Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Vai trò của cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền trần, tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.29 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN QUỲNH NGÂN

VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUÁ TRÌNH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH,
LỄ HỘI ĐỀN TRẦN, TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Việt Nam học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC & KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN QUỲNH NGÂN

VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUÁ TRÌNH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH,
LỄ HỘI ĐỀN TRẦN, TỈNH NAM ĐỊNH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học
Mã số: 60 22 11 13

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Ngô Đức Thịnh


Hà Nội - 2015


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước cùng 54 dân tộc anh em,
Việt Nam có một nền văn hóa phong phú, đa dạng, được đúc kết qua bao nhiêu thế
hệ. Có thể thấy cùng với quá trình phát triển kinh tế là những bước thăng trầm của
văn hóa. Qua gần ba mươi năm đổi mới đất nước đã có những bước phát triển đáng
ghi nhận. Chúng ta không chỉ đổi mới về kinh tế, xã hội mà còn đổi mới trong nhận
thức và tư duy: Phát triển kinh tế gắn bó hữu cơ với phát triển văn hóa – đó là định
hướng của sự phát triển bền vững.
Từ khi bước vào công cuộc Đổi mới năm 1986 nền văn hóa nước ta được
phục hưng trở lại: hàng loạt các lễ hội truyền thống được khôi phục. Hàng năm đều
diễn ra các đợt kiểm kê di tích và trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử, Cục Di sản văn
hóa ra đời năm 2003 mà tiền thân là Cục (Vụ) Bảo tồn bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa
thông tin từ những năm 1960 (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch),….đã làm
cho nền văn hóa nước ta như bước vào một trang mới, cả dân tộc khí thế bắt tay vào
công cuộc cải cách kinh tế, xã hội.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch Việt Nam hiện nay có
khoảng hơn 8000 lễ hội mỗi năm, trong đó chiếm 88% là lễ hội dân gian. Qua các
quá trình lịch sử cùng với các chính sách của Nhà nước, địa phương các lễ hội trải
qua nhiều sự biến đổi.
Từ năm 2000 trở lại đây cứ đầu xuân năm mới những địa điểm như: hội Phủ
Dầy (Nam Định); đền Sòng (Thanh Hóa); chùa Hương (Hà Nội); đền Bà Chúa Kho
(Bắc Ninh),…hay bất kì đền chùa nào nổi tiếng bởi tính “thiêng” mà người ta đồn
thổi nhau thì nhân dân đều kéo nhau đến thắp hương, cầu tài lộc, công danh, … Lễ
hội đền Trần, tỉnh Nam Định là một trong những lễ hội được phục dựng và thu hút
đông đảo sự tham gia của du khách thập phương từ mọi miền đất nước.

Trấn Sơn Nam Hạ xưa (nay là thành phố Nam Định) còn được gọi là phủ
Thiên Trường – một vùng đất địa linh nhân kiệt, với hào khí Đông A rực rỡ đất trời,
được coi là kinh đô thứ hai sau kinh thành Thăng Long của thế kỷ XIII - XIV. Nơi
đây đã sản sinh ra những vị vua anh minh, những tướng lĩnh kiệt xuất làm nên ba
1


lần chiến thắng vang dội của dân tộc Việt Nam đánh bại quân xâm lược Nguyên
Mông, cùng truyền thống hiếu học góp phần gây dựng nên vương triều Trần hùng
mạnh, trở thành một trong những triều đại đỉnh cao của chế độ phong kiến ở nước
ta. Ngày nay dấu ấn đó còn lưu lại tại di tích và lễ hội đền Trần, nay thuộc phường
Lộc Vượng, thành phố Nam Định.
Di tích lịch sử văn hóa đền Trần là một trong những công trình kiến trúc tiêu
biểu của tỉnh. Hiện nay dưới lòng đất khu vực quanh đền Trần còn rất nhiều dấu
tích của hành cung Thiên Trường xưa mà qua các đợt khảo cổ học các nhà nghiên
cứu đã khai quật được như: các dải gạch ngói vụn tạo dáng hình hoa chanh viền
quanh nền của kiến trúc, đường ống thoát nước được xếp bằng gạch hoặc các ống
cống tròn…. Về công trình kiến trúc được xây dựng lại từ thế kỉ XVII là một ngôi
nhà thờ đại tôn họ Trần, đến thời nhà Nguyễn trải qua nhiều lần trùng tu, dựng thêm
một số gian còn lưu lại như công trình kiến trúc ngày nay. Ngày 15/10/2007, Thủ
tướng chính phủ đã quyết định phê chuẩn xây dựng Dự án bảo tồn, tôn tạo và phát
huy giá trị khu di tích lịch sử văn hóa thời Trần ở Nam Định. Nhận thấy được giá trị
khoa học và lịch sử lớn của triều Trần. Ngày 27/9/2012 khu di tích lịch sử văn hóa
đền Trần - chùa Tháp được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt do Thủ tướng
chính phủ kí quyết định. Ngày 19/12/2014 lễ hội đền Trần được công nhận là di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lễ hội đền Trần bao gồm hai kỳ lễ hội lớn trong năm là lễ khai ấn tổ chức
vào đêm 14 tháng giêng và lễ hội tháng Tám nhân ngày kỵ Đức Thánh Trần vào dịp
20 tháng tám âm lịch hàng năm.
Đặc biệt lễ khai ấn được tổ chức vào đêm 14 tháng giêng hàng năm là một

trong những lễ hội lớn của tỉnh, trong khoảng hơn mười năm trở lại đây nó đã vượt
ra khỏi phạm vi hương thôn Tức Mặc, trở thành một lễ hội của quốc gia, thu hút
được hàng vạn du khách trên khắp mọi miền đất nước. Trải qua từng thời kì lễ khai
ấn tại đền Trần Nam Định đã có những giai đoạn phát triển khác nhau. Từ một nghi
lễ cung đình của vua quan triều Trần trở thành một nghi lễ lưu truyền trong dòng họ
Trần được tổ chức bởi các vị cao niên trong làng và đến ngày nay tục lệ này được
Nhà nước hóa. Vì vậy lễ khai ấn được diễn ra tại một không gian thiêng (quần thể di
2


tích văn hóa Trần – hành cung Thiên Trường xưa), vào thời gian thiêng (canh Tý
đêm ngày 14 tháng giêng – thời gian mà các quan chức, nhân dân mở đầu cho một
năm lao động, làm việc mới) và tính thiêng của “lá ấn” được đóng vào canh Tý đêm
ngày 14 tháng giêng.
Qua đó có thể thấy di tích và lễ hội đền Trần, tp. Nam Định chứa đựng giá trị
di sản văn hóa lớn của một triều đại phong kiến Việt Nam. Do đó vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị di sản này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
quốc gia, dân tộc.
Mặt khác trong quá trình phục dựng lễ hội nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
dẫn đến những giải thích và quan niệm sai lầm về một số ý nghĩa của lễ hội. Điều
này làm cho lễ hội đền Trần trở thành một vấn đề nóng bỏng của dư luận xã hội.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng hiện nay khuynh hướng “Nhà nước hóa lễ
hội” đang diễn ra sâu rộng trên cả nước. Điều này thể hiện ở chỗ người dân sở tại với
tư cách là chủ thể của lễ hội đang dần mất vai trò và có thể bị gạt ra ngoài lễ hội, trở
thành những người thụ động.Việc nhà nước can thiệp quá sâu làm cho lễ hội bị sân
khấu hóa bởi các diễn viên nghệ thuật chuyên nghiệp theo một kịch bản có sẵn do đạo
diễn dàn dựng. Một số lễ nghi trong lễ hội cũng bị nhà nước hóa khi có quá nhiều
quan chức chính quyền các cấp đến dự lễ và theo một kịch bản mang tính hành chính
nhà nước. Khuynh hướng này đang làm triệt tiêu tính sáng tạo của dân chúng, làm
cho lễ hội mất đi tính hồn nhiên, sinh động vốn có của một lễ hội dân gian1.

Quần chúng nhân dân là những đối tượng đã sáng tạo nên lịch sử và văn hóa
vậy có nên hay chăng trong công cuộc bảo vệ và phát huy những giá trị di sản văn
hóa người dân trở thành đối tượng thụ động, bị đặt ra ngoài lề công cuộc này.
Do đó cần đặt ra vấn đề phục dựng lễ hội để gìn giữ giá trị nguyên bản cho lễ
hội và trả lại vai trò chủ thể sáng tạo của lễ hội cho cộng đồng cư dân địa phương.
Từ những lý do trên, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Vai trò của cộng đồng
trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần, tỉnh Nam
Định” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào tạo thạc sĩ ngành Việt Nam học tại Viện Việt
1

Bộ VHTT & DL, Cục DSVH: Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, Hà Nội, 2012, tr.49.

3


Nam học và khoa học phát triển của chúng tôi sẽ góp phần vào việc bảo vệ di tích,
cảnh quan, môi trường, giữ gìn bản sắc dân tộc, chủ quyền quốc gia, quảng bá hình
ảnh đất nước con người Việt Nam, nâng cao ý thức người dân đối với việc phát huy
những giá trị di sản văn hóa, khẳng định vai trò chủ thể của cộng đồng nhân dân với
di tích và lễ hội là những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cấp thiết hiện nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Di sản văn hóa luôn được xác định là tài sản vô giá của mỗi dân tộc, mỗi địa
phương và mỗi quốc gia, và cả nhân loại, là bằng chứng sinh động, xác thực, cụ thể
nhất về đặc điểm văn hóa của từng cộng đồng, địa phương, dân tộc. Bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa vừa nhằm mục đích giữ gìn những tinh hoa văn hóa truyền
thống, vừa kế thừa và khai thác giá trị của di sản phục vụ cho quá trình xây dựng
kinh tế - xã hội của đất nước.
Đặc biệt trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay
văn hóa dân tộc nói chung và di sản văn hóa nói riêng đã và đang phải đối mặt với

nhiều thời cơ và thách thức lớn. Nhằm thực hiện mục tiêu “xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã có không ít công trình nghiên cứu
về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của các học giả trong và ngoài nước.
2.1 Nhóm nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nước ngoài
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một đề tài nghiên cứu luôn thu
hút được sự quan tâm đông đảo của các học giả. Ở mỗi quốc gia có một sự hình
thành và phát triển văn hóa khác nhau nên chính phủ lại có một phương pháp, cách
tiếp cận vấn đề bảo tồn và phát huy di sản riêng biệt và có những bài học kinh
nghiệm sâu sắc.
Trên phương diện pháp lý, UNESCO đã có Công ước về bảo vệ di sản văn
hóa và thiên nhiên thế giới (năm 1972) sau quá trình thực hiện bảo vệ di sản văn
hóa từ những năm 45 của thập niên 90.
Có thể kể đến như Alfey, J và Putnam, T 2 cũng như Ashworth, G.L và P.J
Larkham3 đã coi di sản như một ngành công nghiệp và cần phải có cách thức quản
lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một ngành công nghiệp văn hóa với
2 The Industrial Heritage:Maganing Resources and User. Routedge, 1992
3 Building a New Heritage: Tourism, Culture and Identity in the New Europe.Routedge, 1994.

4


những logic quản lý đặc biệt phù hợp với tính đặc thù của di sản. Các nhà nghiên
cứu phương Tây lại cho rằng không thể không đề cập tới phát triển du lịch trong
vấn đề bảo vệ và phát huy di sản như Boniface và Fowler4 Prentice5,....Họ cho
rằng quản lý di sản và du lịch có thể đem lại lợi ích cho cả du khách cùng cộng
đồng sở hữu các di sản nếu du lịch được điều hành một cách đúng hướng. Bên
cạnh đó các tác giả cũng đặt việc quản lý di sản dưới cách tiếp cận toàn cầu hóa. Ở
đó các giá trị độc đáo của mỗi nền văn hóa cần được lưu giữ, được hỗ trợ bởi Nhà
nước trước những thách thức của sự đồng dạng về văn hóa như Corner và Harvey,
Boniface và Fowler6.

Ngoài ra các tác giả nước ngoài cũng quan tâm đến việc làm thế nào để lưu
giữ được các di sản văn hóa thông qua cách tiếp cận mới và phương pháp kĩ thuật
mới như Moore7 và Caulton8. Năm 2004 tổ chức JICA của Nhật Bản cùng với Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn có nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành
nghề thủ công Việt Nam.
2.2 Nhóm nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong nước
Những nhà nghiên cứu văn hóa như: GS.TS Nguyễn Văn Huyên, Phan
Khanh, GS.TS Ngô Đức Thịnh, GS.TSKH Lưu Trần Tiêu, GS. Vũ Khiêu, GS. Trần
Quốc Vượng,.... là những tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu lớn góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nước ta.
Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, có nhiều công trình nghiên
cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa như: Chương trình khoa học cấp Nhà
nước KX.09 bao gồm Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể Thăng Long
– Hà Nội do PGS.TS Nguyễn Chí Bền chủ biên và Bảo tồn, phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể Thăng Long – Hà Nội do PGS.TS Võ Quang Trọng làm chủ
biên. Mỗi nghiên cứu trên đều có những cách nhìn khác nhau tuy nhiên đã nêu rõ
khái niệm, mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, các di sản
4

Heritage and Tourism in the global village. Routedge, 1993

5

Tourism and Heritage Attractions.Routedge, 1993

6

Entersprise and Heritage:Crosscurents of National Culture, Routedge, 1991

7


Museum Management. Routedge, 1997

8

Hands on Exhibitions. Routedge, 1998.

5


văn hóa mà Thăng Long Hà Nội đang sở hữu, kinh nghiệm về bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa của các quốc gia trên thế giới và bài học rút ra cho chúng ta.
Nghiên cứu về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa còn một số
công trình khác như Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong xã hội Việt Nam
đương đại (trường hợp Hội Gióng) là cuốn sách tập hợp các nghiên cứu trong Hội
thảo về Hội Gióng vào tháng 4 năm 2010 do Viện Văn hóa nghệ thuật tổ chức với
quá trình nghiên cứu và sưu tầm hội Gióng ở các địa phương và vấn đề bảo tồn và
phát huy giá trị của lễ hội này.
Hai tập Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam được GS. Nguyễn Văn
Huyên được biên soạn lại vào năm 1996 bao gồm những ghi chép của ông đã cho
người đọc một cái nhìn toàn cảnh về lễ hội truyền thống như Lễ hội Gióng, lễ hội
thờ Phục Man ở Yên Sở,…. cùng một số tục thờ dân gian cùng một số công trình
kiến trúc tiêu biểu vào thế kỷ XIX là những tư liệu vô cùng quý báu để sau này khi
phục dựng lại chúng ta có một lớp căn cứ cơ bản.
Bộ sách Một con đường tiếp cận di sản văn hóa Việt Nam do Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch cùng với Cục Di sản văn hóa biên soạn từ 2005 – 2012 là tập
hợp các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả trên các tạp chí Di sản văn hóa đã
góp phần giải mã một số hiện tượng văn hóa, tiếp cận di sản dưới nhiều góc độ khác
nhau đã một phần hỗ trợ cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa
dân tộc, nâng cao tầm nhận thức của mỗi cá nhân.

2.3 Nghiên cứu về di tích và lễ hội đền Trần, tỉnh Nam Định
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh, sự phối hợp của các cơ quan trung ương, chính quyền địa hương. Sở
VHTT & DL đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, đề tài nghiên cứu, tọa đàm
nhằm từng bước làm sáng tỏ các giá trị lịch sử văn hóa của các di tích, lễ hội, danh
nhân thời Trần tại Nam Định:
Ngày mùng 8,9/9/1995 Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nam Hà (nay là Nam
Định) tổ chức hội thảo khoa học Thời Trần và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn trên quê hương Nam Hà. Hội thảo có 36 tham luận của các nhà nghiên cứu
trung ương đến các vụ, viện nghiên cứu và địa phương Nam Định. Hội thảo đã có

6


những tham luận nhằm đánh giá vai trò, vị thế của vương triều Trần trong các lĩnh
vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội, đặc biệt là việc nghiên cứu về thân
thế, sự nghiệp, công lao của người anh hùng dân tộc Quốc Công tiết chế Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Định.
Năm 2006 Sở VHTT (nay là Sở VHTT&DL) thực hiện đề tài khoa học cấp
tỉnh Lễ hội và các giải pháp quản lý lễ hội trên địa bàn tỉnh Nam Định nhằm nghiên
cứu, đánh giá giá trị, thực trạng và đề ra các biện pháp tích cực trong việc tổ chức,
quản lý và phát huy các giá trị của lễ hội, trong đó có lễ hội đền Trần tại phường
Lộc Vượng, tp. Nam Định
Ngày 4 tháng 7 năm 2009 được sự đồng ý của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nam
Định và Bộ VHTT & DL, Sở VHTT&DL Nam Định phối hợp với UBND tp. Nam
Định và Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học: Lễ
khai ấn đầu xuân tại đền Trần Nam Định giá trị và giải pháp bảo tồn, phát huy
truyền thống văn hóa dân tộc.
Tháng 9 năm 2011 Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nam Định tổ chức hội thảo khoa
học: Luận cứ khoa học tổ chức kỷ niệm 750 năm Thiên Trường - Nam Định. Hội

thảo đã thu hút sự tham gia của nhiều học giả ở trung ương, các nhà nghiên cứu.
Đây là cơ sở khoa học và pháp lý làm tiền đề đề năm 2012 UBND tỉnh Nam Định
tổ chức lễ kỷ niệm 750 năm Thiên Trường – Nam Định.
Năm 2012 được sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ VHTT &DL, Sở VHTT & DL
Nam Định phối hợp với UBND tp. Nam Định và Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia
Việt Nam tổ chức cuộc hội thảo Mô hình quản lý và tổ chức lễ hội đền Trần, Nam
Định. Từ khi thực hiện đề án được đề ra trong cuộc hội thảo này đến nay lễ khai ấn
đã được tổ chức trang trọng, đảm bảo nghi thức truyền thống và công tác an ninh
trật tự, việc chuẩn bị và phát ấn được chuẩn bị chu đáo, đáp ứng được nhu cầu của
đông đảo du khách, không còn hiện tượng chen lấn, xô đẩy như trước.
Tác giả Hồ Đức Thọ là một nhà nghiên cứu rất tâm huyết với triều Trần bởi
vậy ông có rất nhiều tác phẩm như: Vương phi, công chúa triều Trần; Trần miếu Di sản văn hóa, Trần triều Hưng Đạo Đại vương trong tâm thức người Việt...viết về
công trình kiến trúc của di tích và những vị vua anh minh, những vị danh tướng,
hoàng hậu, công chúa của Trần triều.
7


Nghiên cứu về di tích đền Trần ở Nam Định cũng đã có rất nhiều bài viết
cũng như các cuốn sách của các tác giả như: Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Nam
Định của Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Nam Định biên soạn. Tác phẩm
“Di tích lịch sử văn hóa đền Trần - chùa Tháp tỉnh Nam Định” của tác giả Trịnh
Thị Nga như một cuốn cẩm nang cho du khách khi hành hương tới đền Trần - chùa
Tháp với cái nhìn tổng quan và bao quát nhất về di tích và lễ hội
Luâ ̣n văn “Khu di tích li ̣ch sử văn hóa đề n Trầ n , tỉnh Nam Định” của thạc sỹ
Vũ Đại An năm 2008 là những công trình đã khảo tả mô ̣t cách

chi tiế t các công

trình kiến trúc và lễ hội đền Trần.
Ngoài ra còn có rất nhiều các công trình nghiên cứu khác nhằm tôn vinh giá

trị văn hóa, lịch sử của di tích đền Trần và các nghiên cứu về lễ hội đền Trần.
Như vâ ̣y có thể thấ y các công trình ng hiên cứu về quần thể di tích đền Trần
rất phong phú nên đã góp phần mô tả cũng như phác họa rất rõ nét các l ễ hội và di
tích ở tỉnh Nam Định nói chung và lễ hội đền Trần nói riêng. Qua đó thể hiê ̣n màu
sắc và giá trị độc đáo của các lễ hội ta ̣i Nam Đi nh.
̣
Tuy nhiên trong những năm gần đây với sự phát triển ngày càng rộng về quy
mô của lễ hội đền Trần đã có nhiều bài viết thể hiện quan điểm về lễ hội đền Trần
cũng như phản ánh thực trạng lễ hội đang diễn ra như thế nào dưới cách quản lí của
Nhà nước và địa phương “Hậu duệ nhà Trần: Lá ấn bị hiểu sai” (Báo Tiền Phong),
“Trẩy hội đền Trần và khát vọng xin ấn” (Phạm Thu Hà - Tạp chí Người cao tuổi).
Trước thực trạng đó báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ “Lễ hội và
các giải pháp quản lí lễ hội trên địa bàn tỉnh Nam Định” (Ủy ban nhân dân tỉnh
Nam Định - Sở văn hóa thông tin và du lịch tỉnh Nam Định) năm 2007 và hội thảo
Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đã kết hợp cùng Bộ Văn hoá thể thao và du lịch
cùng Viện văn hóa nghệ thuật tổ chức hội thảo “Lễ khai ấn đầu xuân tại đền Trần
Nam Định, giá trị và giải pháp bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc”
(năm 2009) nhằm đưa ra giải pháp để bảo tồn các giá trị truyền thống vốn có của lễ
hội đền Trần. Có thể nhận thấy rằng báo cáo t ổng hợp đề tài cũng như những hô ̣i
thảo trên chỉ đề cập tới vấn đề quản lý lễ hội , chứ chưa đề cập nhiều tới di tích . Mă ̣t
khác việc quản lý lễ hội được xây dựng từ góc nhìn qu ản lý nhà nước , chưa đề câ ̣p
8


tới vai trò của người dân điạ phư ơng. Trong khi đó làng xã là nơi không gian văn
hóa linh thiêng đó tồn tại và chính người dân địa phương là những người trực tiếp
tham gia vào lễ hô ̣i , thực hiê ̣n những nghi thức cúng tế và đảm nhiê ̣m những vai trò
chính trong quá trình diễn ra lễ hội.
Vì vậy công trình nghiên cứu của chúng tôi đứng dưới góc nhìn của cộng
đồng dân cư với những thành viên trực tiếp tham dự lễ hội và bảo vệ di tích đố i với

quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích và lễ hô ̣i đề n Trầ n, tp. Nam Đinh.
̣

3. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra cái nhìn toàn diện về thực trạng quá trình bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa di tích và lễ hội đền Trần.
Nhận thấy được vai trò của cộng đồng cư dân địa phương cũng như những nhà
quản lí văn hóa của tỉnh trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa.
Thể hiện tầm quan trọng của vai trò nhận thức, tìm hiểu về di sản văn hóa,
tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ để làm đưa nó trở thành biện pháp chính trong
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Qua đó đề xuất một số giải pháp trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa đền Trần, tp. Nam Định nhằm đưa di sản văn hóa này ngày càng thu hút đông
đảo quần chúng, trở thành những giá trị văn hóa tốt đẹp, đưa tín ngưỡng Đức Thánh
Trần trở thành niềm tin tâm linh sâu sắc trong tiềm thức người dân Việt.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vai trò của cộng đồng nhân dân trong quá trình bảo
tồn và phát huy giá trị di tích và lễ hội đền Trần.
Khách thể nghiên cứu: cộng đồng nhân dân trong bao gồm cộng đồng làng
Tức Mặc, cộng đồng cư dân tại phường Lộc Vượng và cộng đồng cư dân tại tp.
Nam Định.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Khu di tích lịch sử văn hóa đền Trần với trọng tâm là
ba ngôi đền chính: đền Cố Trạch, đền Thiên Trường, đền Trùng Hoa tại làng Tức
Mặc, phường Lộc Vượng, tỉnh Nam Định.
Phạm vi thời gian: Số liệu và tài liệu thu thập được từ năm 2001 đến năm 2015.
9


6. Phương pháp nghiên cứu

Để tiến hành đề tài nghiên cứu: “Vai trò của cộng đồng trong quá trình bảo
tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần, tỉnh nam Định” chúng tôi tiến hành
các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu;
phương pháp điều tra định lượng, định tính; phương pháp hồi cố, phương pháp quan
sát và phương pháp liên ngành để tiến hành thu thập thông tin, số liệu, hình ảnh
nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu của luận văn
6.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu: Đối với các nghiên cứu
trong nước và quốc tế thu thập tư liệu trên cơ sở các sách, bài báo chuyên khảo đã
được công bố tự đó phân loại, hệ thống và hình thành hệ thống thư mục các tài liệu
quan trọng nhất trên cơ sở áp dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy
được các đặc điểm chung cũng như các đặc trưng riêng hiện trạng di tích, của cộng
đồng xã hội dẫn đến nghiên cứu vai trò của cộng đồng đối với quá trình bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa.
6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp thu thập
thông tin thực địa cơ bản của đề tài. Phiếu trưng cầu ý kiến xây dựng dựa trên cơ sở
của nội dung nghiên cứu để thu thập thông tin tại địa bàn nghiên cứu. Chúng tôi đã
tiến hành phát 200 bảng hỏi tại địa bàn làng Tức Mặc, một số trường học và một số
phường xã trong tỉnh, du khách đến tham quan tại di tích và lễ hội.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được sử dụng nhằm bổ
sung thêm thông tin định tính cho điều tra định lượng. Các vấn đề không trực tiếp
thu nhận được trong phiếu trưng cầu ý kiến được chúng tôi đưa vào nội dung của
các cuộc phỏng vấn sâu tới các đối tượng có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Cơ
cấu đối tượng được lựa chọn dựa trên cơ sở giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn,
nơi ở sao cho sự phản ánh của thông tin thu được có thể mang tính đại diện cho
tổng thể trong nghiên cứu.
6.4. Phương pháp quan sát: Quan sát kết hợp với phỏng vấn nhanh để tìm
hiểu thực trạng của di tích, nhận thức và nguyện vọng của cộng đồng về các vấn đề
nghiên cứu. Để có thêm cơ sở phục vụ cho những phân tích đánh giá cho nghiên
cứu, tác giả sử dụng phương pháp quan sát trong quá trình đi phỏng vấn bảng hỏi.
10



6.5. Phương pháp liên ngành: Nghiên cứu vai trò của cộng đồng với quá
trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần, tỉnh Nam Định là sự kết
hợp của những kiến thức hiểu biết của nhóm nghiên cứu về nhiều ngành khoa học
khác nhau như văn hóa, kinh tế, xã hội, lịch sử, địa lý,… để giải thích một số vấn đề
liên quan đến nghiên cứu.
7. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu có được chúng tôi mong muốn cung cấp
được một số thông tin cơ bản hữu ích và cần thiết về thực trạng quá trình bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa đền Trần, tỉnh Nam Định (bao gồm di sản văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể) cũng như tìm hiểu về nhận thức, vai trò của cộng đồng đối
với việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa đền Trần.
Từ đó có những tác động tới người dân để họ ngày càng tham gia vào hoạt
động bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, lễ hội đền Trần nói riêng và các di
sản trên cả nước nói chung. Làm cho chính sách xã hội hóa công tác bảo tồn, trùng
tu và phát huy giá trị di tích ngày càng hiệu quả và hữu ích trong quá trình phát triển
của tỉnh Nam Định.
8. Cấu trúc luận văn
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa.
Chương 2: Thực trạng quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, lễ hội
đền Trần.
Chương 3: Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát huy
giá trị di tích, lễ hội đền Trần.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu văn bản
1. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ “Lễ hội và các giải pháp quản lí
lễ hội trên địa bàn tỉnh Nam Định” (2007), Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định
- Sở văn hóa thông tin và du lịch tỉnh Nam Định.
2. Bộ VH – TT (1999): Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc: thực tiễn và giải pháp, văn phòng Bộ VHTT, báo
Văn hóa, tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
3. Bộ văn hóa, Thể thao và du lịch, Cục Di sản văn hóa (2010): Một con đường
tiếp cận di sản văn hóa, tập 5, 6 Nxb Thế giới.
4. Bộ Khoa học và công nghệ - Chương trình KX03/06-10, GS.TS Dương Phú
Hiệp (chủ biên) (2011): Vấn đề phát triển văn hóa và con người Việt Nam
hiện nay, Nxb Hà Nội.
5. Hoàng Chí Bảo (2006): Văn hóa và công nghiệp Việt Nam trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb chính trị
quốc gia.
6. Nguyễn Chí Bền (1998): Từ mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa nghĩ về
chính sách kinh tế trong văn hóa hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 7.
7. Nguyễn Chí Bền (1996): Vấn đề xã hội hóa với việc bảo tồn kho tàng văn
hóa phi vật thể, Tạp chí văn hóa nghệ thuật số 11.
8. Nguyễn Chí Bền - Phan Hồng Giang (2005): Đổi mới và phát triển văn hóa
ở Việt Nam, một số vấn đề lí luận và thực tiễn.
9. Nguyễn Chí Bền (2005): Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: thực tiễn và giải pháp.
10. Trương Quốc Bình (2014), Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, Nxb.
Văn hóa thông tin.
11. Chương triǹ h khoa ho ̣c cấ p Nhà nước KX .09, Nguyễn Chí Bền (Chủ biên )
(2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể ở Thăng Long - Hà
Nội, Nxb Hà Nội.

12



12. Thanh Bình, Thanh Xuân, Hồng Nga (1959): Những bí mật trong nghề buôn
thần bán thánh, Ty Văn hoá Sơn Tây.
13. Nguyễn Thị Phương Chi (2002): Thái ấp - điền trang thời Trần thế kỷ XIIX XIV, Nxb Khoa học xã hội.
14. Phan Đại Doãn (2004): Mấy vấn đề về văn hoá làng xã Việt Nam trong lịch
sử, Nxb Chính trị Quốc gia.
15. Nguyễn Đăng Duy: Văn hóa tâm linh, NXB Văn hoá Thông tin, 2001.
16. Đại Việt sử ký toàn thư (2011), Nxb Khoa học xã hội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ 5 BCHTW khóa VIII,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội 1998.
18. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kì Đổi mới (Đại hội
6,7,8,9), NXB Chính trị quốc gia 2005.
19. Nguyễn Khoa Điềm (2001): Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia.
20. Thuận Hải (2006): Bản sắc văn hóa lễ hội, Nxb Giao thông Vận tải,
21. Đỗ Huy (2002): Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó trong thế
kỉ XX, Nxb Chính trị quốc gia.
22. Nguyễn Hải Kế với Lịch sử và Văn hóa Việt Nam (2014), Nxb Thế giới.
23. Phan Khanh (1992), Bảo tàng di tích lễ hội: Vấn đề bảo vệ di sản văn hóa
dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin.
24. Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Hoàng Trinh (1993): Phương pháp luận về vai
trò của văn hóa trong phát triển, NXB Khoa học xã hội.
25. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín
ngưỡng, Nxb Văn hóa thông tin – Viện văn hóa.
26. Hồ Liên (2007): Một hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.
27. Trịnh Thị Nga (2012), Di tích lịch sử đền Trần, chùa Tháp, tỉnh Nam Định,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
28. Trịnh Thị Nga (số 02 năm 2011), Khai ấn đầu xuân, Tạp chí Du lịch Việt
Nam, tr28-30.

29. Phạm Xuân Nam (2005): Văn hóa vì phát triển, Nxb Khoa học xã hội.
13


30. Phan Ngọc (1999): Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin.
31. Nhiều tác giả (2007): Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt
Nam, Viện văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
32. Nguyễn Ôn Ngọc, Nam Định dư địa chí.
33. Phạm Quỳnh Phương (năm 2000), bài Từ Trần Hưng Đạo đến Đức Thánh
Trần trên Tạp chí Văn học nghệ thuật số 9.
34. Phạm Quỳnh Phương (năm 2006) bài Đức Thánh Trần trong xã hội Việt
Nam đương đại – Tăng quyền và xung đột, sự đa nghĩa của một hiện tượng
văn hóa trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 3, tr.30-40.
35. Nguyễn Hồng Sơn (2002): Quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát
triển xã hội trong quá trình định hướng XHCN ở Việt Nam, Luận án PTSKH
Triết.
36. Đỗ Thị Minh Thúy (2004): Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nm tiên
tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc: thành tựu và kinh nghiệm, Viện Văn
hóa & Nxb VHTT.
37. 39. Tài liệu hội thảo khoa học (năm 2009): “Lễ khai ấn đầu xuân tại đền
Trần Nam Định, giá trị và giải pháp bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa
dân tộc, (Bộ VHTT & DL, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, UBND tỉnh
Nam Định, Sở VHTT & DL tỉnh Nam Định).
38. Trần Thị gia huấn viết năm Thành Thái, mùa xuân năm Ất Tỵ. Bản dịch lưu
tại Bảo tàng tỉnh Nam Định.
39. GS. Hà Văn Tấn (1996): Nguyễn Văn Huyên - Góp phần nghiên cứu văn hóa
Việt Nam, tập 1 - 2, Nxb Khoa học xã hội,.
40. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb
Trẻ.
41. Ngô Đức Thịnh (2008), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, NXB Viện Văn

hóa, Văn hóa thông tin.
42. Thơ văn Lý Trần (1978), Nxb Khoa học xã hội.
43. Viện Sử học (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý Trần, Nxb Khoa học
xã hội.
14


44. Chương trình khoa ho ̣c cấ p Nhà nước KX .09 (2010), Võ Quang Trọng (Chủ
biên), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Thăng Long –
Hà Nội, Nxb Hà Nội.
45. Viê ̣n văn hóa nghê ̣ thuâ ̣t Viê ̣t Nam

(2012), Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ

truyề n trong xã hội Viê ̣t Nam đương đại

(trường hợp hội Gióng ), Nxb Văn

hóa thông tin.
46. Hoàng Vinh (1997): Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa
dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Khiếu Năng Tĩnh, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược hiện đang lưu giữ
tại Bảo tàng tỉnh Nam Định.
II. Tài liệu mạng
48. Ngô Đức Thịnh, bài Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và
vốn



hội


cho

phát

triển

trên

Tạp

chí

cộng

sản,

link:

/>
15



×