VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Đoàn Thanh Trung
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH THẠNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Đoàn Thanh Trung
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH THẠNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN KHẮC BÌNH
HÀ NỘI - 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC .............................................8
1.1. Một số khái niệm cơ bản ...................................................................................... 8
1.2. Một số quan điểm về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ........................................................................................................................... 12
1.3. Những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ........................................................................................................................... 20
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ...............................................................................................................28
2.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội của quận Bình Thạnh ............................................... 28
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ........... 37
2.3. Đánh giá thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chức quận Bình
Thạnh ......................................................................................................................... 57
Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ...............................................................................................................64
3.1. Quan điểm .......................................................................................................... 64
3.2. Mục tiêu ............................................................................................................. 64
3.3. Những giải pháp thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
quận Bình Thạnh ....................................................................................................... 68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCC
: Cán bộ, công chức
ĐTBD
: Đào tạo, bồi dưỡng
HĐND
: Hội đồng nhân dân
LLCT
: Lý luận chính trị
QLHCNN
: Quản lý hành chính nhà nước
QLNN
: Quản lý nhà nước
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu CBCC theo trình độ chuyên môn
Bảng 2.2. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu giới tính CBCC
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu CBCC theo độ tuổi
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu CBCC theo trình độ lý luận chính trị
Bảng 2.5. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu CBCC về trình độ tin học
Bảng 2.6. Bảng tổng hợp tỷ lệ cơ cấu CBCC về trình độ ngoại ngữ
Bảng 2.7. Từ năm 2015 - 2017, CBCC đã tham gia các lớp ĐTBD
Bảng 2.8. Đánh giá của CBCC về các khóa ĐTBD CBCC đã tham dự
Bảng 2.9. Khó khăn mà CBCC các cơ quan, đơn vị thuộc quận gặp khi tham
gia các khóa ĐTBD
Bảng 2.10. Đánh giá tác động của các khóa ĐTBD CBCC các cơ quan, đơn vị
thuộc quận đến chuyển biến năng lực thực thi công vụ
Bảng 2.11. Nhu cầu tham gia các khóa ĐTBD CBCC trong các cơ quan, đơn
vị thuộc quận trong thời gian tới
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từng bước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII tiếp tục đề ra định hướng hội nhập quốc tế
trong bối cảnh mới; Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XII) khẳng định tầm quan trọng trong thực hiện có hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong
bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Bối
cảnh trong nước và quốc tế cùng với yêu cầu nâng cao hiệu quả của hội nhập
kinh tế đặt ra những yêu cầu mới đối với đội ngũ CBCC từ trung ương đến
địa phương. CBCC có vai trò quan trọng trong hoạt động công vụ, trong xây
dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước; xây dựng đội ngũ CBCC vững vàng về
lập trường, vì nước, vì dân, gương mẫu về đạo đức, có trí tuệ, kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là chủ trương và chính sách lớn trong nội dung công tác cán
bộ của Đảng, Nhà nước ta.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã trải qua hơn 30 năm với sự nỗ lực vượt
bậc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo sự thay đổi cơ bản và toàn diện,
làm cho thế và lực, uy tín của nước ta càng tăng trên trường quốc tế. Có thể
khẳng định hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói riêng, toàn
bộ hệ thống chính trị nói chung được quyết định bởi phẩm chất, năng lực
công tác của đội ngũ CBCC. Do đó, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC cả về năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng trong giai đoạn hiện nay trở thành khâu then chốt và cấp thiết.
1
Qua quá trình phát triển, đội ngũ CBCC đã có những bước phát triển về
cả số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, số lượng CBCC có đầy đủ năng lực,
trình độ chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, tin học và kinh nghiệm thực tiễn để
tham gia hiệu quả, trực tiếp vào quản lý nhà nước còn chưa nhiều, một bộ
phận không nhỏ đội ngũ CBCC chưa được ĐTBD một cách hệ thống, chuyên
nghiệp về các kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiếu kinh nghiệm thực tiễn. Bên
cạnh những hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực mình phụ trách, việc bổ sung thêm
kiến thức, kỹ năng cơ bản về các ngành, các lĩnh vực khác cho CBCC là điều
rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội
ngũ CBCC có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có kiến thức và
năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân, có nhân cách
và lối sống trong sáng, mẫu mực, hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ được
giao; có ý thức tổ chức kỷ luật cao thông qua các hình thức ĐTBD phù hợp,
hiệu quả, gắn ĐTBD với quy hoạch và theo nhu cầu thực tế của tổ chức là
một trong những nhiệm vụ quan trọng đã được Đảng, Nhà nước ta xác định
trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 2020 và liên tiếp được khẳng định qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đây còn là
một trong những nội dung quan trọng của công tác cải cách hành chính, nhằm
xây dựng đội ngũ CBCC phù hợp với yêu cầu của nền hành chính dân chủ,
hiện đại; là khâu có tính chất quyết định trong công tác cán bộ nhằm nâng cao
trình độ quản lý, năng lực điều hành, phẩm chất đạo đức của đội ngũ CBCC.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh, đội ngũ CBCC đã từng bước
trưởng thành hơn. Tuy nhiên, CBCC quận do được hình thành từ nhiều
nguồn, trưởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo cơ bản,
thiếu vốn kiến thức chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị. Vì vậy, trong
nhận thức và chỉ đạo thực tiễn, một số CBCC mắc phải bệnh kinh nghiệm,
2
điều hành công tác lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý công việc một cách máy
móc, kém hiệu quả. Từ thực tế trên đòi hỏi đội ngũ CBCC quận Bình Thạnh
phải không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.
Với những ý nghĩa đó, đề tài luận văn “Thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng CBCC từ thực tiễn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí
Minh” là đề tài có tính cấp thiết, có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhất là
đối với quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng việc thực hiện
chính sách ĐTBD đội ngũ CBCC, đánh giá những kết quả đạt được và hạn
chế cần khắc phục trong công tác ĐTBD tại quận Bình Thạnh. Từ một số đề
xuất nhằm hoàn thiện thêm trong quá trình thực hiện chính sách đối với công
tác ĐTBD CBCC quận Bình Thạnh nhằm tạo ra đội ngũ CBCC của quận có
đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên đề tài
Trong thời gian qua có rất nhiều công trình nghiên cứu, đề tài của các
tác giả về công tác ĐTBD CBCC như:
Nguyễn Thị La, ĐTBD CBCC trong quá trình cải cách hành chính,
Trang thông tin điện tử Tạp chí Cộng sản www.tapchicongsan.org.vn ngày
04/9/2015. Tác giả khẳng định để xây dựng được đội ngũ CBCCVC có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao,
tận tụy phục vụ nhân dân, bên cạnh các khía cạnh khác nhau của công tác tổ
chức cán bộ còn cần phải có các hình thức ĐTBD phù hợp, hiệu quả. Tác giả
phân tích một số hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng; đào tạo chưa gắn
kết chặt chẽ với bố trí, sử dụng… Tác giả đề xuất hướng đổi mới, nâng cao
chất lượng ĐTBD trên nhiều phương diện.
Phạm Cao Việt Linh (2007), Hoàn thiện QLNN về công tác ĐTBD
CBCC hành chính ở thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, luận
3
văn Thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện hành chính Quốc gia. Trên cơ
sở khái quát chung một số lý luận về QLNN về ĐTBD CBCC hành chính, tác
giả phân tích sâu về thực trạng, bất cập, hạn chế trong QLNN về ĐTBD
CBCC hành chính tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và đưa ra các nhóm giải
pháp nâng cao hiệu quả QLNN về ĐTBD CBCC hành chính trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Hoàn Hải (2012), Nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC - từ
thực tiễn tỉnh Hậu Giang, luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện
Hành chính Quốc gia. Tác giả của luận văn đã khái quát lý luận chung về
nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng ĐTBD CBCC. Trên cơ sở lý luận, tác giả phân tích, đánh giá thực trạng
công tác ĐTBD CBCC tại tỉnh Hậu Giang làm cơ sở đề xuất 8 giải pháp nâng
cao chất lượng ĐTBD CBCC tại tỉnh này.
Nguyễn Thị Huyền (2012), ĐTBD công chức các cơ quan hành chính
nhà nước cấp tỉnh (từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông), luận văn Thạc sĩ quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả phân tích, đánh giá thực
trạng ĐTBD công chức tỉnh Đăk Nông trên một số khía cạnh về xây dựng thể
chế về ĐTBD gồm các quy định của Nhà nước về ĐTBD, các biện pháp triển
khai thực hiện quy định của Nhà nước, chính sách của địa phương. Từ đó, đề
xuất ba nhóm giải pháp đối với cơ quan QLNN; cơ sở đào tạo và với công
chức nhằm góp phần nâng cao chất lượng QLNN về ĐTBD tại địa phương.
Nguyễn Tuấn Anh (2013), ĐTBD công chức ngành hải quan từ thực
tiễn tại Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh, luận văn Thạc sĩ quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả hệ thống một số lý luận
chung về ĐTBD công chức ngành hải quan; kinh nghiệm của một số nước về
ĐTBD công chức (Pháp, Nhật bản, Singapore). Tác giả phân tích, đánh giá
thực trạng ĐTBD công chức ngành hải quan tại Cục Hải quan thành phố Hồ
4
Chí Minh về chương trình, giáo trình; tổ chức, phương thức ĐTBD; đội ngũ
giảng viên để đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng ĐTBD như: hoàn
thiện hệ thống văn bản; tổ chức bộ máy ĐTBD; hệ thống chương trình, giáo
trình, tài liệu ĐTBD; chú trọng đánh giá sau ĐTBD.
Nguyễn Vũ Lâm (2015), Nâng cao chất lượng ĐTBD đội ngũ công
chức Sở Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh, luận văn Thạc sĩ quản lý
hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giá phân tích thực trạng
ĐTBD công chức tại Sở Giao thông vận tải qua công tác xác định nhu cầu
ĐTBD, xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, đánh giá kết quả ĐTBD và đề
xuất 8 giải pháp về nhận thức, quan tâm thực hiện xác định nhu cầu ĐTBD,
xây dựng và thực hiện kế hoạch trên cơ sở vị trí việc làm, nhu cầu thực tiễn
tại đơn vị, chế độ chính sách hỗ trợ, đổi mới chương trình ĐTBD, xây dựng
đội ngũ giảng viên … nhằm góp phần nâng cao chất lượng ĐTBD tại Sở Giao
thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra cũng có nhiều công trình nghiên cứu, những đề tài đã tập
trung nghiên cứu về CBCC và công tác ĐTBD CBCC ở nhiều góc độ khác
nhau. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, đề tài đã đưa ra một số giải
pháp nâng cao hiệu quả ĐTBD CBCC và khẳng định vai trò to lớn của đội
ngũ CBCC và tầm quan trọng của công tác ĐTBD CBCC. Các công trình
nghiên cứu đã tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau từ phương diện lý luận, pháp
lý, thực tiễn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nội dung về công tác ĐTBD CBCC
cấp quận, huyện cần nghiên cứu từ thực tiễn vùng, miền; khả năng, điều kiện
của mỗi địa phương để áp dụng thực hiện chính sách ĐTBD CBCC hợp lý,
đưa ra những giải pháp phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD CBCC và đánh giá
5
thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của quận Bình Thạnh để đề
xuất các giải pháp tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC trong những
năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Xác lập cơ sở lý luận về thực hiện chính ĐTBD CBCC.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCC trên địa bàn
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây.
- Đề xuất các giải pháp tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC từ
của quận Bình Thạnh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCC quận Bình Thạnh, thành
phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2015 - 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp
với nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế với cách tiếp cận liên ngành,
đa ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập
phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài
nghiên cứu, các bài viết, các văn kiện, tài liệu, nghị quyết Đảng, nghị định,
thông tư của Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương để làm rõ
6
những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD CBCC.
Đề tài vận dụng phương pháp thống kê, thu thập số liệu từ các báo cáo,
tài liệu thống kê của chính quyền cấp quận, Trung tâm bồi dưỡng Chính trị;
kết hợp với phương pháp khái quát thực tiễn, phân tích định tính, suy luận
logic, diễn giải nhằm phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC quận Bình Thạnh trong những năm gần đây; từ đó, đưa ra định hướng,
quan điểm, giải pháp cho chính sách ĐTBD CBCC quận Bình Thạnh trong
những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận của tổ chức thực hiện
chính sách ĐTBD CBCC.
Ý nghĩa thực tiễn:
Trong Luận văn đã đánh giá thực trạng thực hiện chính ĐTBD CBCC
trên địa bàn quận ở Thành phố Hồ Chí Minh; chỉ ra những ưu điểm và bất cập
trong việc thực hiện chính sách trên để từ đó đề xuất một số giải pháp tổ chức
thực hiện chính sách ĐTBD CBCC cho phù hợp với bối cảnh mới của đất
nước và Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Cơ cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Luận văn được bố cục như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCC quận Bình
Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCC quận Bình
Thạnh, TP. Hồ Chí Minh.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chính sách
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ
thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế mà đề ra”.[32]
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một
thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”[29]
Theo Vũ Cam Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể
chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo
sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của
họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển
của một hệ thống xã hội”.[17]
Như vậy, phân tích khái niệm “chính sách” đã cho thấy có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;
- Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế;
- Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất
định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành
đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.
1.1.2. Khái niệm về chính sách công
8
Trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công.
Tuy nhiên, Birkland (2005) đã giúp thu thập và tổng hợp những quan điểm
phổ biến về chính sách công, theo ông, có 3 cách hiểu cơ bản:
- “Chính sách công nhằm chỉ các hành động của chính phủ và các mục
tiêu cân nhắc các hành động này (Clarke E. Cochran và một số tác giả khác).
- “Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị đối với các
chương trình đang thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu xã hội” (Charles L.
Cochran và Eloise T. Malone).
- “Chính sách công là toàn bộ hoạt động của chính phủ, bất kể là hoạt
động trực tiếp hay thông qua các tổ chức nhà nước, có ảnh hưởng đến công
dân” (B. Guy Peters).
Có một định nghĩa gần đây cũng được thế giới chấp nhận một cách
rộng rãi. Đó là định nghĩa của William Jenkin, theo ông, “Chính sách công là
một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay
một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải
pháp để đạt được các mục tiêu đó”.[35]
Còn ở Việt Nam, tác giả Lê Chi Mai của Học viện Hành chính quốc gia
có một số đúc kết quan trọng về nội hàm của chính sách công [31]. Đó là:
+ Nhà nước chính là chủ thể ban hành chính sách công. Nhà nước ở
đây được hiểu là bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp.
+ Chính sách công là những quyết định hành động, thể hiện dự định
của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó và những hành vi thực
hiện các dự định đó.
+ Mục đích của chính sách công là giải quyết một vấn đề đang đặt ra
trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định.
Kế thừa những tư duy và đúc kết của các nhà nghiên cứu đi trước, tác
giả Đỗ Phú Hải của Học viện Khoa học xã hội đã đưa ra một khái niệm về
9
chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định
chính trị có tính gắn kết của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp
thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định”.
Như vậy, mỗi khái niệm có một cách tiếp cận khác nhau, tuy nhiên, nội
hàm của chúng có một số điểm chung, cụ thể:
+ Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước;
+ Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau;
+ Chính sách công có mục tiêu, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn
đề xã hội nhằm hướng tới một mục tiêu chung.
Chính sách công có các thuộc tính căn bản như: tính nhà nước, tính
công cộng, tính hành động thực tiễn, tính hệ thống, tính kế thừa lịch sử và gắn
với một quốc gia cụ thể với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
nhất định.
1.1.3. Khái niệm về đào tạo
Có nhiều cách định nghĩa về đào tạo.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam của Viện Từ điển học và
Bách khoa thư Việt Nam thì “đào tạo là quá trình tác động đến một con
người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo… một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc
sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần vào
việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người” [61].
Đào tạo còn được hiểu là quá trình giáo dục, thực hiện những nhiệm vụ của
giáo dục quốc dân (đào tạo các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau
đại học) [60].
Tại Điều 5 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính
phủ về ĐTBD công chức giải thích: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp
10
nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc
học” [13]. Đào tạo giúp CBCC tiếp thu, lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng
mới để đạt trình độ cao hơn trình độ trước đó.
Như vậy, đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho
người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một
cách có hệ thống; là quá trình làm cho người ta có năng lực đáp ứng theo
những tiêu chuẩn, đòi hỏi nhất định, trang bị kiến thức, kỹ năng giúp họ có
khả năng làm việc, nhận một sự phân công lao động nhất định.
1.1.4. Khái niệm về bồi dưỡng
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về công
tác ĐTBD công chức giải thích: “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật,
nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [13]. Khái niệm bồi dưỡng được dùng
với nghĩa là cập nhật, bổ sung thêm một số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng
cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản, cung cấp thêm những kiến thức
chuyên ngành, mang tính ứng dụng. Có thể nói bồi dưỡng là một hoạt động
thường được tiến hành sau hoạt động đào tạo cho cá nhân, để bổ sung, cập
nhật thêm kiến thức chuyên môn, một số kiến thức mới cần được trang bị
trong thời gian ngắn hạn trên nền tảng kiến thức đã được đào tạo.
Như vậy, ĐTBD được thực hiện nhằm tạo điều kiện cho người ta học
tập, để chỉ một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức, kỹ năng
thông qua việc học tập nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình thông
qua tăng cường năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản là con
người, làm họ có thể làm việc tốt hơn, cho phép họ sử dụng tốt hơn các khả
năng, tiềm năng vốn có của họ. Về mặt thời gian, đào tạo có thời gian thực
hiện dài hơn, thông thường là từ hai năm trở lên, bồi dưỡng có thời gian thực
hiện ngắn hơn, thông thường là từ vài ngày đến vài tuần. Về cơ bản, đào tạo
được xem là một quá trình làm cho người ta “trở thành người có năng lực
11
theo những tiêu chuẩn nhất định”; bồi dưỡng được xác định là quá trình làm
cho người ta “tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Nhìn chung, cả đào tạo
và bồi dưỡng đều là quá trình làm cho người ta thông qua học tập, rèn luyện
trau dồi, bổ sung nâng cao năng lực của bản thân để họ làm việc tốt hơn, hiệu
quả hơn giúp họ phát huy tối đa năng lực của bản thân đáp ứng nhu cầu của
bản thân và yêu cầu của tổ chức [7].
1.2. Một số quan điểm về thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐTBD CBCC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐTBD, trọng dụng nhân tài được tìm thấy ở
trong những tác phẩm lớn của Người: Đường Kách mệnh (1927), Tìm người
tài đức (1946), Sửa đổi lối làm việc (1947), Đào tạo cách mạng (1958), Nâng
cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969) … Đặc biệt, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, đào tạo cán bộ thể hiện
ngay trong việc làm, tính gương mẫu, tấm gương đạo đức, cách đối nhân xử
thế của Người. Tư tưởng về vấn đề cán bộ, công tác cán bộ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh bằng lý luận và hoạt động thực tiễn đã hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ và trọng dụng
nhân tài, bao hàm cả việc khai thác, phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ và
trọng dụng nhân tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
[30, tr. 269], “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[30, tr. 240], việc “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [30, tr.
269], nội dung huấn luyện cần tập trung “Huấn luyện nghề nghiệp, huấn
luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận. Học lý luận, phải
nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế” [35]. Người cho rằng cán
bộ là vốn của Đảng, có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu
12
có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc,
tức là lỗ vốn; “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời cán bộ là người
đem tình hình của dân chúng báo cáo lại cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng” [30, tr. 269]. Thực tế, mọi chủ trương, đường lối
của Đảng và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu, đề xuất, đồng thời, do cán
bộ tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. “Đảng ta tổ chức trường học lý
luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết
sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng
ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách
mạng vĩ đại của mình” [31, tr. 492]. Do đó, cần phải dạy bảo lý luận cho cán
bộ, “Lý luận phải đi đôi với thực tiễn” tức là “Lý luận phải liên hệ với thực
tế” [32, tr. 292]. Xác định cán bộ là gốc của mọi công việc, để thực hiện tốt
nhiệm vụ, cán bộ phải làm cho dân tin tưởng, nể phục và yêu quý. Bởi người
cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý mà nhân dân không tin tưởng, nể
phục là cán bộ không có phẩm chất lãnh đạo, không có uy tín công vụ.
Người nhấn mạnh đến trách nhiệm của Đảng đối với ĐTBD cán bộ,
phải được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả: “Nếu cán bộ là cái gốc của mọi
công việc thì huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Đó là việc mà
Đảng phải bỏ nhiều công sức, phải được tiến hành chu đáo, công phu, Đảng
phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cái cây quý báu”
[30, tr. 269]. Muốn trồng cái gốc của mọi công việc một cách vững chắc, tức
cán bộ thì nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện cán bộ phải thực hiện thật tốt, hiệu
quả. Đây chính là một trong những vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về đào tạo, huấn luyện cán bộ. Phải tuyển chọn đúng người, đúng việc, kịp
thời phát hiện nhân tài để đưa ĐTBD cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản
13
lý để bảo đảm “gốc rễ” thật vững chắc; phải hướng cho cán bộ vào một nội
dung chính trị đúng đắn và nội dung chuyên môn sâu sắc.
Vấn đề đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài là yếu tố cơ bản để phát
triển trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, dẫn đến sự chấn hưng đất
nước. Sinh thời, Hồ Chí Minh rất ít dùng thuật ngữ “phương pháp” mà thuật
ngữ Người dùng là “cách” như “cách quản lý”, “cách dùng người”. Hồ Chí
Minh nhiều lần nói cái quý nhất là việc làm tích cực của mỗi cá nhân, tổ chức.
Giá trị đích thực của mỗi tổ chức, mỗi con người là ở việc làm chứ không
phải lời nói. Trong công tác cán bộ và trọng dụng nhân tài, thông thường,
người ta thường xét cả về quá khứ, hiện tại, tương lai. Theo Người, cái quan
trọng nhất là hiện tại, còn cái quá khứ chỉ để tham khảo. Người lãnh đạo
không nên định kiến với cái quá khứ mà nên xét thực chất cái hiện tại. Có
nhìn thấu hiện tại mới có thể đoán định được tương lai của người cán bộ đó,
xem có thể bố trí được công việc gì phù hợp.
Về phương pháp, cách thức ĐTBD CBCC, Hồ Chí Minh coi ĐTBD,
huấn luyện cán bộ là việc làm rất quan trọng, là “công việc gốc của Đảng”,
phải được tiến hành thường xuyên. Phải xác định rõ mục tiêu ĐTBD cán bộ
với các yếu tố cơ bản: học thức, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực
công tác. Nhưng tùy từng giai đoạn cách mạng, tùy vào tình hình cụ thể mà
Người đặt ra mục đích, nhiệm vụ ĐTBD cán bộ. Đầu tư cho công tác ĐTBD
cán bộ phải có kinh phí tương xứng với yêu cầu, không nên bủn xỉn về các
khoản chi tiêu trong việc huấn luyện.
Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy các lớp ĐTBD cán bộ
Đảng, việc giảng dạy cũng cần phải chú ý đến người thực hiện công tác này:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ
trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy.
Nội dung ĐTBD cán bộ phải thiết thực, cơ bản và toàn diện. Thời gian đào
14
tạo dài hay ngắn, số lượng cán bộ nhiều hay ít, phải xuất phát từ tình hình
thực tế, từ yêu cầu sử dụng cán bộ mà định ra thời gian, nội dung chương
trình, sắp xếp cán bộ giảng dạy các lớp ĐTBD cán bộ.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có gan
phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc, có thế Đảng mới thành công. Nếu
đào tạo một mớ cán bộ, nhát gan, dễ bảo, đập đi, hô đứng, không dám phụ
trách, như thế là việc thất bại cho Đảng, “Khi đã giao việc cho cán bộ phải để
cho cán bộ có quyền tùy cơ ứng biến mới có thể phát huy tài năng của họ,
không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác”. Vận dụng quan điểm nêu
trên của Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ, chúng ta sẽ khắc phục những sai
lầm cơ bản trong đào tạo, sử dụng cán bộ và trọng dụng nhân tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐTBD đội ngũ cán bộ được áp dụng trong
thời kỳ mới sẽ là những nội dung cơ bản để cụ thể hóa những chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước đang tạo ra động lực to lớn trong ĐTBD
nhằm phát triển đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về ĐTBD CBCC
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các
cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có
trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân
dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ
trương và chính sách lớn trong nội dung công tác cán bộ của Đảng và Nhà
nước ta.
Nghị quyết số 225-NQ/TW ngày 20/02/1973 của Bộ Chính trị khóa III
về công tác cán bộ trong giai đoạn mới nhận định: “Từ trước đến nay, Đảng
ta vẫn coi công tác cán bộ là một trong những vấn đề có tầm quan trọng
quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Đảng đã từng bước xây
15
dựng đội ngũ cán bộ gắn liền với phong trào quần chúng và việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của Đảng”. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng đều chú
trọng ĐTBD cán bộ, phát triển và phân bố lực lượng cán bộ phù hợp với yêu
cầu của nhiệm vụ chính trị. Nghị quyết cũng khẳng định nhiệm vụ công tác
cán bộ là chú trọng lựa chọn, đào tạo những cá nhân ưu tú từ công nhân,
nông dân và nêu vấn đề mới “Đảng và Nhà nước ta cần chăm lo bồi dưỡng và
phát triển đội ngũ trí thức của chủ nghĩa xã hội, của giai cấp công nhân, tạo
điều kiện thuận lợi cho người trí thức phát huy tài năng, phục vụ được nhiều
nhất cho Tổ Quốc”. Điểm nhấn của Nghị quyết là đẩy mạnh giáo dục, bồi
dưỡng cán bộ; mở rộng sinh hoạt dân chủ để tìm ra cán bộ tốt; nâng cao chất
lượng giảng dạy ở các trường đào tạo cán bộ, nhất là các trường đảng; chú
trọng phát hiện các tài năng và sử dụng tốt những tài năng đó. Sau khi Nghị
quyết này ra đời, Đảng và Nhà nước đã cử nhiều cán bộ trẻ, có năng lực được
đi đào tạo tại Liên Xô, Đức, Tiệp Khắc, Bungari, Ba Lan… Nhiều người học
xong, về nước đã phát huy tốt năng lực trở thành những chuyên gia, nhà khoa
học, lãnh đạo…
Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 29/6/1992 Hội nghị Trung ương 3
khóa VII của Đảng về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng nhấn
mạnh việc rà soát, sắp xếp, điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, bố trí cán
bộ theo nguyên tắc “vì việc đặt người”, “có lên có xuống”, “Trả lương thích
đáng cho những chuyên gia giỏi, những người thực sự có tài, công tác có hiệu
quả, tạo ra bầu không khí thi đua trong cán bộ”.
Tháng 6/1996, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp
tục khẳng định những quan điểm đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội VII
và nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, kỹ năng hành vi ứng xử
nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ về chính trị, vừa có đạo đức liêm khiết khi thi
hành công vụ được coi là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, của chính quyền
16
nhằm đáp ứng ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước ta trong thời ký
đổi mới”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ đã
đề ra phương hướng chung của công tác ĐTBD cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “ĐTBD cán bộ toàn diện cả về lý luận
chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn.
Quan tâm ĐTBD cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp
và các chuyên gia, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính
trị; coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Việc học tập của cán bộ phải được
quy định thành chế độ và phải được thực hiện nghiêm ngặt. Mọi cán bộ phải
thường xuyên nâng cao trình độ mọi mặt…”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về nâng cao chất lượng
công tác ĐTBD CBCC đã nêu: “Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế CBCC,
coi trọng cả năng lực và đạo đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong
thi tuyển CBCC. ĐTBD CBCC, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý,
về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà
nước. Sắp xếp lại đội ngũ CBCC theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ
kiểm tra, đánh giá chất lượng CBCC, kịp thời thay thế những CBCC yếu kém
và thoái hóa. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách ĐTBD đãi
ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đã nêu:
“Đẩy mạnh ĐTBD CBCC với chương trình, nội dung sát hợp, chú trọng đội
ngũ cán bộ xã, phường. Đổi mới và đưa vào nền nếp việc thực hiện quy chế
tuyển chọn, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu. Thực hiện nguyên tắc
người phụ trách công việc có quyền hạn và trách nhiệm trong việc tuyển
chọn, sử dụng CBCC dưới quyền…”.
17
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh:
“Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”,
“Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp chiến
lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính
trị…”, “Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch,
ĐTBD, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán
bộ…”, “Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân
tài…”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nêu: “Đảng tập trung lãnh đạo về
đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách cụ
thể. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, qui định rõ trách nhiệm, thẩm
quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất
chính trị vững vàng, có trình độ năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu
cầu của giai đoạn mới”.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đặt vấn đề: “Trọng dụng người có đức,
có tài. Nâng cao chất lượng công tác ĐTBD cán bộ. Đánh giá và sử dụng
đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được quy định, lấy
hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu” và
khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện
tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi
mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác
cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách phát hiện,
tuyển chọn, ĐTBD cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài”. “Xây
dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn,
ĐTBD cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng
công tác ĐTBD cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt
18
công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu
số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.
Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã
được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của
nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ
tài, cơ hội chủ nghĩa”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng cũng chỉ rõ nhiệm vụ “tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ”. Phát hiện kịp thời các nhân tố mới, có triển
vọng, bồi dưỡng và đào tạo hợp lý, không để lãng phí cán bộ, không để chảy
máu chất xám, sao cho ngày càng có nhiều cán bộ chiến lược tốt, cán bộ chiến
lược giỏi, trung thực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có bản lĩnh
sáng tạo, đổi mới, bứt phá để phát triển. Cải cách căn bản chính sách tiền
lương, bảo đảm đãi ngộ xứng đáng với cống hiến của mỗi người, tạo cơ hội,
môi trường, điều kiện cho cán bộ phát triển.
Đảng ta thực hiện đúng đắn nguyên tắc thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán
bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ. Đánh giá, bồi
dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác
thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Đổi mới, trẻ hóa
đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục,
kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và
quản lý. Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm
chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTBD CBCC.
Nói tóm lại, Đảng ta vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề cán bộ, trong đó có ĐTBD, thu hút nhân tài thể hiện ở nhiều văn bản của
19
Đảng và Nhà nước trong nhiều giai đoạn khác nhau trên thực tế đã thu được
một số kết quả. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề xoay quanh công tác cán bộ vẫn
chưa được giải quyết hiệu quả, nhất là vấn đề khai thác, phát hiện, ĐTBD, sử
dụng cán bộ chưa làm được bao nhiêu. Đặc biệt, vấn đề trọng dụng nhân tài
hầu như chưa có giải pháp hữu hiệu [60].
1.3. Những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
1.3.1. Mục tiêu của thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
Theo Điều 2 Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/8/2003 của Thủ
tướng Chính phủ, mục tiêu của ĐTBD là trang bị kiến thức về lý luận chính
trị; kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước; chuyên môn nghiệp vụ; kiến thức
ngoại ngữ, tin học và các kiến thức bổ trợ khác nhằm xây dựng đội ngũ công
chức thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả
của bộ máy Nhà nước, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo Điều 2 Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính
phủ, mục tiêu ĐTBD công chức nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, phương
pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ cho công chức; Góp phần xây dựng đội
ngũ công chức chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên
tiến, hiện đại.
Như vậy, mục tiêu của ĐTBD CBCC là trang bị kiến thức, kỹ năng,
phương pháp thực hiện nhiệm vụ cả về kiến thức chuyên môn, lý luận chính
trị, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học … góp phần xây dựng đội ngũ
CBCC chuyên nghiệp có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện
đại.
1.3.2. Nội dung thực hiện chính sách ĐTBD CBCC
20