Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

DÙNG TIÊU HUYẾT KHỐI CHO BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.85 KB, 37 trang )

1 DÙNG TIÊU HUYẾT KHỐI CHO BỆNH NHÂN ĐỘT
QUỴ:
- CUỘC TRANH CÃI LỚN CỦA Y HỌC CẤP
CỨU!

-

Chắc chắn là cuộc tranh cãi lớn nhất trong y học cấp cứu.
Các bằng chứng cho (hoặc chống) dùng tiêu huyết khối rất quan
trọng vì nó còn rất nhiều tranh cãi. Bạn hãy theo dõi những lập
luận của cả hai bên. Vậy bệnh nhân của bạn sẽ như thế nào? Hãy
theo dõi các nghiên cứu, điểm mạnh và yếu của chúng, bạn sẽ có
thể tự quyết định xem bằng chứng nào thực sự cho thấy và hướng
dẫn bạn quyết định tốt nhất cho bệnh nhân của bạn


-

Trước tiên, tôi xem lại các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đang
cân nhắc dùng tiêu huyết khối cho đột quỵ. Tiếp theo là một cuộc
thảo luận về những điều tôi nghĩ là rất quan trọng. (Rất nhiều người
có thể muốn bỏ qua phần thảo luận này)


Các nghiên cứu RCT (thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên) chính
Đây là các RCT chính theo thứ tự thời gian.
MAST-Italy
Multicentre

Acute



Stroke

Trial–Italy

(MAST-I)

Group.Randomised controlled trial of streptokinase, aspirin,
and combination of both in treatment of acute ischaemic
stroke. Lancet (London, England). 1995; 346(8989):1509-14.
PMID: 7491044
/>Đây là thử nghiệm ngẫu nhiên, đa trung tâm, mở và kiểm soát
-

Bệnh nhân: 622 bệnh nhân đột quỵ người lớn trong vòng 6h khởi
phát triệu chứng (Tổng cộng có 14.083 người được sàng lọc xác

-

định 622).
Can thiệp: streptokinase 1,5 triệu đơn vị trong vòng 1 giờ. (có

-

aspirin và không có aspirin)
So sánh với số bệnh nhân không điều trị

Kết quả gần: Tử vong và tàn tật (thang điểm Rankin thay đổi 3-6)
trong 6 tháng.


Các kết quả
-

Nghiên cứu đã bị đình chỉ sớm vì có dấu hiệu nguy hiểm. Kích

-

thước mẫu ban đầu là 1500.
Không có sự khác biệt về tử vong và tàn tật trong 6 tháng (63% với

-

streptokinase, 65% ở nhóm chứng, hoặc 0,9; KTC 95% 0,7-1,3).
Di chứng (mRs 3-5) sau 6 tháng giảm (27% so với 40%, OR 0.5,

-

KTC 95% 0.4-0.8).
Các tác dụng phụ khác: 1 trường hợp sốc phản vệ, 1 bệnh nhân
xuất huyết trầm trọng (không phải xuất huyết nội sọ) cần phải


truyền máu

Bình luận
-

Đây là một thử nghiệm mở. Điều này vô cùng quan trọng, vì điểm

-


Rankin sửa đổi là chủ quan, và không hoàn hảo.
Thử nghiệm này dường như là cơ sở cho ý tưởng rằng các thuốc
tiêu huyết khối sẽ giết chết hoặc cứu được bạn, nhưng tôi không
nghĩ rằng khẳng đinh này được hỗ trợ tốt bằng số liệu trong nghiên
cứu

Nghiên cứu ECASS
Hacke W, Kaste M, Fieschi C. Intravenous thrombolysis with recombinant
tissue plasminogen activator for acute hemispheric stroke. The European
Cooperative Acute Stroke Study (ECASS). JAMA. 1995; 274(13):101725. PMID: 7563451
/>

Đây là thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, đa trung tâm, mù đôi, giả
dược
-

Bệnh nhân: 620 bệnh nhân người lớn (18-80 tuổi) đột quỵ từ trung
bình đến nặng, không có thay đổi lớn trên CT trong vòng 6h kể từ

-

khi khởi phát triệu chứng
Can thiệp: rt-PA 1,1mg
So sánh: giả dược
Kết quả gần: Sự khác biệt là 15 điểm trên chỉ số Barthel ở thời
điểm 90 ngày và điểm khác biệt 1 điểm trên thang điểm Rankin
sửa đổi ngày thứ 90 giữa 2 nhóm (không cải thiện như chúng ta
thấy ở nghiên cứu khác).


Các kết quả
-

Không có sự khác biệt về chỉ số Barthel ở thời điểm 90 ngày (75 vs

-

85, p = 0,99)
Không có sự khác biệt về điểm Rankin sửa đổi ở ngày thứ 90 (3 vs

-

3, p = 0,41)
Có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ tử vong khi điều trị (22,4% so với

-

15,8%, p = 0,04)
Trong mỗi phân tích, không có sự khác biệt trong chỉ số Barthel,
nhưng đã có sự cải thiện trong mRs với tPA.

Bình luận
-

Mặc dù kết quả như vậy, các nhà nghiên cứu kết luận tiêu huyết
khối có hiệu quả trong việc cải thiện một số chức năng và thần
kinh ở nhóm bệnh nhân đột quỵ có dấu hiệu thần kinh khu trú
trung bình và nặng và không có dấu hiệu nhồi máu kéo dài trên

-


phim CT ban đầu.
Có 17,4% bệnh nhân bị các vi phạm về giao thức, do đó các tác giả
tập trung nhiều hơn vào phân tích theo mỗi giao thức (hoặc đối


tượng đích). Tuy nhiên, không có lý do để nghĩ rằng các vi phạm
giao thức tương tự sẽ không xảy ra trong thế giới thực. Họ đã xử lý
thống kê mà tôi chưa thấy bao giờ.

NINDS 1
NINDS study group. Tissue plasminogen activator for acute ischemic stroke.The
New England journal of medicine. 1995; 333(24):1581-7. PMID: 7477192[free full text]

/>Một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, giả dược có đối chứng
-

Bệnh nhân: 291 bệnh nhân người lớn đột quỵ đánh giá rõ ràng trên

-

thang điểm NIHSS trong vòng 3 giờ.
Can thiệp: t-Pa (0,9 mg / kg, 10% bolus và 90% trong 60 phút)
So sánh: giả dược
Kết quả gần: 2 kết quả chính: hết hoàn toàn triệu chứng hoặc tăng
hơn 4 điểm NIHSS trong 24h

Các kết quả
-


Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm vào thời điểm 24 giờ.
(47% cải thiện với tPa so với 39% đối với giả dược, RR 1.2 (95% CI

-

0.9-1.6), p = 0.21).
Là kết quả của phần 1, họ đã đánh giá kết quả sau 3 tháng (phần
2). Các kết quả tương tự đã thấy trong NINDS 2, được thảo luận
dưới đây.


Bình luận
-

Đây là một thử nghiệm lớn, tốn kém so với mọi nghiên cứu khác
trong danh sách này

NINDS 2
NINDS

study

group. Tissue

plasminogen

activator

for


acute

ischemic stroke.The New England journal of medicine. 1995;
333(24):1581-7. PMID: 7477192[free full text]
/>
-

Bệnh nhân: 333 bệnh nhân người lớn đột quỵ NIHSS thời gian khởi
phát rõ ràng trong vòng 3h. Để nói ngắn gọn, tôi sẽ không nói về
các tiêu chuẩn loại trừ cho các nghiên cứu khác. Tuy nhiên, nếu
bạn đang sử dụng tPa, việc sử dụng nó có lẽ nên theo dõi chặt chẽ
theo protocol của nghiên cứu này. Các tiêu chí loại trừ là:
• Đột qụy hoặc chấn thương sọ não nặng trong vòng 3 tháng
trước
• Phẫu thuật lớn trong vòng 14 ngày
• Tiền sử ICH hoặc các triệu chứng gợi ý SAH


• SBP> 185mmHg hoặc DBP> 110mmHg; Hoặc đang điều trị







tích cực để giảm BP xuống mức giới hạn cụ thể
Cải thiện nhanh hoặc triệu chứng nhẹ
Các triệu chứng gợi ý SAH
GI hoặc GU chảy máu trong vòng 21 ngày

Có chọc xâm lấn động mạch trong vòng 7 ngày
Co giật khi khởi phát co giật
Dùng chống đông hoặc antithrombotic trong vòng 48 giờ

trước khi khởi phát đột quỵ
• aPPT / PT tăng cao hoặc tiểu cầu <100k
• Glucose 400 mg / dl
• Can thiệp: t-Pa (0,9 mg / kg, 10% bolus và 90% trên 60
-

phút)
So sánh: giả dược
Kết quả gần: Có 4 loại. Tỷ lệ bệnh nhân có dấu hiệu thần kinh khu
trú tối thiểu hoặc không có tại thời điểm 3 tháng đánh giá bằng chỉ
số Barthel, thang điểm Rankin thay đổi, Glasgow, hoặc NIHSS.

Các kết quả
-

Có 4 loại nên khó để trình bày dữ liệu. thang điểm Rankin sửa đổi
được nhắc đến nhiều nhất, điều này thật buồn cười vì nó có sự
khác biệt lớn nhất về kết quả.


-

Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tử vong giữa các nhóm
(17% với t-PA và 21% với giả dược, p = 0,30).
Xuất huyết có triệu chứng tăng từ 1% lên 7%



Bình luận
-

Không phải hình thức tốt khi chia 4 loại như vậy. Bạn phải điều
chỉnh số liệu thống kê để so sánh, nhưng ít nhất chúng phải đều

-

nhất quán trong nghiên cứu này
Trong các dữ liệu trình bày trong nghiên cứu, hai nhóm trông giống
như chúng đã được kết hợp khá đẹp khi bắt đầu thử nghiệm. Khi
nhìn vào sự phân bố đột quỵ, nhóm giả dược có tỉ lệ nặng lên đáng
kể (NIHSS> 20) và ít đột quỵ nhẹ (NIHSS 0-5). Mức độ nghiêm
trọng của triệu chứng đột quỵ ban đầu (hoặc NIHSS) là yếu tố
quyết định lớn nhất cho kết cục cuối cùng của đột quỵ, do đó, bất
kỳ sự khác biệt nào về mức độ nghiêm trọng đột quỵ ban đầu có

-

thể làm giảm đáng kể kết quả của 1 thử nghiệm
Trong NINDS 1, họ báo cáo kết quả về mức độ cải thiện khi bệnh
bắt đầu. NINDS 2 chỉ báo cáo dữ liệu của họ về thời điểm kết thúc.
Không rõ tại sao họ lại chọn cách tiếp cận khác nhau giữa hai thử

-

nghiệm và họ không trình bày dữ liệu về cải tiến trong NINDS 2.
Họ chia kết quả theo 1 nhóm 0-90 phút và 1 nhóm 90-180 phút.



Không có sự khác biệt giữa hai nhóm này. Họ đề xuất dùng tPA
càng sớm càng tốt nhưng quan trọng là đừng vội vã. Đột quỵ
không dễ chẩn đoán như STEMI và chúng ta phải thực sự chắc
chắn rằng chúng ta không dùng tPA cho bệnh nhân không đột quy
/> />
MAST-Europe
Hommel M, Cornu C, Boutitie F, Boissel JP. Thrombolytic therapy with
streptokinase in acute ischemic stroke. The New England journal of
medicine. 1996; 335(3):145-50. PMID: 8657211 [free full text]
/>
-

Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm,
ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược
• Bệnh nhân: 310 bệnh nhân có đột quỵ từ trung bình đến nặng
vùng động mạch não giữa trong vòng 6 giờ
• Can thiệp: Streptokinase 1,5 triệu đơn vị trong vòng 1 giờ
• So sánh: giả dược
• Kết quả gần: Tử vong và di chứng tàn tật sử dụng điểm Rankin
sau 3 - 6 tháng

Các kết quả
• Thử nghiệm đã được dừng lại sớm do tăng tỷ lệ tử vong. kích cỡ
mẫu 600 bệnh nhân.
• Không có sự khác biệt về kết quả gần tử vong hay tàn tật
(81,8% so với 79,5%, p = 0,60)
• Đã có sự gia tăng đáng kể tỷ lệ tử vong sau 10 ngày (34% so
với 18%, p = 0,002), nhưng nó không còn ý nghĩa thống kê sau
6 tháng (47% vs 38%, p = 0,13)

• Có sự gia tăng đáng kể xuất huyết nội sọ có ý nghĩa thống kê
(21,2% so với 2,6%, p <0,001).

Bình luận


• Một trong những nguyên nhân phải dừng sớm nghiên cứu vì về
mặt kỹ thuật, không có sự khác biệt về thống kê ở thời điểm 6
tháng, nhưng tỷ lệ tử vong tăng lên 9% là điều rất quan trọng
cần chú ý


ASK
Donnan GA, Davis SM, Chambers BR. Streptokinase for acute ischemic
stroke with relationship to time of administration: Australian Streptokinase
(ASK) Trial Study Group. JAMA. 1996; 276(12):961-6. PMID: 8805730
/>
-

Đây là một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, giả
dược.
• Bệnh nhân: 340 bệnh nhân đột quỵ (18-80 tuổi) trong vòng 4
giờ kể từ khi bắt đầu triệu chứng.
• Can thiệp: 1,5 triệu đơn vị streptokinase trong 1 giờ
• So sánh: giả dược
• Kết quả gần: Kết hợp tử vong và tàn tật (chỉ số Barthel <60)
sau 3 tháng.

Các kết quả
• Thử nghiệm đã được dừng lại sớm do tăng tỷ lệ tử vong. Cỡ

mẫu ban đầu 600 bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong gần như tăng gấp
đôi sau dùng streptokinase (RR 1,77, KTC 95% 1.11-20.82).
• Không có sự khác biệt về tử vong hoặc di chứng tàn tật sau 3
tháng (nguy cơ tương đối với điều trị 1,08; KTC 95% 0,74-1,58.)
• Tăng tỷ lệ xuất huyết nội sọ đáng kể (13,2% với streptokinase
so với 3% với giả dược, p <0,01). Cũng có sự gia tăng hạ huyết
áp (33% so với 6%) và sốc phản vệ (2 vs 0%) với điều trị.
• Xét về kết quả xa, họ lưu ý kết quả tốt hơn ở nhóm bệnh nhân
được điều trị trong vòng 3h nhưng sự khác biệt không đáng kể



ECASS II
Hacke W, Kaste M, Fieschi C. Randomised double-blind placebo-controlled
trial of thrombolytic therapy with intravenous alteplase in acute ischaemic
stroke (ECASS II). Second European-Australasian Acute Stroke Study
Investigators..

Lancet

(London,

England).

1998;

352(9136):1245-

51. PMID: 9788453
/>

-

Một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, mù đôi, giả dược có kiểm
soát
• Bệnh nhân: 800 bệnh nhân đột quỵ (18-80 tuổi) với chẩn đoán
lâm sàng đột quỵ thiếu máu cục bộ từ vừa đến nặng trong vòng
6h sau khi khởi phát triệu chứng. Bệnh nhân bị loại trừ nếu có
phù não trên 33% khu vực MCA trên CT
• Can thiệp: t-PA (0.9mg / kg)
• So sánh: giả dược


• Kết quả gần: Tỷ lệ bệnh nhân có kết quả tốt (điểm số 0-1 trên
thang điểm Rankin sửa đổi). (Thử nghiệm này được bắt đầu sau
NINDS và đã có một phân nhóm được xác định trước từ 0-3
giờ.)

Các kết quả
• Không có sự khác biệt trong kết quả gần. 40% bệnh nhân có
kết quả tốt với t-pa so với 37% với giả dược.
• Không có khác biệt về tỷ lệ tử vong (11% ở cả hai nhóm).
• Có sự gia tăng xuất huyết nội sọ nặng (11,8% so với 3,1%).
• Trong nhóm 0-3 giờ, không có lợi trong kết quả gần (34% với tPa so với 29% với giả dược, p = 0.28).
• Trong nhóm 0-3 giờ, tỷ lệ tử vong cao hơn khi dùng t-PA (14%
so với 8%).
• Kết quả xa, tỷ lệ phần trăm bệnh nhân có MRR 0-2 đã ủng hộ
tPa.

Bình luận
-


Một lần nữa, các kết luận không phù hợp với kết quả, tôi cảm thấy
bắt buộc phải chỉ ra: "Chúng tôi kết luận rằng alteplase ở liều 0,9
mg / kg không làm tăng tử vong hoặc bệnh suất mặc dù tăng từ 2
đến 5 lần Xuất huyết nội sọ có triệu chứng. Các kết quả này ủng hộ
quan điểm cho rằng alteplase nên là một phần của việc điều trị đột
quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính trong vòng 3h sau khi khởi phát


triệu chứng, và có thể là ở những bệnh nhân được lựa chọn và ở
-

các trung tâm có kinh nghiệm.
Trong thử nghiệm này, họ đặc biệt đề cập đến việc các nhà nghiên
cứu cố gắng che giấu xét nghiệm đông máu. điều duy nhất mà
dường như thay đổi giữa các nhóm là một vài 2s trở thành 3s. theo
thang điểm Rankin sửa đổi 2 điểm là "khuyết tật nhẹ; Không thể
thực hiện được tất cả các hoạt động trước đây, nhưng có thể tự
chăm sóc mình mà không cần sự trợ giúp ". Điểm số 3 là" đòi hỏi
sự trợ giúp, nhưng có thể đi mà không cần sự trợ giúp. "Sự khác
biệt giữa" không thể thực hiện được tất cả các hoạt động trước đây
" " trợ giúp" là rất tinh tế, vì vậy bạn có thể tưởng tượng rằng đánh
giá chủ quan có thể ảnh hưởng đến những con số

ATLANTIS B
Clark WM, Wissman S, Albers GW, Jhamandas JH, Madden KP,
Hamilton S. Recombinant tissue-type plasminogen activator
(Alteplase) for ischemic stroke 3 to 5 hours after symptom onset.
The ATLANTIS Study: a randomized controlled trial. Alteplase
Thrombolysis for Acute Noninterventional Therapy in Ischemic

Stroke.. JAMA. 1999; 282(21):2019-26. PMID: 10591384
/>
-

Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ở nhiều trung tâm, giả


dược, mù đôi, ngẫu nhiên
• Bệnh nhân: 613 bệnh nhân đột quỵ thiếu máu cục bộ trong
vòng 3-5 giờ sau khi khởi phát triệu chứng.
• Can thiệp: rt-PA 0.9mg / kg
• So sánh: giả dược
• Kết quả gần: Phục hồi thần kinh xuất sắc (NIHSS≤1) 90 ngày.

Các kết quả
• Không có sự khác biệt trong kết quả gần (32% với giả dược và
34% với t-PA, p = 0.65)
• Tỷ lệ tử vong không khác biệt về mặt thống kê, nhưng cao hơn
so với t-PA (11,0% so với 6,9%, p = 0,09)
• Tăng xuất huyết nội sọ có triệu chứng (6,7% so với 1,3%, p
<0,001)

Bình luận
-

Thử nghiệm này ban đầu được thiết kế để xem khung thời gian 0-6
giờ. Nó đã được dừng lại sớm vì có những lo ngại về an toàn trong
khoảng thời gian 5-6 giờ, và vì vậy đã chuyển thành thử nghiêm
trong 0-5 giờ. (Các bệnh nhân tham gia thời điểm này được coi là 1
thử nghiệm riêng biệt "ATLANTIS A".) Sau đó nó đã được ngừng lại

khi NINDS xuất hiện, và họ quyết định để dừng lại. chọn bệnh nhân
trong khoảng thời gian 0-3 giờ. Họ cũng thêm nhiều trung tâm vào
thời điểm đó. Cuối cùng, một phần trong thay đổi tiêu chuẩn chọn

-

gồm tiêu chuẩn CT dựa trên thử nghiệm ECASS 1.
Quan trọng hơn tất cả các thay đổi về tiêu chuẩn chọn, họ đã dừng
nghiên cứu sớm vì nó không đáp ứng được bất cứ tiêu chuẩn an
toàn nào. Điều đáng nghi ngờ nhất là nghiên cứu được tài trợ bởi
ngành công nghiệp (Genetech không chỉ hỗ trợ cho thử nghiệm,
mà còn chịu trách nhiệm về việc quản lý và phân tích dữ liệu). Sự
gia tăng đáng kể về mặt lâm sàng có thể không đạt được ý nghĩa

-

thống kê
Tôi cần bình luận về những cuộc thảo luận điên rồ điên cuồng trong


các bài báo này một lần nữa. Họ nhận định: "Không có sự khác biệt
đáng kể về tỷ lệ tử vong giữa các nhóm, mặc dù xu hướng tăng tỷ
lệ tử vong sau 90 ngày không thấy trong nghiên cứu NINDS". Một
nhắc nhở, số tử vong ở NINDS là 17% với t-PA và 21% với giả dược,
p = 0,30. Thử nghiệm này có sự khác biệt tuyệt đối giống nhau
(nhưng bây giờ kết quả dùng t-Pa xấu hơn) và giá trị thấp hơn. Làm
thế nào bạn có thể gọi sự khác biệt với NINDS là một xu hướng và
chỉ đơn giản là bỏ qua xu hướng ngược lại ở đây ?!

ATLANTIS A

Clark WM, Albers GW, Madden KP, Hamilton S. The rtPA (alteplase)
0- to 6-hour acute stroke trial, part A (A0276g) : results of a
double-blind, placebo-controlled, multicenter study. Thromblytic
therapy in acute ischemic stroke study investigators. Stroke. 2000;
31(4):811-6. PMID: 10753980 [free full text]
/>
-

Một thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng ở nhiều trung tâm, giả dược,
mù đôi, ngẫu nhiên
• Bệnh nhân: 142 bệnh nhân đột quỵ trong vòng 6h khởi phát
triệu chứng
• Can thiệp: rt-PA 0.9mg / kg
• So sánh: giả dược
• Kết quả gần: 3 loại: giảm từ 4 điểm trở lên NIHSS trong 24 giờ
và 30 ngày, cũng như nhồi máu sau 30 ngày.

Các kết quả
• Có sự cải thiện đáng kể về mặt thống kê ở 24 giờ (21% giả
dược có sự cải thiện 4 hoặc nhiều hơn trên NIHSS so với 40%
với t-Pa, p = 0.02)
• Tuy nhiên, đến 30 ngày kết quả là ngược lại, với 75% nhóm giả
dược và chỉ 60% các nhóm t-PA cải thiện 4 hoặc nhiều hơn
NIHSS (p = 0,05).
• Tử vong cao hơn nhiều với t-Pa (25% so với 7%, p <0,01)
• Xuất huyết nội sọ cao hơn với tPA(11% so với 0%, P <0,01).


• Vào thời điểm 90 ngày, điểm trung bình của Rankin là 2 ở nhóm
dùng giả dược và 5 ở nhóm t-Pa - khác biệt lớn hơn nhiều so với

bất cứ nghiên cứu nào khác (p = 0,05).

DIAS 2
Hacke W, Furlan AJ, Al-Rawi Y. Intravenous desmoteplase in
patients with acute ischaemic stroke selected by MRI perfusiondiffusion weighted imaging or perfusion CT (DIAS-2): a prospective,
randomised, double-blind, placebo-controlled study. The Lancet.
Neurology. 2009; 8(2):141-50. PMID: 19097942[free full text]
/>
-

Một thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng ở nhiều trung tâm, giả dược,
mù đôi, ngẫu nhiên
• Bệnh nhân: 193 bệnh nhân đột quỵ(18-85 tuổi) (NIHSS 4-24) và
nhu mô có khả năng hồi phục ít nhất 20% trên CT hoặc MRI,
xuất hiện trong vòng 3-9 giờ sau khi khởi phát triệu chứng.
• Can thiệp: Desmoteplase 90 mcg / mk hoặc desmoteplase 125
mcg / kg
• So sánh: giả dược
• Kết quả gần: đánh giá lâm sàng sau 90 ngày, được xác định
bằng sự kết hợp của việc cải thiện 8 hoặc nhiều hơn trên NIHSS
hoặc NIHSS ≤ 1, điểm Rankin đã sửa đổi 0-2 và chỉ số Barthel
75-100.

Các kết quả
• 63% bệnh nhân được điều trị từ 6-9 giờ.
• Không có sự khác biệt về kết quả gần giữa 3 nhóm.
• Tỷ lệ tử vong sau 90 ngày là 6% với giả dược, 5% với 90 mcg /
kg và 21% với 125 mcg / kg
• Xuất huyết trầm trọng xảy ra ở 3,5% nhóm 90 mcg / kg, 4,5%
nhóm 125 mcg / kg, và 0% với giả dược. Tỷ lệ xuất huyết có

triệu chứng sử dụng các chỉ tiêu NINDS là 8% với 90 mcg / kg,
10,6% với 125 mcg / kg, và 14,3% với giả dược).

Bình luận
-

Desmoteplase về mặt lý thuyết là một thuốc tiêu huyết khối cấp


độ cao vì đặc hiệu fibrin cao, không có hoạt tính beta-amyloid và
không độc cho thần kinh. Mặc dù thất bại ở đây trong khung thời
gian 3-9 giờ, có vẻ như họ đã không kiểm tra nó trong khoảng thời
gian 0-3 giờ.

ECASS III
Hacke W, Kaste M, Bluhmki E. Thrombolysis with alteplase 3 to 4.5
hours after acute ischemic stroke. The New England journal of
medicine. 2008; 359(13):1317-29. PMID: 18815396 [free full text]
/>
-

Một thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng ở nhiều trung tâm, giả dược,
mù đôi, ngẫu nhiên
• Bệnh nhân: 821 bệnh nhân đột qụy (18-80 tuổi) dùng tPA trong
3-4h sau khởi phát triệu chứng (có thể kéo dài 3-4,5h). Họ loại
trừ bệnh nhân có NIHSS> 25
• Can thiệp: t-Pa 0.9mg.kg
• So sánh: giả dược

Các kết quả

• Nhiều người trong nhóm điều trị kết thúc với điểm số Rankin
sửa đổi (0-1): 52,4% với t-Pa so với 45,2% với giả dược.
• Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đánh giá Glasgow
hoặc chỉ số Barthel giữa hai nhóm, và tiên lượng chung (bao
gồm tất cả các điều trên) cũng không có ý nghĩa thống kê, tỷ lệ
1,28, KTC 95% 1,00 -1,65, p = 0,05).
• Tử vong không thay đổi: 7,7% với t-Pa và 8,4% với giả dược, p
= 0,68
• Triệu chứng xuất huyết cao hơn. Theo định nghĩa của họ 2,4%
so với 0,2%, p = 0,008. Theo định nghĩa của NINDS, 7,9% so
với 3,5%.

Bình luận


• Nhóm giả dược bắt đầu với điểm NIHSS cao hơn về mặt thống
kê (và điểm cao hơn cũng có ý nghĩa lâm sàng). Sự mất cân
bằng này có thể đã ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng
• Họ đã thay đổi định nghĩa xuất huyết nội sọ có triệu chứng của
họ để bao gồm một thành phần chủ quan: xuất huyết đã được
xác định là "nguyên nhân nổi bật" của suy thoái thần kinh. Tuy
nhiên, chúng tôi biết trong những nghiên cứu này sẽ có nhiều
huyết hơn ở nhớm t-Pa. Vì bất cứ tiêu chí nào làm giảm tỷ lệ
chảy máu sẽ làm cho nghiên cứu ủng hộ dùng tiêu huyết khối
IST 3
Sandercock P, Wardlaw JM. The benefits and harms of intravenous
thrombolysis with recombinant tissue plasminogen activator within
6 h of acute ischaemic stroke (the third international stroke trial
[IST-3]): a randomised controlled trial. Lancet (London, England).
2012; 379(9834):2352-63. PMID: 22632908 [free full text]

/>
-

Một thử nghiệm đa trung tâm mở, ngẫu nhiên, có kiểm soát
• Bệnh nhân: 3035 bệnh nhân đột quỵ cấp trong vòng 6h sau
khởi phát triệu chứng. Bệnh nhân bị loại trừ nếu họ "có dấu
hiệu rõ ràng" chống chỉ định với t-Pa. Sau đó, chỉ khi cả bác sĩ
và bệnh nhân nghĩ rằng việc điều trị là "đầy hứa hẹn, nhưng
không được chứng minh" thì bệnh nhân sẽ được tham gia. 53%
bệnh nhân trên 80 tuổi
• Can thiệp: t-Pa 0.9mg / kg
• So sánh: chăm sóc thông thường
• Kết quả gần: Tỷ lệ bệnh nhân sống và không phụ thuộc lúc 6
tháng (sử dụng thang điểm tàn tật của Oxford là 0-2).

Các kết quả
• Không có sự khác biệt trong kết quả gần: 35% nhóm giả dược
và 37% nhóm tPa sống và hoạt động độc lập ở thời điểm 6
tháng, OR 1,06, KTC 95% 0.92-1.24, p = 0.41).


• Tử vong ở thời điểm 6 tháng không thay đổi (27% so với 27%, p
= 0,672)
• Tỷ lệ tử vong tăng lên ở 7 ngày với t-pa (11% so với 7%, OR
1,59, KTC 95% 1,23-2,07, p = 0,0004).
• Xuất huyết nội sọ có triệu chứng tăng với t-Pa (7% so với 1%, p
<0.0001).

Bình luận
-


Đây là thử nghiệm lớn nhất của các thuốc tan huyết khối cho đột
qụy, nhưng tiếc là nó cũng có những phương pháp tồi tệ nhất. các
phương pháp ở đây thực sự thiên vị ủng hộ nhóm tPA, vì vậy đáng
chú ý là trong thử nghiệm đột qụy lớn nhất này, chúng ta phải cập

-

nhật thông tin sau 6 tháng
Tôi rất phiền lòng với kết luận của nghiên cứu : "Đối với các loại
bệnh nhân được tuyển chọn trong IST-3, mặc dù có những nguy cơ
ban đầu, liệu pháp tan huyết khối trong vòng 6 giờ có cải thiện kết

-

quả "Không có gì chính xác về mặt khoa học về câu đó.
Xu hướng lựa chọn rõ ràng là một vấn đề lớn trong thử nghiệm này.
Họ không chọn tất cả mà chọn những bệnh nhân mà cả bác sĩ và
bệnh nhân đều nghĩ tPA là hứa hẹn nhưng không được chứng minh
- bất kể điều đó có ý nghĩa gì. (Thực ra, có lẽ tôi phù hợp với thể
loại đó?) Tôi đã nghe người ta tranh cãi rằng cả hai đều thiên vị về
lợi ích của tPA và ủng hộ giả dược. Tôi không biết, nhưng tôi biết nó

-

làm cho dữ liệu ít đáng tin cậy.
Có nhiều phương pháp theo dõi khác nhau, nhưng có vẻ như đa số
là qua thư. Như tôi đã thảo luận dưới đây, điểm số Rankin đã sửa
đổi là một kết quả rất chủ quan. Đây là một thử nghiệm không
được chẩn đoán, và bệnh nhân hoặc thành viên gia đình họ chịu


-

trách nhiệm cho việc ghi lại kết quả chính.
Nhiều bệnh nhân trong nhóm tPA được điều trị trong ICU, và chúng
tôi biết rằng vị trí được chăm sóc ảnh hưởng tới kết cục của những


cơn đột quỵ
Họ ban đầu muốn bao gồm 6000 bệnh nhân, nhưng thay đổi mẫu

-

do tuyển chọn chậm. Việc tính toán công suất ban đầu dựa trên
mong muốn thể hiện sự khác biệt trong các phân nhóm
Ở một trong nhiều phân nhóm, họ cố gắng lưu ý rằng tPacó vẻ tốt

-

hơn trong nhóm được điều trị trong vòng chưa đến 3 giờ. Tuy
nhiên, họ bỏ qua thực tế là các nhóm 3-4,5 giờ đã bị tồi tệ hơn
nhiều
/> /> /> />
-

Ở Nhật Bản, tPa đã được cấp phép ở liều 0,6mg / kg. Dữ liệu cho
thấy không hiệu quả làm giảm lượng xuất huyết trong não. Điều
này đã dẫn đến kết quả RCT sau khi so sánh liều chuẩn và liều
thấp tPA


ENCHANTED
Anderson CS, Robinson T, Lindley RI. Low-Dose versus StandardDose Intravenous Alteplase in Acute Ischemic Stroke. The New
England
Journal
of
Medicine.
2016;
374(24):2313-23.
PMID: 27161018 [free full text]
/>
-

Đây là một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mở. Tôi tập
trung vào phương pháp can thiệp ở đây:
• Bệnh nhân: 3310 bệnh nhân đột quỵ (từ 18 tuổi trở lên) đủ điều
kiện để điều trị tiêu huyết khối trong vòng 4-5 giờ.
• Can thiệp: liều thấp tPa (0.6mg / kg)
• So sánh: liều chuẩn tPA (0.9mg / kg)
• Kết quả gần: Tử vong hoặc tàn tật (2-6 trên Thang điểm Rankin
đã sửa đổi) trong 90 ngày.


Các kết quả
• Kết quả chính, tử vong hoặc tàn tật (mRs 2-6) (ngược lại với kết
quả thông thường) xảy ra ở 53,2% nhóm liều thấp và 51,1%
nhóm liều chuẩn (OR 1,09, 95% CI 0,95 - 1,25).
• Số bệnh nhân còn sống và hoạt động độc lập (mRs 0-2) sau 90
ngày về cơ bản là giống nhau (62,4% và 63%).
• Xuất huyết nội sọ nặng có triệu chứng ít hơn ở nhóm dùng liều
thấp (1,0% so với 2,1, P = 0,01). (Xuất huyết có triệu chứng

theo tiêu chí NINDS cao hơn nhiều, nhưng vẫn có ý nghĩa thống
kê) (5,9% so với 8,0%, p = 0,02).
• Tỷ lệ tử vong trong 7 ngày thấp hơn ở nhóm dùng liều thấp
(3,6% so với 5,3%, P = 0,02), nhưng tỷ lệ tử vong sau 90 ngày
không khác biệt về mặt thống kê (8,5% so với 10,7%, P =
0,07).

Bình luận
-

Đây là một thử nghiệm mở. Tôi cho rằng họ đã làm điều này thực
tế vì họ đã quyết định sử dụng liều bolus khác nhau (10% trong
nhóm tiêu chuẩn và 15% ở nhóm dùng liều thấp).
Họ đã phải kiểm tra gần 70.000 bệnh nhân để tìm ra 3310 bệnh
nhân hội đủ điều kiện, điều này nhắc nhở chúng ta rằng hầu hết
bệnh nhân đột quỵ là không đủ điều kiện cho tPA.
Mặc dù phổ biến trong nghiên cứu đột qụy nhưng kết quả đánh giá
chủ yếu dựa trên thông tin qua điện thoại

/> /> /> />

×