VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Lê Minh Tường
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Lê Minh Tường
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 5, THÀNH PHÓ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã
số:
8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ MAI
Giám đốc Học viện Khoa học xã hội đã quyết định giao cho học viên
Lê Minh Tường đề tài luận văn thạc sĩ: “VaitròcủaTòaántrongtranhtụngtạiphiêntòasơthẩmvụ
ánhìnhsựtừthựctiễnQuận5,ThànhphốHồChíMinh Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng
hình sự; Mã số: 60.38.01.04.
Đây là công trình do chính học viên tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng
và hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Đinh Thị Mai.
Học viên thực hiện đề tài xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của học viên; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai công bố; nội dung luận văn không sao chép bất kỳ công trình
nghiên cứu nào.
Học viên xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Tác giả luận văn
Lê Minh Tường
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến:
Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, Cơ sở của học viện tại
Thành phố Hồ Chí Minh, các Khoa, Phòng, Ban và Bộ phận chuyên môn của
Học viện đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia học tập chương trình cao
học đào tạo trình độ thạc sĩ chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự,
khóa VI đợt 2 năm 2015.
Các thầy, cô giảng viên của Học viện đã tham gia giảng dạy, truyền
đạt cho tôi những kiến thức quý báu.
TS. Đinh Thị Mai - Giảng viên Khoa Luật của Học viện Khoa học xã
hội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận
văn.
Ban lãnh đạo và các Thẩm phán Tòa án nhân dân Quận 5, Thành
phố Hồ Chí Minh đã cung cấp số liệu, tài liệu tham khảo, các bản án hình sự
sơ thẩm và phúc thẩm, trao đổi kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn, đóng
góp nhiều ý kiến thiết thực cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Các anh, chị học viên Lớp cao học đào tạo trình độ thạc sĩ về chuyên
ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự khóa VI đợt 2 năm 2015 đã đóng góp
nhiều ý kiến giúp tôi hoàn thành luận văn.
Gia đình, người thân đã động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Lê Minh Tường
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bảng 2.1 Phân tích số liệu số lượng vụ án giải quyết........................................
29
Bảng 2.2 Phân tích số liệu luật sư bào chữa
31
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người trong hoạt động tư pháp luôn là nội dung được coi trọng và
đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát
triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những
nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền của bị cáo trong hoạt động tư
pháp hình sự luôn được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong
các văn bản pháp lý như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên
ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Ở
Việt Nam, Chương V Hiến pháp năm 2013 có quy định “Quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng” và “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã
hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với
các loại tội phạm và vi phạm”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của
Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư
6
pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công
lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Tranh tụng trong hoạt động xét xử là một
nội dung bắt buộc và là mục tiêu hướng tới của hệ thống tư pháp nhằm đảm bảo
quyền con người đối với bị can, bị cáo. Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã chú trọng bổ sung thêm quyền cho bị cáo
như quyền im lặng, quyền đưa ra chứng cứ, tiếp cận đọc, ghi chép bản sao hồ sơ vụ
án... để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đặc biệt trong hoạt động xét xử ở
cấp xét xử sơ thẩm. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng cụ thể hóa nguyên
tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng.
Với lí do kể trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vai trò của tòa án trong
tranh tung tai phiên tòa sơ thẩm vu án hình sư từ thưc tiễn Quân 5, Thành phố
Hồ Chí Minh” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đối với đề tài lựa chọn nghiên cứu, các vấn đề nghiên cứu xoay quanh các
quy định về vai trò của tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Từ những góc độ nghiên cứu như vậy, nhiều công trình nghiên cứu có giá trị tham
khảo về lý luận và thực tiễn như:
- Nguyễn Đức Mai (2007), Bànvềtranhtụngtạiphiêntoàsơthẩmhìnhsự, Tạp chí Tòa án nhân
dân (số 17), tr. 23-28;
- NGUYỄN VĂN TUÂN (2009), Bản chất, nội dung tranh tụng tại phiên toà hình
sự và vấn đề hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, TẠP CHÍ DÂN CHỦ VÀ PHÁP LUẬT
(SỐ 9), TR. 33-41;
- VŨ GIA LÂM (2013), Đổi mới thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm theo hướng
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, TẠP CHÍ KIỂM SÁT (SỐ 21), TR. 36-42;
- Phạm Minh Tuyên (2014), Bànvềtranhtụngtạicácphiêntòahìnhsự, Tạp chí Kiểm sát (số
12), tr. 20-26, 64;
7
- VŨ THÀNH LONG (2014), Cần tháo gỡ một số vướng mắc nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa hình sự, TẠP CHÍ KIỂM
SÁT (SỐ
15), TR. 33-36;
- TÔN THIỆN PHƯƠNG (2015), Các giải pháp về công tác cán bộ của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát
viên tại phiên tòa hình sự, TẠP CHÍ KIỂM SÁT (SỐ TÂN XUÂN), TR. 28-33;
Tuy nhiên, thực tiễn nghiên cứu chưa có ấn phẩm, chưa có tài liệu nào nghiên
cứu về những bất cập trong quy định về vai trò của tòa án trong tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật tố tụng hình sự cụ thể là Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức
tòa án nhân dân năm 2014 và các văn bản liên quan về vai trò của tòa án trong tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, luận văn hướng tới nghiên cứu tính cần
thiết xây dựng cơ chế tranh tụng hoàn thiện trong tổ chức, vận hành một phiên tòa sơ
thẩm hình sự để đảm bảo tốt hơn quyền con người, quyền công dân của bị can, bị cáo
trong hoạt động xét xử.
Đồng thời, đưa ra những bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp
hoàn thiện pháp luật liên quan.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng
hình sự có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa
học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn đề vai trò của tòa án trong tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn hướng tới cụ thể sau:
8
Một là, phân tích các vấn đề lý luận về vai trò của tòa án trong tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay.
Hai là, phân tích, đánh giá về các quy định pháp luật hiện hành về vai trò của
tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự để rút ra các vướng mắc,
hạn chế của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi
pháp luật liên quan trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Balà, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và các luật
khác có liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là những khía cạnh pháp lý của một
số quy định của pháp luật về vai trò của tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự. Nghiên cứu còn sử dụng so sánh thực tiễn áp dụng quy định này tại
thời điểm trước và sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực nhằm đánh
giá về quy định pháp luật liên quan và đưa ra những quan điểm hoàn thiện tại Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vai trò của Tòa án trong tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, trong
thời gian không quá 06 năm gần nhất (từ năm 2012 đến hết năm 2017) so với thời
điểm triển khai luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp phân tích
pháp luật và giải thích pháp luật trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống
như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
9
pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải...
nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những dữ liệu, thông tin thực tiễn xét xử tại
Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý
luận về vai trò của Tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những vấn đề đưa ra của luận vân có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy, biên soạn tài liệu về vai trò của Tòa án trong tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn là tài liệu tham khảo và vận dụng cho các Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật
sư trên địa bàn Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung; trên
cơ sở đó, góp phần không ngừng hoàn thiện và nâng cao lý luận về vai trò của Tòa
án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của Tòa án trong
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2. Thực trạng về vai trò của Tòa án trong tranh tụng từ thực tiễn của
Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo vai trò của Tòa án trong tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA
ÁN TRONG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1
0
1.1. Khái niệm tranh tụng và vai trò của tòa án trong tranh tụng
1.1.1. Khái niệm tranh tụng
Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự
hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử nhân loại.
Trong xã hội hiện đại, ở các nước dù thuộc hệ thống luật án lệ (common law), hệ
thống luật lục địa (civil law) hay hệ thống luật xã hội chủ nghĩa, thì hoạt động tố
tụng đều có đề cao cơ chế tranh tụng. Tranh tụng là cơ chế tố tụng có hiệu quả bảo
đảm cho tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án, giải quyết đúng đắn vụ việc,
đảm bảo sự công bằng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các bên tham gia tố tụng.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa “tranh tụng” là “kiện cáo lẫn nhau”.
Theo nghĩa Hán Việt, thuật ngữ tranh tụng được ghép từ hai từ “tranh luận”
và “tố tụng”, và Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ cũng có
sự tham gia của các bên có quyền và lợi ích trái ngược nhau yêu cầu tòa án phân xử.
Để có cơ sở cho tòa án có thể phân xử, pháp luật quy định cho các bên tham gia tố
tụng quyền khởi kiện vụ việc ra trước tòa án, chứng minh và tranh luận để bảo vệ
yêu cầu của mình.
Trong một số tài liệu, thông thường người ta thường đề cập đến hệ thống
tranh tụng (Adversarial System). Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là
“Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy về bản chất tranh tụng là
“cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà
giai đoạn đương đầu tại tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính. Tuy nhiên,
không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại
phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai
bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo
đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các
thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội thì
1
1
ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ
những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố
tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo có thể bất chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ
bằng mọi giá. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “chiến trường” theo đúng nghĩa của
nó khi mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng.
Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội
loài người. Cơ chế tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy lạp cổ đại. Ở thời kỳ
đó, nguyên cáo và bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa trước tòa án.
Sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Cùng với thời
gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định, đến
nay đã được áp dụng hầu hết ở các nước trên thế giới.
Ở Việt nam, về mặt lập pháp, khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi
nhận hoặc giải thích trong các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta được ban
hành từ năm 1945 đến nay. Đặc thù của tố tụng hình sự là các chủ thể tham gia tố
tụng và chủ thể tiến hành tố tụng cùng nhau xác định sự thật khách quan trên cơ sở
xem xét đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết
khác nhau của vụ án và đối chiếu với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Để
có thể tìm ra chân lý, xác định sự thật khách quan về vụ án thì các chủ thể tham gia
vào quá trình tố tụng hình sự phải phát huy tính chủ động, tích cực trong việc cung
cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết liên quan
một cách chính xác, khách quan và đầy đủ; đưa ra các lý lẽ, các quan điểm khác
nhau, viện dẫn các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Tất cả các hoạt động
kể trên trong giai đoạn trước khi xét xử cũng như tại phiên tòa đều có thể hiểu là quá
trình tranh tụng.
Như vậy, tranh tụng được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
1
2
- Theonghĩarộng: tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi các đương sự
thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy,
hiểu theo nghĩa rộng thì quá trình tranh tụng này sẽ bao gồm toàn bộ các giai đoạn
khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn
giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Theonghĩahẹp: tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên đương sự với
nhau về chứng cứ, yêu cầu và phản đối yêu cầu của mỗi bên, để từ đó nhằm chứng
minh cho đối phương và Tòa án thấy rằng yêu cầu và phản đối yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp.
Như vậy, từ các nghiên cứu của mình, chúng tôi cho rằng Tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là quá trình các bên tham gia tố tụng đưa ra
quan điểm, chứng cứ của mình để làm sáng tỏ sự thật của vụ án trên cơ sở những
chứng cứ và lời khai không thể bác bỏ để Hội đồng xét xử phán quyết.
1.1.2. Khái niệm vai trò của tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
vụ án hình sự
Thuật ngữ “vai trò” có nghĩa là “tác dụng, chức năng của ai hoặc cái gì trong
sự hoạt động, sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức”.
Như vậy, từ các nghiên cứu của mình, chúng tôi mạnh dạn cho rằng,
Vai trò của tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là sự thể
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các phương diện hoạt động cơ bản của
Tòa án mà đại diện là Hội đồng xét xử trong mối quan hệ với các chủ thể tham
gia tranh tụng khác trong quá trình tranh tụng nhằm đưa ra quan điểm
, chứng
cứ của mình để làm sáng tỏ sự thật của vụ án tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.
1.2. Các chủ thể của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Tranh tụng tại phiên toà chính là sự đối đáp giữa một bên buộc tội (Kiểm sát
viên hoặc người bị hại) và một bên gỡ tội hoặc giữa hai bên có quyền và lợi ích đối
1
3
lập nhau bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu bằng cách hỏi đáp và tranh
luận.
Như vậy, có 2 chủ thể chính tham gia trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa
sơ thẩm hình sự, gồm:
- Bên buộc tội: Đại diện chính là Kiểm sát viên tham gia phiên tòa sơ thẩm
hình sự. Đối với những vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, người bị
hại hoặc đại diện của người bị hại cũng tham gia buộc tội và tranh luận, đối đáp, hỏi
và đưa ra ý kiến hoặc trình bày quan điểm về một vấn đề cụ thể, đồng ý hay phản đối
ý kiến của người khác.
- Bên gỡ tội: Chủ thể chính là bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo, nhằm
trả lời hoặc đưa ra những ý kiến, quan điểm phản bác hoặc tranh luận về quan điểm
buộc tội của Kiểm sát viên (Viện kiểm sát) hoặc của bên bị hại.
Đối với Tòa án mà trực tiếp là Hội đồng xét xử với vai trò là trọng tài, điều
khiển việc tranh tụng, điều khiển phiên tòa, điều khiển quá trình xét hỏi, tranh luận
cũng như quyết định xử lý các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà (chỉ huy tranh
tụng), trên cơ sở tranh tụng, tranh luận mà các bên đã đưa ra quan điểm, chứng cứ
chứng minh và Tòa án (Hội đồng xét xử) phải đánh giá khách quan toàn diện vụ án
tìm ra chân lý và đưa ra kết luận phán quyết đúng sai.
1.3. Đặc điểm, ý nghĩa và mối quan hệ của tòa án với các chủ thể khác
trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là quá trình các
bên tham gia tố tụng đưa ra quan điểm, chứng cứ của mình để làm sáng tỏ sự thật
của vụ án trên cơ sở những chứng cứ và lời khai không thể bác bỏ để Hội đồng xét
xử phán quyết. Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là một phần của hoạt
động tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự. Với những đặc trưng của tố
1
4
tụng tranh tụng, tranh tụng trong phiên tòa sơ thẩm hình sự có một số đặc điểm như
sau:
Thứ nhất, tranh tụng trong tố tụng sơ thẩm hình sự luôn tồn tại hai bên có lợi
ích đối kháng là bên buộc tội (cơ quan công tố) và bên bị buộc tội (bị cáo/luật sư đại
diện quyền lợi cho bị cáo):
Trong tranh tụng, Cơ quan công tố và Luật sư hoàn toàn bình đẳng nhau họ
được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập
và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Cơ quan công tố dưới danh
nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của nhà nước (thay mặt nhà nước) đưa ra các
quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị
cáo và những Luật sư của họ cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật
pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất
vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác với tố tụng xét hỏi,
tố tụng tranh tụng đặc biệt coi trọng nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các
tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh
tụng tại phiên tòa. Với khoa học phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên
tòa đều phải đựơc ghi âm hoặc ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể tiến
hành qua điện thoại, hội nghị và các cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét
xử một vụ án ở một nơi có thể nghe lời khai trực tiếp của một người làm chứng nơi
khác.
Thứ hai, trong quá trình tranh tụng, Tham phán - Chủ tọa phiên tòa giữ vai
trò là bên thứ ba vô tư, khách quan và dựa vào lí lẽ của các bên để cân nhắc ra phán
quyết (vai trò trọng tài):
Do thủ tục tranh tụng không phân chia thành giai đoạn nên các chứng cứ đều
do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng giữa Công tố viên và bị cáo,
Luật sư. Thẩm phán ở các nước không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay
1
5
không phạm tội. Đây cũng là điểm khác so với tố tụng xét hỏi, theo đó trước khi mở
phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ
án. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các
chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là một bên
trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án tại
phiên tòa, Thẩm phán có thể trực tiếp chất vấn nếu như lời khai của bị cáo còn có
nhiều mâu thuẫn hay bị cáo chối tội. Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia
tố tụng khác đều phải thông qua chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó tại phiên tòa theo tố
tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho
những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời
bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Thứ ba, bên cạnh vai trò của Tham phán thì quá trình tranh tụng tại phiên
tòa sơ tham hình sự có sự tham gia của Hội tham nhân dân:
Hội thẩm nhân dân mặc dù không tham gia vào quá trình tranh tụng giữa các
bên nhưng họ có quyền đặt câu hỏi cho bị cáo; quyền biểu quyết bị cáo có tội hay
không có tội; quyền tham gia nghị án. Trong quá trình tranh tụng của cơ quan công
tố và phía Luật sư, bị cáo, các thành viên Hội thẩm nhân dân sẽ tiếp nhận các chứng
cứ và lập luận của các bên để có những quyết định của mình.
Từ những đặc điểm của tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
có thể thấy tranh tụng được áp dụng trong các hoạt động: buộc tội, gỡ tội và tài phán.
Vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền ngang
nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức
năng của mình khi tranh tụng trước một tòa án công bằng. Từ đó, Tòa án phải có
trách nhiệm tạo mọi điều kiện mà pháp luật cho phép để các bên có thể phát huy hết
1
6
tính chủ động và tích cực khi tham gia giải quyết vụ án hình sự, Hội đồng xét xử là
chủ thể chính trong việc đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên các chứng cứ của các
chủ thể khác xuất trình tại phiên toà, ở một mức độ cần thiết, Tòa án tham gia vào
quá trình tranh tụng như trọng tài để góp phần làm rõ các chứng cứ và tình tiết của
vụ án.
1.4. Vai trò của Tòa án trong tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự
1.4.1. Xét theo từng giai đoạn của phiên tòa sơ thẩm hình sự
Xét theo từng giai đoạn của phiên tòa sơ thẩm hình sự, vai trò của tòa án
trong tranh tụng thể hiện khác nhau tùy theo từng giai đoạn cụ thể như sau:
- Trong giai đoạn chuan bị xét xử:
Giai đoạn này có thể bắt đầu từ chuẩn bị xét xử, trong phần thủ tục phiên tòa
và kết thúc khi chuyển sang phần thủ tục xét hỏi. Trong thời hạn nghiên cứu, Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, thấy vụ án có
đủ điều kiện để mở phiên tòa đưa ra xét xử thì xây dựng kế hoạch xét xử, trao đổi với
Kiểm sát viên về đề cương thẩm vấn, thành phần những người cần triệu tập tham gia
phiên tòa và dự kiến các tình huống phát sinh.
Tại phần thủ tục, nếu một số vấn đề thực hiện có phát sinh trong giai đoạn
này không đưa đến phải tranh tụng để có phán quyết cuối cùng về vụ án như đã đề
cập ở phần trên thì việc chuẩn bị tranh tụng trong giai đoạn này được nhiều chủ thể
tham gia và thực hiện khẩn trương nhất. Giai đoạn này là tiền đề cho các giai đoạn
sau nên thực hiện tốt việc chuẩn bị thì chắc chắn chất lượng tranh tụng sẽ đạt mục
đích, chất lượng cao, hạn chế được việc hoãn phiên tòa làm cho việc xét xử và giải
quyết vụ án được nhanh chóng, không bị kéo dài, đảm bảo tiết kiệm thời gian, tiền
của cho các chủ thể tham gia tố tụng.
- Trong giai đoạn xét hỏi:
1
7
Đây là giai đoạn thực hiện kiểm tra công khai các chứng cứ làm cơ sở đưa ra
ý kiến về các vấn đề từ đó đánh giá và phán quyết về vụ án. Trong giai đoạn này có
nhiều chủ thể tham gia. Trong đó, đối với hội đồng xét xử thì chủ tọa phiên tòa là
người chủ trì, điều khiển việc xét hỏi để kiểm tra các chứng cứ đã thu thập. Trình tự
xét hỏi được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử đặt ra những
câu hỏi để làm rõ những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn, không nên hỏi về toàn
bộ nội dung vụ án mà cần xác định và nêu lên vấn đề để Kiểm sát viên, người bào
chữa hỏi để làm sáng tỏ nội dung và các tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử chủ
động hướng các bên đi vào trọng tâm vấn đề, tập trung lắng nghe làm cơ sơ thực hiện
thủ tục tiếp theo.
Kết quả tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập luận của các bên
trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần tranh luận.
- Trong giai đoạn tranh luận:
Đây là giai đoạn các bên trình bày luận điểm, luận cứ của mình về những vấn
đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy
định của pháp luật để đề xuất hướng xử lý phù hợp. Kiểm sát viên trình bày quan
điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa, người
tham gia tố tụng khác đưa ra, không được né tránh hoặc phát biểu “giữ nguyên quan
điểm”. Bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với
luận tội của Kiểm sát viên, đối đáp các ý kiến của Kiểm sát viên và chủ thể khác có
liên quan.
Hội đồng xét xử trong giai đoạn này lắng nghe trình bày và lập luận của các
bên, hướng các bên đi vào trọng tâm vấn đề tranh luận, đối đáp với nhau theo trình tự
tố tụng. Những vấn đề mà Kiểm sát viên chưa đối đáp lại với quan điểm của người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác thì Hội đồng xét xử yêu cầu Kiểm
1
8
sát viên phải có ý kiến đối đáp và thể hiện quan điểm rõ ràng đối với từng vấn đề mà
người tham gia tố tụng đưa ra.
- Trong giai đoạn nghị án và tuyên án :
Giai đoạn này Hội đồng xét xử phải đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã thẩm tra tại phiên
tòa và chỉ những vấn đề đã được thẩm tra tại phiên tòa thì mới được dùng làm căn cứ
để nhận định, đánh giá, kết luận và quyết định.
1.4.2. Xét theo từng hoạt động (mục đích) của tranh tụng Xét theo từng
hoạt động (mục đích) của tranh tụng, vai trò của tòa án trong tranh tụng thể hiện
khác nhau tùy theo hoạt động cụ thể như sau:
Thứ nhất, về vai trò của Tòa án trong việc đảm bảo sự có mặt đầy đủ của các
chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng:
Thể hiện ở việc Tòa án yêu cầu nhân chứng tham gia tố tụng tại phiên tòa
hoặc xác định tư cách người tham gia tranh tụng chưa được coi trọng trong mục tiêu
củng cố tình tiết vụ án:
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Tòa án có trách nhiệm tôn trọng và bảo
đảm quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ và yêu cầu triệu tập người làm chứng, đồ vật,
tài liệu ra xem xét hoặc việc xác định tư cách tham gia tố tụng. Tuy nhiên, đôi khi
việc quyết định trưng cầu các tài liệu, chứng cứ bổ sung, triệu tập thêm người làm
chứng hoặc xác định lại tư cách tham gia tố tụng của một cá nhân chưa được Hội
đồng xét xử đánh giá và thực hiện.
Thứ hai, về vai trò của Tòa án (Hội đồng xét xử) trong việc bảo đảm các
quyền của bị cáo tại phiên tòa, trong đó có việc được thực hiện đầy đủ quyền tranh
tụng:
Khi xét xử đa số các vụ án được Hội đồng xét xử đảm bảo cho bị cáo được
thực hiện các quyền của bị cáo tại phiên tòa như quyền được tham gia phiên tòa,
1
9
quyền được trình bày ý kiến tại phiên tòa, quyền được tranh luận tại phiên tòa, quyền
được nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án
Rõ ràng, Tòa án có vai trò quyết định trong việc bảo đảm quyền tranh tụng
của bị cáo được thực hiện hay không được thực hiện đầy đủ tại phiên tòa.
Thứ ba, vai trò của Tòa án trong việc yêu cầu và tạo điều kiện để bị cáo và
người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo tích cực tham gia vào
quá trình tranh tụng:
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mà nhất là chủ tọa
phiên tòa đã quan tâm và tạo điều kiện để cho người đại diện hợp pháp (đại diện theo
pháp luật) của bị cáo tham gia tranh tụng tại phiên tòa, được quyền trình bày ý kiến,
trả lời câu hỏi của người tiến tố tụng (Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên), người tham
gia tố tụng (người bào chữa), từ đó đã làm sáng tỏ được nhiều tình tiết quan trọng
của vụ án, góp phần vào việc xét xử vụ án được khách quan, toàn diện và đúng pháp
luật.
Thứ tư, vai trò của Tòa án (Hội đồng xét xử) trong việc định hướng xét hỏi
tại phiên tòa:
Hội đồng xét xử có vai trò định hướng xét hỏi tại phiên tòa, đề ra được đề
cương xét hỏi, đặt ra được các tình huống có thể phát sinh tại phiên tòa và có biện
pháp xử trí kịp thời, nên việc xét xử vụ án và kết tội bị cáo được nhanh chóng, đúng
pháp luật và thuyết phục.
Thứ năm, vai trò của Tòa án (Hội đồng xét xử) trong việc bảo đảm cho các
bên tranh luận được trình bày hết ý kiến, bảo đảm thời gian tranh luận.
Thứ sáu, vai trò của Tòa án (Hội đồng xét xử) trong việc xác định tội danh
của bị cáo thông qua tranh tụng:
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa đa số các vụ án đã được Hội đồng xét xử
thực hiện việc kiểm tra chứng cứ đầy đủ, đánh giá chứng một cách khách quan, toàn
2
0
diện, xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm và quá trình tranh luận tại phiên tòa để
xác định chính xác tội danh của bị cáo.
Thứ bảy, vai trò của Tòa án (Hội đồng xét xử) trong việc xác định có hay
không việc bỏ lọt (bỏ sót) hành vi phạm tội của bị cáo trong quá trình tranh luận tại
phiên tòa.
Thứ tám, vai trò của Tòa án (Hội đồng xét xử) trong việc xác định và áp
dụng tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo dựa vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa:
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa đa số các vụ án đã được Hội đồng xét xử
xem xét xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị
cáo, từ đó đã áp dụng đúng pháp luật khi lượng hình.
Thứ chín, vai trò của Tòa án trong việc từ kết quả tranh luận, đưa ra phán
quyết, bản án và quyết định đúng đắn:
Khi xem xét phán quyết của Tòa án, nếu không dựa trên kết quả tranh luận
tại phiên tòa, nhiều phán quyết là không có cơ sở đánh giá. Bên cạnh đó, còn có
trường hợp quá trình lập luận, tranh luận tại phiên tòa và nội dung bản án và biên bản
phiên tòa khác nhau về nhiều tình tiết. Nhiều biên bản nghị án và phán quyết của Hội
đồng xét xử được làm theo mẫu chung từ các vụ án giống nhau về hành vi, chỉ thay
đổi về tình tiết vụ án khiến không tránh khỏi những lỗi văn bản cho thấy quá trình
tranh tụng không được đề cập chi tiết và cụ thể trong bản án.
Khi tranh luận và đối đáp, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của
đương sự đã chuẩn bị bản luận cứ tập trung phân tích các tình tiết, diễn biến vụ việc
qua thẩm tra tại phiên tòa, lời buộc tội của Kiểm sát viên; trên cơ sở đối chiếu quy
định của pháp luật nhằm gỡ tội cho bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩ
vụ liên quan ...). Thực tế, Luật sư cũng là người tích cực nhất trong việc đối đáp các
2
1
luận điểm mà Kiểm sát viên đưa ra. Nhiều lập luận của luật sư đưa ra đã giúp làm
sáng tỏ tình tiết của vụ án. Do vậy, Tòa án (Hội đồng xét xử) cần tạo điều kiện để
chủ thể này được thể hiện vai trò tích cực của mình trong đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng.
1.5. Quy định của pháp luật Việt Nam về vai trò của tòa án trong tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1.5.1. Giai đoạn trước Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 Sau Cách mạng tháng
Tám, cùng với việc kiện toàn chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
33c ngày 13 tháng 9 năm 1945 về việc thành lập Tòa án quân sự, trong đó có quy
định “bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho họ”.
Quá trình phát triển pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam chịu ảnh hưởng
lớn từ mô hình pháp luật tố tụng của Pháp và Xô Viết (Liên Xô), mang đậm phong
cách Châu Âu lục địa. Tranh tụng thời kỳ Pháp thuộc là sự sao chép cơ bản Bộ luật
Tố tụng hình sự của Pháp giai đoạn này. Sau năm 1945, hệ thống cơ quan tư pháp
được hình thành nhưng vẫn bị chi phối bởi Bộ luật Tố tụng hình sự. Theo Hiến pháp
năm 1946, các chức năng của các chủ thể trong Tố tụng hình sự cũng đã được quy
định khá rõ. Trong đó, Điều 65 Hiến pháp 1946 quy định về sự tham gia của phụ
thẩm nhân dân. Điều 69 quy định các phiên tòa đều phải công khai, trừ trường hợp
đặc biệt; người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc nhờ Luật sư bào chữa. Vai trò
của tranh tụng cũng được hỗ trợ bởi Điều 2 Sắc lệnh số 46 ngày 10 tháng 10 năm
1945 quy định về tổ chức của các đoàn thể Luật sư, trong đó chỉ rõ các Luật sư có
quyền làm nhiệm vụ bào chữa trước tất cả các Tòa án cấp tỉnh trở lên và trước tất cả
các Tòa án quân sự.
Trong giai đoạn Hiến pháp năm 1959 và 1980, mô hình tổ chức hệ thống Tòa
án đã dần dần được hoàn thiện, tuy nhiên các quy định về tranh tụng chưa được quan
tâm thỏa đáng. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định “quyền bào chữa
2
2
của bị cáo được bảo đảm”. Tiếp đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và sau đó là
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là hai văn bản phản ánh khá trung thực khi không
đề cập tới quyền tranh tụng tại phiên tòa.
Từ năm 2002, thuật ngữ “Tranh tụng” được sử dụng trong Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 vẫn chưa ghi
nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự.
1.5.2. Giai đoạn từ Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đến nay
Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập từ hoạt động xét xử không đảm bảo
tranh tụng, khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: Nguyêntắctranhtụngtrongxét
xửđượcbảođảm. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015). Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo
quyền con người, quyền công dân theo hiến định, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau:
“Trongquátrìnhkhởitố,điềutra,truytố,xétxử,Điềutraviên,Kiểmsát viên, ngườikhác có thẩmquyềntiến hành tốtụng,ngườibịbuộc
tội,người bào chữa và người thamgia tốtụngkhácđều có quyềnbìnhđẳng trong việcđưa ra chứngcứ,đánh giá chứngcứ,
đưa ra yêucầuđể làm rõsựthật khách quancủavụán Có thể thấy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
đã quy định rõ mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng trong đó có vị
thế của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng
cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình
đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ
quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Có thể nói chỉ trên cơ sở bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới
đảm bảo chất lượng, có tính thực thi.
“Tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án”. Theo đó xác định rõ Tòa án có
trách nhiệm tạo điều kiện cho những chủ thể tranh tụng là Kiểm sát viên, bị cáo,
2
3
người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa
vụ của mình và hoạt động tranh tụng tiến hành trên cơ sở dân chủ, bình đẳng. Tại
phiên tòa các chủ thể tranh tụng bình đẳng với nhau trên cơ sở đưa ra quan điểm, tài
liệu, chứng cứ, phân tích đánh giá để lập luận, đối đáp bảo vệ quan điểm của mình.
“Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều luật của Bộ luật
hình sự, các Luật khác có liên quan để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức
bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý
nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản
án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết
quả tranh tụng tại phiên tòa”. Đây là một trong những điểm mới, tiến bộ nhất được
ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tất cả tài liệu chứng cứ liên quan
đến vụ án đều phải được xem xét, đánh giá, tranh luận làm rõ tại phiên tòa; bản án,
quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chấp nhận
hay không chấp nhận phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định, điều này thể hiện rõ
nét tính ưu việt khi kết hợp giữa mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn.
Với chủ trương Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nhiều quy
định để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, cụ thể: Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị
của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu
tập người làm chứng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
khác đến phiên tòa; về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa;
đề nghị của bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa về việc thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Điều 279 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015). Bên cạnh đó, nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn
2
4
chế ở một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều Luật sư tham gia, nhưng đối với
Kiểm sát viên Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ cho phép tối đa 02 Kiểm sát
viên tham gia. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này
theo hướng: Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn
phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều
Kiểm sát viên (khoản 1 Điều 289 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)...
Đặc biệt, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo việc
tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể hiện ngay trong
phần xét hỏi, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
với thủ tục tranh luận tại phiên tòa thành “thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V,
chương XXI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy
định về trình tự xét hỏi, theo đó, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ những tình
tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án và từng người. Chủ tọa phiên tòa điều hành
việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý (khoản 1 Điều 307
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)... Để có cơ sở tranh luận dân chủ tại phiên tòa,
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định về nội dung luận tội của
Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng
cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị
cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự,
những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại,
xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình
tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp
2
5