chức tài trợ và
một số nước trên thế giới.
1.2.1.1. Chính sách bồi thường , hỗ trợ, tái định cư của các tổ chức tài trợ
Các dự án do Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
cho vay phải được các Bộ chủ quản dự án thông qua như các chương trình TĐC đặc
biệt và khi tổ chức thực hiện cũng thường gặp các khó khăn nhất định, đặc biệt
trong việc gây ra bất bình đẳng giữa các cá nhân và hộ gia đình trong cùng một địa
phương nhưng lại ảnh hưởng các chính sách bồi thường thiệt hại khác nhau của các
dự án khác nhau.

17



Mục tiêu chính sách BT, HT, TĐC của WB và ADB là việc BT, HT, TĐC
phải đưa ra những biện pháp khôi phục để giúp người bị ảnh hưởng cải thiện hoặc ít
ra phải giữ được mức sống, khả năng thu nhập và mức độ sản xuất như trước khi
chưa có dự án. Các biện pháp phục hồi được cung cấp là bồi thường theo giá thay
thế nhà cửa và các kết cấu khác, bồi thường đất nông nghiệp là lấy đất có cùng hiệu
suất và phải gần gũi với đất đã bị thu hồi, bồi thường đất thổ cư có cùng diện tích
được người bị ảnh hưởng chấp nhận, giao đất TĐC với thời hạn ngắn nhất. Đối với đất
đai và tài sản được bồi thường, chính sách của WB và ADB là phải bồi thường theo giá
xây dựng mới đối với tất cả các công trình xây dựng và quy định thời hạn BT, HT,
TĐC hoàn thành trước một tháng khi dự án triển khai thực hiện. Việc lập kế hoạch cho
công tác BT, HT, TĐC được WB và ADB coi là điều bắt buộc trong quá trình thẩm
định dự án. Mức độ chi tiết của kế hoạch phụ thuộc vào số lượng người bị ảnh hưởng
và mức độ tác động của dự án. Ngoài ra, còn phải áp dụng các biện pháp sao cho người
bị di chuyển hòa nhập được với cộng đồng mới. Để thực hiện các biện pháp này, nguồn
tài chính và vật chất cho việc di dân luôn được chuẩn bị sẵn.
1.2.1.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư một số nước trên thế giới
Đối với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, đất đai là nguồn lực cơ bản,
quan trọng nhất của mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, nhiều nước
trên thế giới cố gắng không ngừng trong việc hoàn thiện chính sách pháp luật về đất
đai trong đó có chính sách về BT, HT, TĐC của cơ quan quản lý Nhà nước. Dưới
đây là một số kinh nghiệm quản lý đất đai của các nước trên thế giới phần nào giúp
ích cho chính sách BT, HT, TĐC ở nước ta.
* Hàn Quốc:
Ở Hàn Quốc, vào những năm 70 của thế kỷ trước, trước tình trạng di dân ồ ạt từ
các vùng nông thôn vào đô thị, thủ đô Seoul đã phải đối mặt với tình trạng thiếu đất
định cư trầm trọng trong thành phố. Để giải quyết nhà ở cho dân nhập cư, chính
quyền thành phố phải tiến hành thu hồi đất của nông dân vùng phụ cạn. Việc BT
được thực hiện thông qua các công cụ chính sách như hỗ trợ tài chính, cho quyền

mua căc hộ do thành phố quản lý và chính sách tái định cư.

18


Các hộ bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận căn hộ do nhà nước quản lý,
được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách Seoul khoảng 5km. Khi thị
trường bất động sản bùng nổ, hầu hết các hộ có quyền mua căn hộ có thể bán lại
quyền mua căn hộ của mình với giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc.
* Trung Quốc:
Có thể nói, mục tiêu bao trùm lên chính sách BT, HT, TĐC là hạn chế đến
mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng cũng như số lượng người bị ảnh
hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc thu hồi đất là
không thể tránh khỏi thì có sự chuẩn bị cẩn thận phương án BT, trên cơ sở tính toán
đầy đủ lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi
đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì
người nào sử dụng đất sau đó có trách nhiệm BT. Người bị thu hồi đất được
thanh toán ba loại tiền: tiền BT đất đai, tiền trợ cấp về TĐC, tiền trợ cấp BT hoa màu
trên đất. Cách tính tiền BT đất đai và tiền trợ cấp TĐC căn cứ theo tổng giá trị tổng
sản lượng của đất đai những năm trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền BT cho hoa màu,
cho các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại.
Mức BT cho giải phóng mặt bằng (GPMB) được thực hiện theo nguyên tắc đảm
bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Việc quản lý GPMB
được giao cho các cục quản lý tài nguyên đất ở địa phương đảm nhiệm. Tổ chức, cá
nhân được quyền sử dụng thửa đất nào sẽ trả tiền thuê một đơn vị giải tỏa mặt bằng.
Để giải quyết nhà ở cho người dân khi GPMB, phương thức chủ yếu của
Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách tính ba khoản sau: Một là, giá cả xây
dựng lại nhà mới và nhà cũ; Hai là, giá đất tiêu chuẩn; Ba là, trợ cấp về giá cả. Ba
khoản này cộng lại là tiền BT về nhà ở.

Bên cạnh những thành công như vậy, chính sách BT, HT và TĐC của Trung
Quốc cũng bộc lộ những tồn tại nhất định mà chủ yếu là vấn đề việc làm; tốc độ TĐC
chậm, thiếu đồng bộ, thực hiện GPMB trước khi xây xong nhà TĐC...
* Thái Lan:
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, mọi giao dịch về đất đai đều do cơ

19


chế thị trường điều tiết. Tuy nhiên, với những dự án do Chính phủ quản lý, việc
BT được tiến hành theo trình tự: tổ chức nghe ý kiến người dân; định giá BT.
Công tác BT, GPMB và bố trí TĐC ở Thái Lan được thực hiện trên cơ sở luật và
các văn bản hướng dẫn dưới luật BE 2530, Luật Trưng dụng bất động sản...
Chính phủ Thái Lan căn cứ mức giá do Uỷ ban của Chính phủ xác định trên
cơ sở giá chuyển nhượng thị trường bất động sản làm giá BT. Giá BT phụ thuộc vào
từng khu vực, từng dự án. Nếu một dự án mang tính chiến lược quốc gia thì Nhà
nước BT với giá rất cao so với giá thị trường. Nhìn chung, khi tiến hành lấy đất của
dân, Nhà nước hoặc cá nhân đầu tư đều BT với mức giá hơn giá thị trường.
1.2.2. Chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước ta qua các
thời kỳ
1.2.2.1. Trước khi có Luật Đất đai 2003
Trước khi có Luật Đất đai 2003, Nhà nước ta từng ban hành Luật Cải cách
ruộng đất năm 1953, Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính
phủ (nay là Chính phủ) "Quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất". Đây là
văn bản pháp luật đầu tiên liên quan đến bồi thường và bố trí TĐC ở nước ta.
Sau đó, lần lượt Luật Đất đai 1987, Luật Đất đai 1993 được ban hành.
Luật Đất đai năm 1993 quy định các loại đất, các nguyên tắc sử dụng đối với
từng loại đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
* Ưu điểm:
+ Thể hiện thống nhất chính sách bồi thường thiệt hại cho mọi trường hợp bị

Nhà nước thu hồi đất.
+ Quy định về giá đất, giá tài sản bồi thường phù hợp hơn với giá trị thiệt hại
thực tế của người dân có đất bị thu hồi. Song song với công tác bồi thường về đất,
tài sản gắn liền với đất, Nhà nước còn tiến hành một số chính sách hỗ trợ nhằm đảm
bảo ổn định cuộc sống tại nơi ở cũ hoặc nơi ở mới.
+ Quy định đầy đủ phạm vi, đối tượng áp dụng, điều kiện được bồi thường,
chi tiết và cụ thể hóa các trường hợp bồi thường thiệt hại về đất, nhà, các tài sản
khác gắn liền với đất cho phù hợp với thực tế quản lý sử dụng đất, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện.

20


×