Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

TÀI LIỆU GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN Biên soạn : THÁI THỊ NGỌC DƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.47 KB, 115 trang )

BỘ   GIÁO   DỤC   VÀ   ĐÀO   TẠO 
ĐẠI   HỌC   MỞ   –  BÁN   CÔNG   TP.   HCM 
KHOA   Xà  HỘI   HỌC 
 
 
 
 
 
 
 
TÀI   LIỆU 
 
GIỚI   VÀ   PHÁT   TRIỂN 
 
 
 
 
Biên   soạn   :   THÁI   THỊ   NGỌC   DƯ 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NĂM   2004 
 


 
 


 
 


CHƯƠNG   I 
TỔNG   QUAN   VỀ   PHỤ   NỮ   HỌC   VÀ   KHOA   HỌC   VỀ   GIỚI:    QUÁ   TRÌNH   PHÁT 
TRIỂN,   ĐẶC   ĐIỂM,   MỤC   TIÊU 
 
I.
Giới   thiệu   khái   quát   chương   I 
Chương  I  giới  thiệu  quá  trình  phát  triển  của  ngành  phụ  nữ  học  và khoa học về giới ở 
các  đại  học  và  trung  tâm  nghiên  cứu  trên  thế  giới  và  ở  Việt  Nam,  sự  thừa  nhận  tính chất 
khoa   học   của   ngành   này,   mục   tiêu   và   đặc   điểm   của   ngành   học. 
 
II.
Những   điều   sinh   viên   cần   đạt   được    sau   khi   học   chương   này 
1. PNH   là   một   ngành   học   mới   mẻ   nhưng   phát   triển   nhanh 
2. PNH   đã   có   điều   kiện   phát   triển   tại   các   đại   học   ở  Việt   Nam 
3. Mục  tiêu  của  PNH  và  của  khoa  học  về  giới  là  tìm  hiểu  tình  trạng  bất  bình 
đẳng giới, những thiệt thòi của phụ nữ, những phương hướng thực hiện bình 
đẳng   giới   tại   các   nước,   các   vùng   khác   nhau   trên   thế   giới. 
III.
Tài   liệu   tham   khảo 
Phụ   lục   2:    Chiến   lược   phát   triển   vì   sự   tiến   bộ   của   phụ   nữ   Việt   Nam   tới   năm   2000.   
Nhà   xuất   bản   Phụ   nữ,  H
  ồ   Chủ   Tịch   với   vấn   đề   giải   phóng   phụ   nữ,   1976 

 
     I  V.     Nội   dung   cơ   bản 
 
1.     Từ   phụ   nữ   học   đến   giới   và   phát   triển 
 
Ngày  nay,  trong  nghiên  cứu  và  giảng dạy về các mối quan hệ xã hội giữa nam giới 
và  nữ  giới,  về  các  vấn  đề  bất  bình  đẳng  giữa  nam  giới  và  nữ  giới,  thuật  ngữ   giới,  bình 
đẳng  giới,  giới,  giới  và  phát  triển  ngày  càng  được  dùng  thay  cho  các  thuật  ngữ   phụ  nữ 
học,  giải  phóng  phụ  nữ,  bình  đẳng  nam  ­nữ .  Có  thể  nói  nghiên  cứu  về  giới  là  một  giai 
đoạn  phát  triển  mới  của  phụ  nữ  học,  do  đó  giới  không  tách  rời  phụ  nữ  học.  Nội  dung 
nghiên  cứu  vẫn  chú  trọng  đến  tình  trạng  thiệt  thòi  của  phụ nữ và các chiến lược tiến đến 
xóa  bỏ  phân  biệt  đối  xử  đối  với  phụ  nữ,  nhưng  cách tiếp cận có thay đổi. Thay vì chỉ chú 
trọng  đến  phụ  nữ,  khoa  học  về  giới  chú  trọng  đến  phụ  nữ trong mối quan hệ giữa nữ giới 
và nam giới. Có nghĩa là các vấn đề bình đẳng nam­nữ, phát triển, xóa bỏ phân biệt đối xử 
đối  với  phụ  nữ  liên  quan  đến  cả nữ giới lẫn nam giới. Cải tiến mối quan hệ nữ giới – nam 
giới   là   trọng   tâm   của   khoa   học   về   giới. 
 
Như  vậy,  ngày  nay,  hai  thuật  ngữ   phụ  nữ  học  và   giới  đều đang được giới nghiên 
cứu  và  giảng  dạy  sử  dụng  để  nói  về  những  nội  dung  nghiên  cứu  tương  tự  liên  quan  đến 
tình  trạng  thiết  thòi  của phụ nữ và các vấn đề bình đẳng giới. Một điều cần lưu ý là không 
nên  xem  các  các  vấn  đề  giới  là  những  vấn  đề  riêng  của  phụ  nữ.  Cách  nhìn  và  cách  hiểu 
này  vẫn  còn  tồn  tại  ở  nhiều  người.  Theo  nhãn  quan  của  họ,  phụ  nữ  hay  giới  cũng  đều  là 
những  vấn  đề  riêng  của  phụ  nữ,  không  liên  quan  đến  nam  giới.  Cần  nêu  rõ  đây  là  một 
cách   nhìn   không   đúng   với   quan   điểm   của   khoa   học   về   giơi.  

 
 


 

Lịch  sử  phát  triển  của  khoa  học về giới khởi đi từ phụ nữ học, do đó, các phần tiếp 
theo   sẽ   trình   bày   về   sự   phát   triển   của   phụ   nữ   học. 
 
2.   Sự   phát   triển   của   ngành   phụ   nữ   học   như   là   một   khoa   học 
 
Từ  nửa  sau  thập  niên  1960,  bắt  đầu  xuất  hiện  những  bài  giảng  về  nữ  quyền  ở  các 
trường  đại  học.  Năm  1970,  thuật  ngữ  phụ  nữ  học  (PNH)  được  dùng  lần  đầu  tiên  cho 
những  giáo  trình  để  chỉ  những  giáo  trình  này.  Ở  Mỹ,  dù  bị  chống  đối  mạnh  mẽ,  phụ  nữ 
học   đã   phát   triển   nhanh   chóng   : 
 
Số  giáo  trình  tăng  lên  nhiều.  Phụ  nữ  học  trở  thành  chương  trình  đào  tạo  ở  bậc  cử 
nhân   và   sau   đại   học.   Số   người   tham   gia   nghiên   cứu   về   nữ   quyền   gia   tăng   mạnh   mẽ. 
 
Ở  Pháp,  trước  thập  niên  1990,  các  chương  trình  và  các  cấp  bằng  về  phụ  nữ  học 
thường  không  được  đa  số  giảng  viên/  giáo  sư  đại học chấp nhận. Gần đây, người ta nhận 
thấy   ngày   càng   có   nhiều   môn   học   trong   một   số   ngành   có    kết   hợp/lồng   ghép   yếu   tố   giới
.  Trong  lúc  các  trung  tâm  nghiên  cứu  phụ  nữ  hiện  hữu  ở  các  đại  học  Lyon  11,  Paris  7, 
Paris  8,  Rennes,  Toulouse  2  tiếp  tục  thu  hút  sinh  viên  theo  học  các  môn  phụ  nữ  học,  thì 
các  nhóm/  trung  tâm  nghiên  cứu mới về PNH  ở Nantes, Lille, đã trở nên rất tích cự trong 
giảng  dạy  và  giảng  dạy  về  phụ  nữ học. Các trung tâm này tổ chức thường xuyên các cuộc 
hội  thảo,  phối  hợp  các  chương  trình  đào  tạo,  hướng  dẫn  luận  án  tiến  sĩ và cao học, cung 
cấp  tư  liệu  cho  sinh  viên.  Các  trung  tâm  PNH  này  mở  rộng  phạm  vi  hoạt  động,  hợp  tác 
với  các  tổ  chức  ngoài  đại  học,  tìm  nguồn  kinh  phí  hỗ  trợ  ở  các  tổ  chức  chính  phủ  và  phi 
chính  phủ. Các chương trình cao học về PNH  dần dần được thừa nhận ở các đại học Pháp 
trong   thập   niên   1990. 
 
Như  vậy,  phụ  nữ học là một khoa học mới mẽ nhưng phát triển rất nhanh chóng tại 
hầu   hết   các   ác   đại   học   trên   thế   giới. 
 
Điểm  khác  biệt  với  các  ngành  khoa  học  xã  hội  truyền  thống khác là những nghiên 

cứu  về  phụ  nữ  xuất  phát  trước  tiên  từ  những  phong  trào  chính  trị,  xã  hội  ở  ngoài  các 
trường   đại   học. 
 
Điểm  phân  biệt  những  người  nghiên  cứu  về  phụ  nữ  với  các  chuyên  gia  trong  các 
khoa   học   truyền   thống   là   họ   hướng   tới   một   phong   trào   góp   phần   cải   tiến   xã   hội. 
 
Các  hội  nghị  quốc  tế  về  phụ  nữ  đã  có  ảnh  hưởng  sâu  rộng  đến  các  nghiên  cứu  về 
phụ   nữ.   Đã   có   các   hội   nghị   quốc   tế   về   phụ   nữ   vào   các   năm   : 
 
● 1975   :    Mexico   (Mexico) 
● 1980   :    Copenhagen   (Đan   Mạch) 

 
 







1985   :    Nairobi   (Kenya) 
1995   :    Bắc   Kinh   (Trung   Quốc) 
2000  :  Bắc  Kinh  +5  tại  New  York  (Mỹ) tại phiên họp đặc biệt thứ 23 của Đại 
hội   đồng   Liên   Hiệp   Quốc   (LHQ). 
2005:  Bắc  Kinh  +  10  tại  New  York  (Mỹ)  tại  phiên  họp  đặc  biệt  thứ  49  của 
Đại   hội   đồng   Liên   Hiệp   Quốc   (LHQ). 

 
 

Sau   hội   nghị   Mexico,   Liên   Hiệp   Quốc   đã   đề   ra   thập   kỷ   phụ   nữ   từ   1976   đến   1985. 
 
Sau  hội  nghị  ở Copenhagen, một mạng lưới các nhà nghiên cứu về PNH được thiết 
lập,  mạng  lưới  này  hoạt  động  hữu  hiệu  trong  năm  năm  từ  1980  đến  1985.  Hội  nghị 
Nairobi  năm  1985  có  số  người  tham  dự  đông  gấp bốn lần hội nghị Copenhagen, có nhiều 
đoàn từ các nước đang phát triển. Hội nghị Nairobi đánh giá những kết quả đạt được trong 
thập  kỷ  phụ  nữ,  và  đề  ra  chiến  lược  “BÌNH  ĐẲNG,  PHÁT  TRIỂN,  HÒA  BÌNH”.  Tại 
diễn  đàn  của  các  tổ  chức  phi  chính  phủ  tại  hội  nghị  quốc  tế  về  phụ  nữ ở Bắc Kinh, đã có 
khoảng  30.000  người  tham  dự.  Hội  nghị  đánh  giá  việc  thực  hiện  chiến  lược  đã  đề  ra  ở 
Nairobi.  Dưới khẩu hiệu “Nhìn thế giới qua mắt người phụ nữ”, nhiều chủ đề của hội nghị 
cho  thấy  sự  gắn  kết  của  phụ  nữ  vào  những  vấn  đề  chung  của  thế  giới  như  toàn  cầu  hóa, 
chiến   tranh   và   hòa   bình,   phát   triển,   môi   trường. 
 
Hội  nghị  Bắc  Kinh  +5  về  phụ  nữ  diễn  ra  từ  ngày  5 đến ngày 10 tháng 6 năm 2000 
trụ   sở   Liên   Hiệp   Quốc,   New   York   (Mỹ). 
 
Khóa  họp  đặc  biệt  lần  thứ  23  của  Đại  hội  đồng  Liên  Hiệp  Quốc  có  chủ  đề  :  “Phụ 
nữ  năm  2000  :  Bình  đẳng  giới,  Phát triển và Hòa bình cho thế kỷ 21” (gọi tắt là Bắc Kinh 
+5). 
 
Năm  1995,  Hội  nghị  Thế  giới  lần  thứ  4  về  Phụ  nữ  diễn  ra  tại  Bắc  Kinh  (Trung 
Quốc)  đã  thông  qua  Tuyên  bố  Bắc  Kinh  và  Cương  lĩnh  Hành  động toàn cầu vì sự tiến bộ 
của  phụ  nữ  (CLHĐ).  Sau  5  năm  triển  khai  thực  hiện, LHQ quyết định triệu tập Khóa họp 
đặc  biệt  này  nhằm  mục  đích  đánh  giá  tình  hình  thực  hiện  CLHĐ  và  xác  định  các  sáng 
kiến   và   hành   động   tiếp   theo   để   đạt   được   bình   đẳng   giới   cho   Thế   kỷ   21. 
 
Đây  là  lần  đầu  tiên  có  Khóa  họp  đặc  biệt  của  Đại  hội  đồng  LHQ  về  phụ  nữ.  Hội 
nghị  được  triệu  tập  để  tạo cơ hội cho các Chính phủ một lần nữa khẳng định cam kết thực 
hiện   đầy   đủ   các   mục   tiêu   của   CLHĐ. 
 

Tham  gia  Hội  nghị  có  đại  biểu  của  189  quốc  gia  thành  viên,  đại  diện  các  cơ  quan 
LHQ  và  các  cơ  chế  quốc  tế,  khu  vực,  các  tổ  chức  phi  chính  phủ.  Tổng cộng có khoảng 1 
vạn  đại  biểu,  trong  đó có 6 Phó Tổng thống, 1 Thủ tướng, 6 Phó Thủ tướng, 99 Bộ trưởng 
hoặc   tương   đương,   64   Thứ   trưởng   hoặc   tương   đương. 

 
 


 
2.    Một   số   đặc   điểm   của   phụ   nữ   học. 
 
Từ  hàng  bao  thế  kỷ,  phụ  nữ  đã  là  một  đối  tượng  nghiên cứu, vậy phụ nữ học ngày 
nay  có  gì  khác?  Theo  Sheila  Ruth,  những công trình nghiên cứu phụ nữ trước đây thường 
có   quan   điểm   : 
 
● phụ   nữ   thường   được   nhìn   vào,   ít   khi   phụ   nữ   có   được   cái   nhìn   riêng   về   mình. 
● phụ  nữ  được  nghiên  cứu trong một phần nào đó của công trình như là một phần 
phụ   thuộc. 
● có  những  quan  điểm  “ghét  phụ  nữ”.  Thành  kiến  đối  với  phụ  nữ  dần  dần  trở 
thành   một   lý   thuyết   khoa   học   và   được   chấp   nhận. 
 
Theo  một  số  nhà  khoa  học,  nếu  các nghiên cứu về phụ nữ không xuất phát từ quan 
điểm  xem  phụ  nữ  là  một  tầng  lớp  bị  áp  bức  thì  không  thuộc  phạm  vi  nghiên  cứu  phụ  nữ 
học  hiện  đại.  Một  số  khác  đề  nghị  cách  tiếp  cận trung dung hơn, không nhất thiết phải có 
thiên   kiến   về   tình   trạng   bị   lệ   thuộc   của   phụ   nữ. 
 
Tính   chất   liên   ngành   của   phụ   nữ   học. 
 
Tiếp  cận  liên  ngành  là điều không thể thiếu trong khi nghiên cứu phụ nữ học. PNH 

có  mối  liên  hệ  chặt  chẽ  với  các  ngành  khoa  học  xã  hội  khác  như  xã  hội  học,  tâm  lý  học, 
dân  tộc  học,  luật,  lịch  sử,  y  học,  môi  trường.  Trong  khi  nghiên  cứu, PNH chú ý các điểm 
tương   đồng   và   dị   biệt   giữa   nam   và   nữ   giới. 
 
Nghiên  cứu  các  vấn  đề  xã  hội  với  quan  điểm  tiếp  cận  giới  sẽ  làm  thay  đổi  cách 
nhìn   nhận   vấn   đề   cũng   như   các   đề   nghị   về   giải   pháp. 
 
Xuất  phát  từ  các  phong  trào  giải  phóng  phụ  nữ, đấu tranh cho nữ quyền nên PNH 
có  tính  mục  đích,  tính  ứng  dụng  rất  cao.  Đây  là  một  lãnh  vực  nghiên  cứu  liên  kết 
chặt  chẽ  giữa  lý  thuyết  và  thực  hành,  giữa  nhà  nghiên  cứu  và  những  người  tham 
gia   phong   trào,   xây   dựng   dự   án. 
 
3.    Nội   dung   và   mục   tiêu   của   phụ   nữ   học. 
 
Phụ  nữ  học  là  một  khoa  học  mới  lại  phát  triển  nhanh,  nên  chưa có một định nghĩa 
được   đại   đa   số   chấp   nhận. 
 
Theo  Bách  khoa  Tự  điển  Wikipedia,  PNH  là  một  khoa  học  liên  ngành  nghiên cứu 
những  vấn  đề  liên  quan  đến  phụ  nữ,  nữ  quyền,  giới và chính trị. PNH thường bao gồm lý 
thuyết  về  nữ  quyền,  lịch  sử  phụ  nữ,  lịch  sử  xã  hội,  văn  học  phụ  nữ,  sức  khỏe  phụ  nữ, 
nghiên   cứu   về   giới. 

 
 


Vào  cuối  thập  niên  1960,  PNH  được  thiết  lập  như  là  một  ngành  học  riêng biệt, đó 
là  lúc làn sóng thứ hai của nữ quyền  đã đạt được những thắng lợi trong giới khoa học nhờ 
những   họat   động   tích   cực   của   giảng   viên   và   sinh   viên. 
 

Ruth  quan  niệm rằng PNH là một tiến trình, một mảnh đất mới được khai phá. Một 
số  nhà  nghiên  cứu  Úc  cho  rằng  lúc  đầu  PNH  gắn  với  phong  trào  giải  phóng  phụ  nữ, tiến 
đến  xóa  bỏ  những  bất  bình  đẳng  về  giới  và  giải  phóng  phụ  nữ.  Gần  đây,  những  người 
sáng  lập  Hội  Quốc  gia  nghiên  cứu  về  phụ  nữ  ở  Úc  cho  rằng  PNH  là  một chiến lược giáo 
dục  nhằm  tiến  đến  những  đổi  mới  trong  xã  hội.  Lý  do  là  vì  xã  hội  mà  ta  đang  sống  còn 
phân   biệt   giới   tính,   người   phụ   nữ   còn   bị   hạ   thấp   phẩm   giá,   bị   lệ   thuộc   và   bị   ngược   đãi. 
 
Các   mục   tiêu   của   phụ   nữ   học   : 
 
● Phân  tích  tính  thống  trị  của  các  quan  điểm của nam giới trong kiến thức lịch sử, tạo ra 
những  kiến  thức  mới  và  những  giá  trị  mới  thông  qua  việc  nghiên  cứu  tích  cực  kinh 
nghiệm   của   phụ   nữ. 
● PNH  nhằm  đạt  đến  sự thay đổi ý thức của phụ nữ về chính người phụ nữ : hình ảnh, tư 
cách,   quyền   lợi,   vị   trí,   sự   tham   gia   của   người   phụ   nữ   trong   thế   giới.  
● Thay  đổi  những  ước  vọng  của  phụ  nữ  dựa  trên  cơ  sở  ý  thức đã được thay đổi, lòng tự 
tin  đã  được  củng  cố,  từ  đó  người  phụ  nữ  có  những  lựa  chọn  mới  cho  mình  và  cho  xã 
hội. 
● Cải  thiện  những  quan  hệ  giữa  nam  và  nữ  giới,  tiến  tới  quan  hệ  hợp  tác,  tôn  trọng  lẫn 
nhau. 
● Gây  ý  thức  ở  mọi  tầng  lớp,  nam  cũng  như  nữ,  về  những  giá  trị  của  cuộc  sống  :  lòng 
nhân   ái,   công   bằng   xã   hội,   chất   lượng   cuộc   sống. 
● Xóa   bỏ   mọi   hình   thức   phân   biệt   đối   xử   với   phụ   nữ. 
● Chấm   dứt   cuộc   chạy   đua   đến   sự   phá   hủy   hành   tinh,   tăng   cường   bảo   vệ   môi   trường. 
● Đấu   tranh   cho   hòa   bình   của   thế   giới. 
 
Về   tình   trạng   lệ   thuộc   của   phụ   nữ   : 
 
Một  thực  tế  kéo  dài  trong  lịch  sử  và  ở  khắp  nơi  trên  thế  giới  là  phụ  nữ  có  địa  vị 
thấp  kém  hơn  nam  giới  trong  gia  đình  cũng  như ngoài xã hội, phụ nữ bị áp bức, bị đối xử 
không   bình   đẳng. 

 
Mặc  dù  phụ  nữ  tham  gia  vào  các  hoạt  động  sản xuất, vào công cuộc đấu tranh bảo 
vệ  tổ  quốc,  nhưng  rất  ít  tài  liệu  viết  về  lịch  sử của phụ nữ, cho nên ngay chính người phụ 
nữ  cũng  không  hiểu  rõ  bản  sắc  của  chính  mình.  Điểm  qua  lịch  sử,  ta thấy phụ nữ bị tước 
mất  các  phương  tiện để tự nhận thức về mình. Vì vậy, phụ nữ thường có xu hướng tin vào 
những  hình  ảnh huyền thoại về mình, hình ảnh do nam giới vẽ ra, ngay cả khi hình ảnh đó 
xung  đột  với  thực  tại.  Phụ  nữ  bị  ngăn  cản  nên  không thể nhận biết về mình. Phụ nữ được 
dạy  rằng chỉ cần biết người khác nhìn về mình như thế nào là đủ cho sự tồn tại của phụ nữ 

 
 


rồi. 
 
4.    Nghiên   cứu   và   đào   tạo   về   giới   ở  Việt   Nam   và   ở  TP.   HCM 
 
4.1.  Từ  nghiên  cứu  phụ  nữ  đến  nghiên  cứu  về  giới,  mối  quan  tâm  ngày  càng  gia  tăng 
trong   thập   niên   1990. 
 
Tại  Việt  Nam,  những  nghiên  cứu  về  phụ nữ đã được tiến hành tương đối sớm. GS. 
Lê thị Nhâm Tuyết đã cho xuất bản quyển sách “ Truyền thống phụ nữ Việt Nam” ngay từ 
những  năm  1960,  và  sách  này  đã  được  dịch  ra  tiếng  Pháp  và  tiếng  Anh.  Tuy  nhiên,  phải 
đợi  đến  thập  niên  1980  nghiên  cứu PNH mới thật sự có vị trí trong giới khoa học với việc 
thành  lập  Trung  tâm  nghiên  cứu  khoa  học  về  phụ  nữ  do  Giáo  sư  Lê  Thi  làm  giám  đốc. 
Cũng  trong  thời  gian  này,  Trung  tâm  nghiên  cứu  về  Giới,  Gia  đình  và  Môi  trường  trong 
phát  triển  (CGFED)  được  thành  lập  do  Giáo  sư  Lê  thị  Nhâm  Tuyết  làm  giám  đốc.  Điểm 
đáng  lưu  ý  là  CGFED  là  một  cơ  quan  nghiên  cứu  mang  tính  chất  phi  chính  phủ,  tự  hạch 
tóan,   không   có   kinh   phí   của   nhà   nước. 
 

Có  thể  nói  rằng  tại  Việt  Nam  cũng  như  tại  TP.HCM, cho đến thập niên 80, nghiên 
cứu  phụ nữ học như là một hoạt động khoa học hãy còn xa lạ đối với nhiều người. Lúc ấy, 
nói  đến  phụ  nữ,  người ta dễ dàng liên tưởng đến Hội Liên Hiệp Phụ Nữ như là một phong 
trào   chính   trị   xã   hội,   hoạt   động   dưới   khẩu   hiệu   giải   phóng   phụ   nữ,   nam   nữ   bình   quyền. 
 
4.1.1.  Đầu  thập  niên  90,  các  cơ  quan nghiên cứu về phụ nữ và các tổ chức hoạt động của 
phụ   nữ   và   vì   phụ   nữ   tại   TP.HCM   còn   rất   hiếm   hoi.   Chỉ   có   : 
 
● Trung  tâm  Nghiên  cứu  Khoa  học  về  Phụ  Nữ  thuộc  Viện  Khoa  học  Xã  hội  TP.HCM, 
sau  đó  đổi  tên  là  Trung  tâm  Nghiên  cứu  Khoa  học  về  Phụ  nữ  và  Gia  đình  và  nay  là 
Trung  tâm  Nghiên  cứu  về  Giới  và  Phát  triển.  Các  chủ  đề  nghiên  cứu  của  Trung  tâm 
chú trọng đến việc phân tích địa vị, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã 
hội,   phụ   nữ   và   hạnh   phúc   gia   đình,   tình   trạng   học   vấn   của   phụ   nữ… 
● Hội  Liên  Hiệp  Phụ  Nữ  chú  trọng  đến  các  hoạt  động  xã  hội,  nhằm  vận  động  phụ  nữ 
tham  gia  thực  hiện  các  chủ  trương  chính  sách  của  nhà  nước.  Các  hoạt động vì phụ nữ 
của  hội  thường  ở  mức độ đem lại phúc lợi cho phụ nữ, đặc biệt là trong lãnh vực chăm 
sóc   sức   khỏe   bà   mẹ   và   trẻ   em. 
 
Kế  hoạch  hóa  gia  đình  là  công  việc  của  ngành  y  tế,  phụ  nữ  là  đối  tượng vận động 
chủ  yếu,  các  phương  thức còn nặng về mệnh lệnh và nhẹ về nâng cao nhận thức, hiểu biết 
và   tính   tự   nguyện. 
 
● Một ít nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội có đề cập đến vai trò của phụ nữ như là một 
tác  nhân  phát  triển  nhưng  những  kiến  thức  ấy  rất  hạn  chế  trong  một  số  ít người, chưa 
đủ   sâu   rộng   để   tạo   thành   một   trào   lưu   nhận   thức   trong   giới   nghiên   cứu. 

 
 



 
4.1.2.  Tuy  đã  có  hội  nghị  Nairobi  về  phụ  nữ  năm  1985  với  chiến  lược  bình  đẳng,  phát 
triển,  hòa  bình,  nhưng  những  thông tin về các xu hướng mới này còn ít và gián đoạn. Cho 
đến  những  năm  cuối  của  thập  kỷ  80,  Việt  Nam  mới  mở  cửa  chưa  lâu,  do  đó  các  nguồn 
thông  tin,  trao  đổi  với  giới  nghiên  cứu  và  với  các  nhà  hoạt  động  nữ  quyền  trên  thế  giới 
còn   rất   thưa   thớt. 
 
Có  thể  nói  rằng  tại  TP.HCM,  cho  đến đầu thập niên 90, các khái niệm về giới, tiếp 
cận  các  vấn  đề  theo  quan  điểm  giới  chưa  được  những  người  nghiên  cứu  về  phụ  nữ  biết 
đến.  Điều  thuận  lợi  là  Nhà  nước  Việt  Nam  có  chính  sách  giải  phóng  phụ  nữ,  chủ  trương 
bình  đẳng  nam  nữ, nhờ vậy những nghiên cứu về phụ nữ cũng được phát triển theo hướng 
“tăng  quyền  lực  cho  phụ  nữ”,  như  ngôn  ngữ  chúng  ta  dùng  ngày  nay. Các chủ đề phụ nữ 
trong  khoa  học  kỹ  thuật, phụ nữ tham gia sản xuất, đề xuất các chính sách hỗ trợ lao động 
nữ…  thường  được  đề  cập  đến.  Tuy  nhiên,  xu  hướng nghiên cứu là chú ý khai thác những 
ưu  thế,  nêu  gương  phụ  nữ  vượt  khó  khăn  để  thành  công,  hơn  là  chú  ý  nghiên  cứu những 
vấn   đề,   những   cản   trở   đối   với   người   phụ   nữ   trên   con   đường   tiến   đến   bình   đẳng   giới. 
 
4.2.  Tác  động  của  các  phong  trào,  hội  nghị  thế  giới  và  của  bối  cảnh  kinh  tế  xã  hội  mới 
đối   với   phát   triển   nghiên   cứu   về   giới   trong   thập   niên   90. 
 
4.2.1.  Các  hội  nghị  thế  giới  có  tác  động  mạnh  mẽ  nhất  đến  sự  phát  triển  nghiên  cứu  về 
giới  là  hội  nghị  thế  giới  về  dân  số  và  phát  triển  Cairo  năm  1994  và  nhất  là  hội  nghị  thế 
giới  về  phụ  nữ  lần  thứ  tư  ở  Bắc  Kinh  năm  1995.  Lần  đầu  tiên  phụ  nữ  Việt  Nam có được 
một  đoàn  đại  biểu  đông  đảo  đến  gần  150  người,  với  thành  phần  rất  đa  dạng,  bao  gồm 
nhiều  người  trong  các  lãnh  vực  hoạt  động  khác  nhau.  Phụ  nữ  TP.HCM cũng có dịp tham 
gia   đông   đảo   vào   sự   kiện   này. 
 
Từ  sau  hai  hội  nghị  ấy,  những khái niệm, thuật ngữ liên quan đến khoa học về giới 
đã  trở  nên  quen  thuộc  hơn.  Truyền  thông,  báo  chí  đã  đóng  một  vai  trò  quan  trọng  trong 
việc   quảng   bá   những   kiến   thức   này. 

 
● Cách  tiếp  cận  nghiên  cứu  sức  khỏe  từ  góc  độ khoa học xã hội, sức khỏe cộng đồng đã 
được   hiểu   và   được   chú   ý  phát   triển. 
● Các  khái  niệm  sức  khỏe  sinh  sản,  quyền  của  phụ  nữ  trong  việc  lựa  chọn  số  con  và 
khoảng  cách  giữa  các  lần  sinh  được  phổ  biến  rộng  rãi  hơn  nhờ các chương trình huấn 
luyện   và   truyền   thông   về   dân   số. 
 
4.2.2 .  Sự  tham  gia  của  các  tổ  chức  quốc  tế,  các  tổ  chức  phi  chính  phủ  vào  các  chương 
trình  phát  triển đã góp phần phổ biến những cách tiếp cận mới các vấn đề phát triển, trong 
đó  vai  trò  của  phụ  nữ  như  là  chủ  thể  phát  triển  luôn  được  nhấn  mạnh.  Nhiều  lớp  huấn 
luyện được tổ chức tại các địa phương, nhiều kinh nghiệm tăng cường sự tự chủ về kinh tế 
và   quyền   lực   của   phụ   nữ   đã   được   chuyển   giao. 

 
 


 
4.2.3.   Sau  một  thời  gian  mở  cửa,  sự  giao  lưu,  trao  đổi  giữa  những  nhà  nghiên  cứu  Việt 
Nam  và  cộng  đồng  khoa  học  vùng  Đông  Nam  Á  và  thế  giới  được  tăng  cường.  Các  nhà 
nghiên  cứu  trẻ  tuổi  bắt  đầu  có  điều  kiện  theo  học  các  chương  trình  chính  quy  về  phụ  nữ 
học   và   về   giới   ở  nước   ngoài. 
 
4.2.4.   Trong  bối  cảnh  kinh  tế  chuyển  đổi,  nhiều  vấn  đề  liên  quan  đến  sức  khỏe  phụ  nữ 
bộc  lộ  rõ  hơn,  và  có những vấn đề vừa nghiêm trọng vừa cấp bách như tình trạng phá thai 
của  lứa  tuổi  vị  thành  niên,  nhiễm  HIV/AIDS,  nạn  mãi  dâm,  buôn  bán  phụ  nữ  và  trẻ  em. 
Tình  trạng  này  đòi  hỏi  những  người  hữu  quan,  các  nhà  nghiên  cứu  và  hoạt  động  xã  hội 
chú  trọng  tìm  hiểu  hơn  nữa  sức  khỏe  sinh  sản,  những  tập  tục  xã  hội  có  hại  cho  sức  khỏe 
phụ  nữ,  các  mối  quan  hệ  giới  hầu  tìm những giải pháp lâu dài cho việc cải thiện sức khỏe 
phụ  nữ.  Chính  trong  khi  đi  tìm  nguyên  nhân,  các  nhà  nghiên  cứu  nhận  ra  rằng  bạo  hành 

phụ  nữ  tồn  tại  trong  xã  hội  dưới nhiều hình thức và đã có tác động nguy hại đến sức khỏe 
sinh   sản,   và   sâu   xa   hơn   nữa   là   xâm   phạm   đến   quyền   con   người   của   phụ   nữ   và   trẻ   em   gái. 
 
4.3.    Sự   phát   triển   của   các   quan   tâm   về   giới. 
 
Số  lượng  các  cơ  sở,  tổ  chức  nghiên  cứu,  đào  tạo  hay  hoạt  động  về  giới  gia  tăng, 
nhiều  lớp  tập  huấn,  hội  thảo  về  giới, về phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế, về sức khỏe phụ 
nữ   và   sức   khỏe   sinh   sản   đã   được   tổ   chức. 
 
● Khoa  Phụ  Nữ  Học  được  thành  lập  năm  1992.  Đây  là  chương  trình đào tạo cử nhân về 
phụ  nữ  học  đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1996, 22 sinh viên đầu tiên tốt nghiệp khoa Phụ 
nữ  học,  đa  số  đều  có  việc  làm  ngay.  Đến  năm  2003, tổng số sinh viên tốt nghiệp khoa 
Phụ  nữ  học  lên  đến  418  sinh  viên.  Sinh  viên  được  trang  bị  các  kiến  thức  về  giới  và 
phương  pháp  tiếp  cận  theo  quan  điểm  giới.  Các  môn  học  về  sức  khỏe phụ nữ, dân số, 
xã  hội  học  gia  đình,  tham  vấn,  đã  đề  cập  đến  sức  khỏe  sinh  sản  và  vấn  đề  ngược  đãi, 
bạo  hành  đối  với  phụ  nữ.  Khoa  Phụ nữ học đã tham gia nhiều lớp đào tạo ngắn hạn về 
giới   cho   các   ngành   và   địa   phương. 
 
Khoa   Phụ   nữ   học   đã   thực   hiện   các   đề   tài   nghiên   cứu   về   phụ   nữ   và   về   giới,   có   thể   kể   : 
 

Quá   trình   xã   hội   hóa   về   giới   ở  trẻ   em 

Phụ   nữ   nhập   cư   trong   khu   vực   kinh   tế   phi   chính   qui   tại   TP.HCM 

Dự   án   hỗ   trợ   phụ   nữ   bị   bạo   hành 

Vai   trò   của   phụ   nữ   trong   sản   xuất   nông   nghiệp   tại   Đồng   bằng   sông   Cửu   Long. 
 
Tuy  nhiên,  nghiên  cứu  và  đào  tạo  về giới vẫn còn gặp khá nhiều trở ngại xuất phát 

từ  những  định  kiến  của  xã  hội  đối  với  các  vấn  đề  của  phụ  nữ  và  bìnhg  đẳng  giới. 
Nhằm  mở  rộng  nội  dung  đào  tạo,  Đại  học  mở  bán  công  TPHCM đã chuyển khoa Phụ 
nữ  học  thành  khoa  Xã  hội  học  từ  năm  2003.  Khối  kiến  thức  về  giới  trở  thành  một 

 
 

















chuyên  ngành  phụ  của  ngành  xã  hội  học.  Môn  nhập  môn  về  giới  và  phát  triển  vẫn  là 
môn   học   chung   của   tòanh   khoa   Xã   hội   học. 
 
Các  môn  học  về  giới  đã  được  giảng  dạy  trong  chương  trình  xã  hội  học  của  nhiều 
trường  đại  học. Giáo trình xã hội học về giới đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào 
chương   trình   khung   của   ngành   Xã   hội   học.  
Chương  trình  hợp  tác  Việt  Nam  –  Hà  Lan  đã  hỗ  trợ nhiều đề tài nghiên cứu về vai trò 

của   phụ   nữ   trong   sản   xuất   nông   nghiệp,   trong   phát   triển   cộng   đồng. 
Trung  tâm  Nghiên  cứu  Khoa  học  về  Phụ  nữ  và  Gia  đình  đã  tổ  chức  các  lớp  học  đầu 
tiên  về phụ nữ do GS. Miriam Darce Frenier giảng. Trung tâm đã tiến hành nghiên cứu 
các  đề  tài  về  nữ  công  nhân  trong  thời  kỳ  chuyển đổi kinh tế như lao động nữ nhập cư, 
nữ   công   nhân   trong   các   xí   nghiệp   liên   doanh. 
Các  trung  tâm  công  tác  xã  hội  của  thanh niên, Hội Bảo trợ Trẻ em, một số tổ chức phi 
chính  phủ  nước  ngoài  triển  khai  những  dự  án  liên  quan  đến  sức  khỏe  sinh  sản, phòng 
chống   AIDS. 
Phòng  Nghiên cứu Công tác xã hội thuộc Hội Tâm lý Giáo dục TP.HCM là một đơn vị 
triển  khai  nhiều  hoạt  động  nghiên cứu và huấn luyện về giới trong các dự án phát triển 
cộng   đồng. 
Các  tổ  chức  xã  hội,  y  tế  đã  có  những  chuyển  hướng  rõ  rệt trong cách tiếp cận và triển 
khai  các dự án, trong đó các khía cạnh xã hội được tăng cường, các vấn đề xã hội được 
chú  ý  nghiên  cứu,  Hội  Liên  Hiệp  Phụ  nữ  TP.HCM  đã tiến hành đề án nghiên cứu tình 
hình   di   cư   và   buôn   bán   phụ   nữ   qua   biên   giới.   Dự   án   do   Đại   sứ   quán   Hà   Lan   tài   trợ. 
Một  số  mạng  lưới  kết  hợp  các  tổ  chức  nghiên  cứu  về  phụ  nữ  đã  hình  thành  : 
FRAPNET  liên  kết  các  nhà  nghiên  cứu  phụ  nữ  học  Đại  học  British  Columbia  – 
Canada  và  các  cơ  quan  nghiên  cứu  phụ  nữ  học  ở  Việt  Nam  và  ở  các  nước khác trong 
vùng  Đông  Nam  Á  và  Nam  Á.  WONET  liên  kết  các  giáo  sư  phụ  nữ  học  của  đại  học 
California­Berkeley  với  các  nhà  nghiên  cứu  phụ  nữ  học  của  Việt  Nam,  Lào, 
Cam­pu­chia,  Trung  Quốc.  Các  cơ  quan  có  nghiên  cứu  và  đào  tạo  về  phụ  nữ  học,  về 
giới   ở  TP.HCM,   Cần   Thơ   và   Hội   Liên   Hiệp   Phụ   nữ   cũng   đã   xây   dựng   mối   liên   kết. 
Thành  phố  hiện  có  nhiều  trung  tâm  tư vấn về tâm lý, tình yêu, hôn nhân, gia đình hoạt 
động,   thể   hiện   đậm   nét   một   xu   hướng   hành   động   và   ứng   dụng. 

 
Trên  đây  chỉ  là  một  vài  trường  hợp  tiêu  biểu,  chưa phản ánh hết sự phong phú của 
các   hoạt   động   liên   quan   đến   khoa   học   về   giới   đã   phát   triển   trong   mười   năm   trở   lại   đây.  
 
V.     Một   số   điểm   cần   lưu   ý  khi   học   chương   này 

 
1. Đây  là  chương  mở  đầu,  có  tính  chất  thông  tin.  Tài  liệu  liên  quan  đến  chương  này 
không   nhiều. 
2. Sinh   viên   có   thể   tìm   hiểu   và   suy   nghĩ   về   tính   khoa   học   và   sự   cần   thiết    của   ngành   
      học.  
 

 
 


VI.    Tóm   lược   những   vấn   đề   cần   ghi   nhớ 
 
Cần   chú   ý  đến   đặc   điểm   và   mục   tiêu   của   PNH.   PNH   là   một   ngành   khoa   học   nghiên 
cứu   mối   quan   hệ   xã   hội   giữa   nam   giới   và   nữ   giới   .Một   nhận   xét   chung   là   phụ   nữ 
còn    chịu   nhiều   thiệt   thòi   và   phân   biệt   đối   xử. 
 
I.
Câu   hỏi   để   sinh   viên   tự   trả   lời   hoặc   thảo   luận   nhóm 
 
1. Sinh   viên   có   thật   sự   được   thuyết   phục   rằng   PNH/khoa   học   về   giới   là   một 
ngành   khoa   học   và   cần   được   đưa   vào   chương   trình   xã   hội   học?    Nêu   những 
lập   luận   cho   quan   điểm   của   sinh   viên. 
2. Sinh   viên   hiểu   thế   nào   về   tình   trạng   bị   thiệt   thòi   của   phụ   nữ? 
 


 
 



CHƯƠNG   II 
 
GIỚI   TÍNH   VÀ   GIỚI 
 
I.       Giới   thiệu   khái   quát   chương   II 
 
Chương   II    trình   bày   và   phân   tích   hai   khái   niệm   rất   căn   bản   trong   nghiên   cứu   về   giới,   đó 
là   khái   niệm   giới   tính   và   giới.   Khi   nghiên   cứu   giới,   cần   phân   biệt   giới   tính   (dịch   từ   tiếng   Anh  s  ex ) 
chỉ   những   đặc   điểm   sinh   học   của   nam   giới   và   nữ   giới,   có   tính   phổ   quát   và   không   thay   đổi,   với 
giới   (dịch   từ   tiếng   Anh  g  ender )  chỉ   những   đặc   điểm   mà   xã   hội   hoặc   các   nền   văn   hóa   gán   cho   nam 
giới   và   nữ   giới.   Khác   với   giới   tính,   những   đặc   điểm   giới   có   tính   đặc   thù   của   từng   xã   hội   và   có   thể 
thay   đổi. 
 

II.      Những   điều   sinh   viên   cần   đạt   được    sau   khi   học   chương   này: 
1. Hiểu   và   phân   biệt   được   những   đặc   điểm   thuộc   về   giới   tính   và   giới. 
2. Ảnh  hưởng  của  văn  hóa  và  giáo  dục  của  môi  trường  xã  hội  và gia đình đối 
với   những   quan   niệm   về   vị   trí,   vai   trò   và   quyền   của   nam   giới   và   nữ   giới. 
3. Sự   phổ   biến   của   mô   hình   xã   hội   trong   đó   nam   giới   đóng   vai   trò   thống   trị. 
 
III.      Tài   liệu   tham   khảo : 
HỘI   LIÊN  HIỆP  PHỤ  NỮ,  UNICEF,  UNDP,   Tài  liệu  tập  huấn  về  giới,   Hà  Nội,  1996. 
(Chương   trình   bày   về   giới   tính   và   giới). 
     I  V.     Nội   dung   cơ   bản: 
 
1.    Giới   tính 
 
Một  thuật  ngữ  được  các  nhà  khoa  học  xã  hội  và  các  nhà  sinh học dùng để chỉ một 
phạm  trù  sinh  học.  Trong  ý  nghĩa  đó,  nam  và  nữ  khác  nhau  về  mặt  sinh  học,  tạo  nên  hai 

giới   tính   :  nam   và   nữ. 
 
Những   khác   biệt   căn   bản   về   giới   tính   : 
 
● Hình  dạng  bên  ngoài  của  cơ  thể  :  nam  giới  cao  hơn,  nặng  hơn,  thể  lực  mạnh hơn phụ 
nữ. 
● Khác   nhau   về   cấu   tạo   nhiễm   sắc   thể,   hormone,   về   cơ   thể   học. 
● Khác  nhau  về  chức  năng  sinh  học,  tạo  nên  vai  trò  của  giới  tính  :   phụ  nữ  mang  thai, 
sinh   con   và   cho   con   bú. 
 
Những  sự  khác  nhau về cơ thể đã là cơ sở cho một số lý thuyết về sự khác biệt giới 
tính  về  mặt  tâm  lý.  Tuy  nhiên,  chúng  ta  không  thể  đơn  giản kết luận rằng sự khác biệt về 
sinh học sẽ tất yếu dẫn đến những khác biệt về tâm lý, và đặc biệt là về năng lực và vai trò 
trong   xã   hội   của   hai   giới. 

 
 


 
2.    Giới 
 
Thuật  ngữ  giới  được  dùng  trong  nghiên  cứu  về  phụ  nữ  mang  một  ý  nghĩa  khác, 
không  phải để miêu tả các đặc điểm của giới tính sinh học.  Giới là một phạm trù khoa học 
xã  hội,  được  sử  dụng  để  nói  về  các  vai  trò,  thái  độ  và  giá  trị  của  giới  tính  do  các  cộng 
đồng  xã  hội  gán  cho.   Như  vậy,  giới  được  xác  định  trong  mối  quan  hệ giữa nam và nữ về 
quyền   lực,   vị   trí   xã   hội   và   phân   công   lao   động. 
 
Những  tính  chất  của  quan  hệ  giới  được  tạo  dựng  qua  quá  trình  lịch  sử,  có  tính  xã 
hội,  không  cố  định  mà  có  thể   thay  đổi  qua  thời  gian,   có  thể   khác  nhau  trong  những  bối 

cảnh   văn   hóa,   xã   hội   khác   nhau. 
 
 Ví  dụ  :  cũng  là  những  phụ  nữ  Việt  Nam  với  những  đặc  trưng  sinh học không thay 
đổi,  nhưng  phụ  nữ  Việt  Nam  dưới  thời  phong  kiến  bị  lệ  thuộc  nhiều  vào  nam  giới,  còn 
phụ  nữ  ngày  nay  đã  đạt  nhiều  tiến  bộ,  được  bình  đẳng  với  nam  giới  trên  nhiều  phương 
diện. 
 
Có  nhiều  quan  điểm  trong  dòng  tư  tưởng  cho  rằng  giới  là  một  phạm  trù  xã  hội và 
các  lý  thuyết  thường  rất  phức  tạp.  Nhưng  các  lý  thuyết  căn  cứ  vào  điều  kiện  xã  hội  để 
định  nghĩa  nam  giới,  nữ  giới  là  được  chấp  nhận  nhiều  nhất.  Các  lý  thuyết  này  cho  rằng 
những  đặc điểm của giới nam hay giới nữ là do cha mẹ và những người khác tác động đến 
và   lặp   đi   lặp   lại   nhiều   lần   mà   tạo   nên. 
 
Viện  Nghiên  cứu  phát  triển  của  đại  học  Sussex  ở  Anh  đã  đi đầu trong việc nghiên 
cứu  hình  thành  khái  niệm  về  giới.  Một  trong những nhà nghiên cứu là Ann Whitehead đã 
đưa  ra  một  định  nghĩa  về  khái  niệm  giới  trong  một  cuộc  hội  thảo  vào  năm  1978  với  chủ 
đề  “Sự  lệ  thuộc  kéo  dài  của  phụ  nữ  trong  quá  trình  phát  triển”.  Sau  đây  là  một  số  cơ  sở 
của   khái   niệm   giới   nêu   trên   : 
 
● Không  có  một  nghiên  cứu  nào  về  phụ nữ và phát triển mà không phải là vấn đề của cả 
nam   lẫn   nữ,   nghĩa   là   phải   đặt   nó   trong   mối   quan   hệ   giữa   nam   và   nữ. 
● Những   mối   quan   hệ   giữa   nam   và   nữ   là   do   xã   hội   tạo   nên   chứ   không   phải   do   sinh   học. 
● Các  quan  hệ  giới  ngày  nay  thường  được  thể  hiện  thông  qua  sự  thống  trị  của nam giới 
và  sự  phụ  thuộc  của  nữ  giới.  Chúng  ta  có  thể  thấy  những  hình  thức  phụ  thuộc  khác 
nhau   : 
● công   việc   nội   trợ   của   phụ   nữ   không   được   đánh   giá   đúng   mức. 
● phụ   nữ   làm   những   việc   có   lương   thấp. 
● phụ  nữ  ít  được  tham  gia  quản  lý  các  nguồn  tài nguyên, do đó kém hơn nam giới trong 
lãnh   vực   ra   quyết   định. 
● Đặc  trưng  của  giới  là  do  giáo  dục  mà  có.  Đứa trẻ được dạy dỗ và phải học để làm con 

trai  hoặc  con  gái.  Ví  dụ  :  con  trai  không  được  khóc,  không  chơi  búp  bê,  lớn  lên  phải 

 
 


được  học  hành  cao,  có  sự  nghiệp;  con  gái  phải  dịu  dàng,  phải  giúp  mẹ  làm  việc  nhà, 
khi  lớn  lên  thì  việc  lấy  chồng,  có  con  được  xem  là  quan  trọng  hơn  sự  nghiệp…  Các 
quan  niệm  vốn  có  này  của  cha  mẹ,  gia  đình  đối  với  đứa  trẻ  khiến  nó  phải  điều  chỉnh 
hành  vi  sao cho phù hợp với sự chờ đợi và dần dần trở thành khuôn mẫu cụ thể đối với 
mỗi   giới. 
 
Walter  Mischel  đã  quan  sát  hai  đặc  tính  là  tính  tấn  công  và  tính  lệ  thuộc  thường 
được  xem  là  rất  gắn  bó  với  giới  tính  thì  thấy  trẻ  con  khi  còn  nhỏ  không  phân  biệt.  Sau 
này,   có   sự   phân   biệt   vì   trẻ   học   qua   xã   hội,   chứ   không   phải   bẩm   sinh. 
 
Nếu  phụ  nữ  bẩm  sinh  là  thụ động và lệ thuộc, và nam giới có tính chủ động và độc 
lập  thì  điều  đó  phải  thể  hiện  ở  mọi nơi và mọi thời kỳ. Trong thực tế, các nhà dân tộc học 
cho  thấy  có  sự khác nhau giữa các xã hội. Một nghiên  cứu ở Papua New Guinea cho thấy 
tình  trạng  các  bộ  lạc  ở  đây  hoàn  toàn  khác  với  những  giả  định  thông  thường  về  tâm  lý 
nam  và  nữ.  Ở  một  bộ  lạc  thứ  nhất,  người  ta  thấy  có  sự  khác  biệt  về  hành  vi  giữa nam và 
nữ,  nhưng  cả  hai  giới  đều  được  huấn  luyện  để  sống hòa thuận, hợp tác với nhau, đáp ứng 
những  yêu  cầu  của  nhau.  Ở  một  bộ  lạc  thứ  hai,  ngược  lại  cả  hai  giới  đều  rất  hung  dữ.  Ở 
một  bộ  lạc  thứ  ba,  mối  quan  hệ  giữa  hai  giới  lại  khác  :  phụ  nữ  là  người điều khiển, quản 
lý,  nam  giới  ít  có  trách  nhiệm  hơn  và  lệ  thuộc  hơn.  Như  vậy,  dưới  nhãn  quan  của  chúng 
ta,   những   người   đàn   ông   của   bộ   lạc   này   là   đàn   bà   và   đàn   bà   lại   là   đàn   ông.  
 
● Các  quan  niệm,  khuôn  mẫu  được  truyền  từ  thế  hệ  này  sang  thế  hệ  khác,  con  gái  thì 
phỏng  theo  mẹ,  con  trai  phỏng  theo  cha.  Vì  vậy  quá  trình  biến  đổi  vai  trò  của  giới 
thường   diễn   ra   một   cách   chậm   chạp   và   khó   khăn. 

● Để  thay  đổi  quan  hệ  giới  và  các  đặc trưng giới, cần vượt qua những định kiến và quan 
niệm  cũ,  tức  là  bắt  đầu  từ  sự   thay  đổi  nhận  thức   của  từng  người  về  vị  trí,  vai  trò  của 
mỗi  giới  và  đặc  biệt  là  các  quan  hệ  giới  giữa  nam  và  nữ  để  tiến  tới  thiết  lập  những 
quan  hệ  mới  trên  cơ  sở   bình  đẳng  và  hợp  tác giữa hai giới.   Bình đẳng giới  không có 
nghĩa  là  nam  giới  và  nữ  giới  giống  nhau  mà  có  nghĩa  là nam và nữ giới đều có những 
quyền   và   cơ   hội   như   nhau,   không   bị   phân   biệt   đối   xử   vì   họ   là   nữ   giới   hoặc   nam   giới. 
 
V.     Một   số   điểm   cần   lưu   ý  khi   học   chương   này 
1.  Phân  biệt  hai  khái  niệm  cơ  bản   giới  tính  sinh  học  và   giới  xã  hội  là  nền  tảng 
cho  những  quan  điểm  về  giới  và  phát  triển.  Hiểu định nghĩa của hai khái niệm này không 
khó,  nhưng  sinh  viên  cần  chú  ý  phân  biệt  được  những  đặc  điểm  thuộc  về  giới  hay  giới 
tính   trong   thực   tế,   vì   những   định   kiến   về   giới   đã   ăn   sâu   vào   suy   nghĩ   của   nhiều   người. 
2.  Cần  suy  nghĩ  để  ngày  càng  được  thuyết  phục  rằng  những  đặc  điểm về giới là 
có  thể  thay  đổi  được,  và trong thực tế  những thay đổi này đang tiếp diễn và tạo cơ sở cho 
những   nỗ   lực   hướng   đến   bình   đẳng   giới. 
 
I.
Tóm   lược   những   vấn   đề   cần   ghi   nhớ 
Giới  tính  chỉ  sự  khác  biệt  giữa  nam  giới  và  nữ  giới  về  mặt  sinh  học,  có  tính phổ biến 

 
 


và  không  thay  đổi.  Trong  sự  khác  biệt  này,  nữ  giới  phải  đảm  nhiệm  chức  năng  sinh  học 
là   mang   thai,   sinh   con   và   cho   con   bú.  
Giới  là  một  phạm  trù  khoa  học  xã  hội,  được  sử  dụng  để  nói  về  các vai trò, thái độ 
và   giá   trị   của   giới   tính   do   các   cộng   đồng   xã   hội   gán   cho. 
 Những  tính  chất  của  quan  hệ  giới  được  tạo  dựng  qua  quá  trình  lịch  sử,  có  tính  xã 
hội,  không  cố  định  mà  có  thể   thay  đổi  qua  thời  gian,   có  thể   khác  nhau  trong  những  bối 

cảnh  văn  hóa,  xã  hội  khác  nhau.   Giáo  dục  đóng  vai  trò  quan  trọng  trong  quá  trình  hình 
thành   nhận   thức   về   đặc   điểm   ,  vai   trò   và   quan   hệ   của   giới   nam   và   giới   nữ. 
Để  thay  đổi  quan  hệ  giới  và  các  đặc  trưng  giới,  cần  vượt  qua  những  định  kiến  và 
quan  niệm  cũ,  tức  là  bắt đầu từ sự  thay đổi nhận thức  của từng người về vị trí, vai trò của 
mỗi  giới  và  đặc  biệt  là  các  quan  hệ  giới  giữa  nam  và  nữ  để  tiến  tới  thiết  lập những quan 
hệ   mới   trên   cơ   sở  b  ình   đẳng   và   hợp   tác   giữa   hai   giới.  
 
VII.      Câu   hỏi   để   sinh   viên   tự   trả   lời   hoặc   thảo   luận   nhóm 
 
1.   Thảo luận nhóm :  Sinh viên  thảo luận về giáo dục đối với  con trai và con gái trong 
các  mẫu  gia  đình  khác  nhau  và  tác  động  của  các  kiểu  mẫu  giáo  dục  này  đối  với  sụ  hình 
thành  nhận  thức  về  giới,  về  vai  trò  giới  nơi  con  cái.  Có thể chọn mẫu gia đình  còn nậng 
ảnh  hưởng  tư  tưởng  phong  kiến,  gia đình có tư tưởng bình đẳng, dân chủ hơn. Cuối cùng, 
sinh  viên  có  thể  phân  tích  giáo  dục  bình  đẳng  đối  với nam và nữ đem lại lợi ích gì cho cả 
nữ   giới,   nữ   giới   và   cho   sự   phát   triển   hài   hòa   của   gia   đình   và   xã   hội. 
 
2.     B
  ài   tập   nhóm   này   có   mục   đích   giúp   sinh   viên   phân   biệt   được   hai   khái   niệm   giới   và 
giới   tính   và   thấy   sự   ích   lợi   của   sự   phân   biệt   này   . P
  hương   pháp   thực   hiện:  
a/    Sinh   viên   điền   vào   hai   cột   dưới   đây   những   nhận   định   của   mình   hoặc   của   đa   số   về 
những   đẵc   điểm   về   tính   tình,   công   việc,   vai   trò,   hòai   bão...   của   nam   giới   và   nữ   giới.   Ghi 
ngay   những   suy   nghĩ    đến   với   mình,   không   đắn   đo,   suy   luận   nhiều. 
 
Nữ   giới 
  
  
  
  
  

  
  
  
  
  
  

 
 

Nam   giới 
  
  
  
  
  
  
  
  
  
  
  


  
  
  
  
   


  
  
  
  

b/      Sau   khi   điền   xong,   nhóm    xem   xét   từng   đặc   điểm   trong   cột   “nữ   giởi”    và   xem 
có   những   đặc   điểm   nào   có   thể   đặt   được   trong   cột   “nam   giới”.   Làm   tương   tự   với   cột   “nam 
giới”.   Nói   cách   khác,   xem   nam   giới   có   thể   làm   những   gì   mà   nữ   giới   làm,   và   ngược   lại. 
Sinh   viên   sẽ   thấy   những   chức   năng   sinh   học   không   thể   hóan   vị   được,   còn   những   đặc   điểm 
khác   đều   có   thể   hóan   vị   được,   cho   dù   trong   thực   tế   không   diễn   ra   như   vậy.   Đó   là   những 
đặc   điểm   thuộc   về   giới.   Bài   tập   này   cũng   cho   ta   nhận   thức   về   vai   trò   rập   khuôn   của   nam 
giới   và   nữ   giới. 
 
 
 


 
 


CHƯƠNG   III 
 
SỰ   PHÂN   CÔNG   LAO   ĐỘNG   THEO   GIỚI 
 
 
I.       Giới   thiệu   khái   quát   chương    III 
 
Chương   III    trình   bày   cách   phân   lọai   công   việc   trong   nghiên   cứu   về   giới,    với   mục   đích 
phân   tích   sự   khác   biệt   về   gánh   nặng   công   việc   đối   với   nam   và   nữ   giới.   Trong   khuôn   khổ   đó,   các 

hoạt   động   được   phân   ra   lam   ba   lọai   chính:   sản   xuất/kinh   tế;   tái   sản   xuất   /  chăm   sóc,   nuôi   dưỡng; 
cộng   đồng.   Công   cụ   để   khảo   sát   các   họat   động   sẽ   được   trình   bày   trong   phần   bài   tập. 
 

II.      Những   điều   sinh   viên   cần   đạt   được    sau   khi   học   chương   này: 
1. Hiểu  được  nội  dung  và  tính  chất  của  ba  lọai  công  việc  sản  xuất,  tái  sản  xuất  và 
cộng   đồng. 
2. Sự  phân  công  lao  động  có  thể  khác  nhau  tùy  theo  bối  cảnh  văn  hóa,  xã  hội,  tùy 
theo   tầng   lớp   xã   hội   và   nhận   thức   của   từng   gia   đình. 
3. Phân  biệt  được  hai  khái  niệm  điều  kiện  sống  và  địa  vị  của  phụ  nữ; hiểu được các 
họat   động   tác   động   đến   điều   kiện   sống   hoặc   đến   địa   vị   của   phụ   nữ. 
4. Hiểu   và   sử   dụng   được   công   cụ   phân   tích   họat   động   của   nam   giới   và   nữ   giới. 
 
III.      Tài   liệu   tham   khảo : 
HỘI   LIÊN  HIỆP  PHỤ  NỮ,  UNICEF,  UNDP,   Tài  liệu  tập  huấn  về  giới,   Hà  Nội,  1996. 
(Chương   trình   bày    phân   công   lao   động   theo   giới). 
1.

TRẦN  THỊ  VÂN   ANH ,  LÊ  NGỌC  HÙNG,   Phụ  nữ,  giới và phát triển, NXB Phụ nữ, 
1996. 

     I  V.     Nội   dung   cơ   bản: 
 
1.    Sự   phân   công   lao   động   theo   giới. 
 
Sự  khác  biệt  giữa  nam  và  nữ  giới  trong  công  việc  là  yếu  tố  quan trọng trong quan 
hệ  giới,  góp  phần  tạo  ra  sự  chia  rẽ  và  đôi  khi  nảy  sinh  đối  kháng  giữa  nam  và  nữ  giới. 
Nhưng  sự  khác  biệt  này  cũng  góp  phần  tạo  ra  sự  trao  đổi,  lệ  thuộc  lẫn  nhau,  hợp  tác  với 
nhau  trong  việc  duy  trì  cuộc  sống  và  mưu  sinh  cho  gia  đình.  Phụ  nữ  là  người  đóng  góp 
chính  cho  kinh  tế  và  đời  sống  của  gia  đình,  nhưng  thường  thường  công  việc  của  họ  đem 

lại   ít   thu   nhập   hơn   nam   giới. 
 
Phần  lớn  phụ  nữ  ở  các  nước  đang  phát  triển,  nhất  là  ở  nông  thôn  thực  hiện những 
công  việc  trong  một  nền  kinh  tế  tự  túc.  Công  việc  của  họ  không  được  tính  bằng  tiền,  họ 
không  được  trả  lương,  do  đó  những  thành  quả  kinh  tế  của  họ  cũng  không  được  tính toán 
đầy  đủ  vào  các  chỉ  tiêu  kinh  tế  quốc  gia  –  Có  thể  nói  phần  lớn  các  công  việc  mà  phụ  nữ 

 
 


đảm  trách  là  những  công  việc  âm  thầm,  vô  hình, không được thấy rõ và không được thừa 
nhận. 
 
Sự  phân  công  lao  động  theo  giới  có thể khác nhau trong các nền văn hóa hoặc thời 
đại  khác  nhau.  Điều  này  chứng  tỏ  các  công  việc  của  nam  và  nữ  giới  không  do  giới  tính 
quy   định   mà   là   do   bối   cảnh   xã   hội,   phong   tục   tập   quán,   giáo   dục   và   gia   đình. 
 
 Ví  dụ  :  Ở  Việt  Nam,  đa số tiểu thương buôn bán ở chợ là phụ nữ, nhưng ở Ấn Độ, 
Thổ   Nhĩ   Kỳ   rất   ít   phụ   nữ   buôn   bán   ở  chợ   mà   lại   do   nam   giới   đảm   trách. 
 
Khi  khảo  sát  một  vùng,  một  cộng  đồng  theo  quan  điểm  phân  tích  giới,  ta  phải  đặt 
câu  hỏi  ở  đó  có  những  hoạt  động  kinh  tế,  xã  hội  gì,  và  trong  các  hoạt  động  ấy,  nam  làm 
gì,   nữ   làm   gì. 
 
2.    Phân   loại   công   việc 
 
Có   thể   phân   ra   3  loại   công   việc   : 
 
­   Hoạt  động  sản  xuất   :  một  cách  tổng quát đó là các hoạt động kinh tế đem lại thu 

nhập  bao  gồm  các  hoạt  động  sản  xuất  nông  lâm  ngư  nghiệp,  công  nghiệp,  dịch  vụ.  Về 
hình  thức  tổ  chức,  đó có thể là những hoạt động sản xuất nhỏ, tiểu thương tiểu chủ, hay là 
làm  nhân  viên  ăn  lương,  làm  chủ  các  doanh  nghiệp  sản  xuất  và  dịch  vụ.  Cả  nam  lẫn  nữ 
đều  tham  gia  hoạt  động  sản  xuất,  nhưng  thường  vai  trò  và  trách  nhiệm  của  nữ  giới  thấp 
hơn   và   ít   thấy   rõ   hơn   nam   giới. 
 
­   Hoạt  động  tái  sản  xuất   :  bao gồm việc chăm sóc nhà cửa, lo nấu ăn cho tất cả gia 
đình,  lấy  nước  và  chất  đốt,  mua  sắm,  chăm  sóc  sức  khỏe  cho  mọi  thành  viên  trong  gia 
đình,   nuôi   nấng   và   dạy   dỗ   con   cái. 
 
 Ví  dụ  :  Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc người bệnh trong gia đình… ­ Ta thường 
gọi  là  “việc  nhà”.  Những  hoạt  động  ấy  rất  quan  trọng  vì  chúng giúp cho mọi người trong 
gia  đình  tái  tạo  sức  lao  động,  giúp  nuôi  dưỡng  và  đào  tạo  nguồn  nhân  lực  cho  tương  lai. 
Tuy  nhiên,  các  hoạt  động  tái  sản  xuất  này  lại  không  được  xem  là  công  việc  thực  sự. 
Thường  là  phụ  nữ  (mẹ  và  con  gái)  chịu  trách  nhiệm  chính  về  những  việc  này  trong  gia 
đình.  Ở  những  xã  hội  mà  mức  sống  còn  thấp,  các  công  việc  nhà  chiếm  rất  nhiều  thì  giờ. 
Chẳng  hạn,  việc  đi  chợ,  nấu ăn, lấy nước và củi ở những gia đình nghèo, không có bếp ga 
hoặc  bếp  điện,  không  có  tủ  lạnh,  không có nước máy… làm mất nhiều thì giờ hơn một bà 
nội   trợ   ở  các   nước   phát   triển,   có   đầy   đủ   tiện   nghi   trong   nhà. 
 
Một  đặc điểm cần lưu ý là người phụ nữ làm các công việc tái tạo sức lao động này 
không   chỉ   riêng   cho   họ   mà   cho   tất   cả   thành   viên   trong   gia   đình. 
 

 
 


­   Hoạt  động  cộng  đồng  :  bao gồm những hoạt động, dịch vụ phục vụ cho tập thể : 
gia  đình,  họ  hàng,  cộng  đồng  ở  địa  phương.  Đó  là  các  lễ  hội,  kỵ  giỗ,  các  hoạt  động  văn 

hóa,  xã  hội,  tôn  giáo…  Các  hoạt  động  này  thường  mang  tính  tự  nguyện,  không  đem  lại 
thu  nhập  và  không  được  phân  tích,  tính  toán  trong  các  phân  tích  có  ý  nghĩa  kinh  tế.  Tuy 
nhiên,   đây   là   những   hoạt   động   quan   trọng   cho   sự   phát   triển   của   các   cộng   đồng. 
 
Cả  nam  lẫn  nữ  đều  tham  gia  vào  hoạt động cộng đồng. Có khi nam giới vì bận rộn 
với  công  việc  sản  xuất  nên  nữ  giới  lại  trở  thành  người  chăm  lo  nhiều  hơn  các  hoạt  động 
cộng   đồng   của   họ   hàng,   khu   phố. 
 
Nhìn  chung, cả nam lẫn nữ đều có tham gia ba mảng hoạt động nêu trên. Loại công 
việc  rất  phân  tán,  tủn  mủn  mà  lại  ít  được  đánh  giá  cao về mặt kinh tế là các hoạt động tái 
sản  xuất  thì  lại  do  nữ  giới  đảm  nhận.  Như  vậy,  cần  chú  ý  đến  điều  kiện  làm  việc  của  nữ 
giới  vất vả và đa dạng, phân tán hơn nam giới nhiều, phải đảm nhiệm nhiều việc cùng một 
lúc, vừa lo kinh tế, vừa lo việc nhà,và cả việc cộng đồng. Trong lúc đó nam giới có thể chỉ 
tập   trung   vào   một   công   việc   chính   là   hoạt   động   kinh   tế. 
 
Với  điều  kiện  làm  việc  như  vậy,  dễ  hiểu  tại  sao  phụ  nữ  khó  tập  trung  tâm  trí  chi 
cho  một  việc, hoặc tại sao phụ nữ lại chỉ làm được những việc nhỏ, không có tầm nhìn lâu 
dài,   ít   hướng   đến   những   việc   có   quy   mô   lớn. 
 
Với  quan  điểm  tiếp  cận giới, những người xây dựng dự án phát triển cần chú ý đến 
điều  kiện  làm  việc  phân  tán,  đa dạng của phụ nữ để xây dựng những hoạt động thích hợp, 
tạo   điều   kiện   cho   phụ   nữ   có   thể   tham   gia   được. 
 
 
Việc   phân   tích   công   việc   do   nam   giới   và   nữ   giới   làm   giúp   thấy   rõ   hơn   : 
 
● Tất  cả  các loại công việc được thực hiện trong gia đình, trong cộng đồng, xã hội và giá 
trị   đích   thực   của   các   việc   này. 
● Đánh  giá  được  ảnh  hưởng  khác  nhau  của  các  dự  án  đối  với  nam  giới  và  nữ  giới,  tiến 
đến   việc   xây   dựng   các   kế   hoạch   phát   triển   đem   lại   lợi   ích   cho   cả   2  giới. 

● Các   hoạt   động   có   thể   giúp   phụ   nữ   bớt   gánh   nặng   của   công   việc. 
● Các   biện   pháp   bảo   đảm   cho   phụ   nữ   có   điều   kiện   tham   gia   vào   các   dự   án. 
 
3.    Vị   trí   và   điều   kiện   sống   của   phụ   nữ 
 
Các  dự  án  phát  triển  thường  có  mục  đích  cải  thiện  điều  kiện  sống  của  người  dân 
theo  quan  điểm  tiếp  cận  giới  và  phát  triển,  cần  làm  rõ  điều  kiện  sống  hàng  ngày  của phụ 
nữ   và   vị   trí   của   họ   trong   xã   hội. 
 
­   Điều  kiện  sống liên quan chủ yếu đến các điều kiện vật chất, sức khỏe, học vấn… 

 
 


của  bản  thân  người  phụ  nữ, không so sánh với nam giới. Ví dụ : họ làm việc gì, họ và con 
họ   có   những   nhu   cầu   gì. 
 
­  V
  ị   trí   kinh   tế   –  xã   hội   của   phụ   nữ   được   xét   trong   viễn   cảnh   so   sánh   với   nam   giới. 
 
 Ví  dụ  :  So  sánh  trình  độ  học  vấn,  cơ  hội  có  việc làm, lương giữa nữ và nam giới – 
Sự   tham   gia   của   phụ   nữ   vào   các   cấp   lãnh   đạo   sovới   nam   giới. 
 
Trong  một  gia  đình  hoặc  trong  một  cộng  đồng  nghèo,  nam  giới,  nữ  giới  và trẻ em 
đều  cùng  chịu  nghèo  khổ  và  thiệt  thòi,  và  cùng  có  những  nhu  cầu  như  nhau  :  nước  sạch, 
dinh  dưỡng,  chăm  sóc  sức  khỏe.  Tuy  nhiên  nam  và  nữ  sống  và  cảm  nhận những nhu cầu 
đó   một   cách   khác   nhau. 
 
 Ví  dụ  :  Về  nhu  cầu  nước  và  chất  đốt.  Người  phụ  nữ  vì  phải  đảm  nhiệm  các  công 

việc  nội  trợ  hàng  ngày  (nấu  ăn,  giặt  giũ…) nên thấy có nhu cầu rất bức thiết về cấp nước, 
chất   đốt,   chăm   sóc   sức   khỏe,   nâng   cao   thu   nhập. 
 
Nam  giới  với  trách  nhiệm  truyền  thống  là  trụ  cột  kinh  tế  của  gia  đình  có  thể dành 
ưu   tiên   cho   việc   tiếp   cận   các   nguồn   lực   :  đất   đai,   kỹ   thuật,   nguyên   vật   liệu. 
 
Các dự án phát triển có thể tác động đến điều kiện sống và vị trí của phụ nữ và nam 
giới   một   cách   khác   nhau. 
 
Một  dự  án  cấp  nước  ở  nông  thôn  có  thể  cải  thiện  điều  kiện  sống  của  phụ  nữ  rất 
nhiều   nhưng   không   ảnh   hưởng   mấy   đến   nam   giới. 
 
Ngược  lại,  một  dự  án  đưa  giống  mới  hoặc  kỹ  thuật  mới  vào  nông  nghiệp  có  thể 
làm  cho  điều  kiện  làm  việc  của  phụ  nữ  trở nên vất vả hơn vì họ phải tăng cường việc nhổ 
cỏ,   vệ   sinh   đồng   ruộng,   vốn   là   một   hoạt   động   mà   phụ   nữ   phải   đảm   nhiệm. 
 
Một  dự  án  có  thể  ảnh  hưởng  không  tốt  hoặc  ảnh  hưởng  tích  cực  đến  vị  trí  của 
người  phụ  nữ  :  ảnh  hưởng  xấu  nếu  các  hoạt  động  hạ  thấp  vai  trò  hoặc  loại  trừ  phụ  nữ  ra 
khỏi  các  hoạt  động  hay  làm  cho  phụ  nữ  mất  quyền  kiểm  soát.  Tác  động  tích  cực  nếu 
người   phụ   nữ   được   tham   gia   như   là   một   tác   nhân   tích   cực   cải   thiện   tình   hình. 
 
 Ví  du  :  Một  dự  án  cấp  nước  nông  thôn  có  thể  thay  đổi  vị  trí của phụ nữ nếu dự án 
chú  ý  đến  việc  huấn  luyện  kỹ  thuật,  huấn  luyện  kỹ  năng  quản  lý,  kiến  thức  về  sức  khỏe 
cho   phụ   nữ,   nếu   người   phụ   nữ   được   tham   gia   vào   ban   quản   lý   dự   án. 
 
Cần  lưu  ý  rằng  nếu  không  có  quan  điểm  phân  tích giới các chương trình nhắm đối 
tượng  là  phụ  nữ  không  đương nhiên cải thiện điều kiện sống hay địa vị của người phụ nữ. 
Nhìn  chung  nhiều  hoạt động hỗ trợ phụ nữ thường nhắm đến việc cải thiện điều kiện sống 

 

 


của  họ,  tăng  cường  khả  năng  của  phụ  nữ  để  họ  có  thể  thực  hiện  tốt  hơn  vai trò và những 
trách  nhiệm  truyền  thống  của  họ.  Các  hoạt  động  này  thường  tìm  cách  giúp  phụ  nữ  thụ 
hưởng  các  lợi  ích và tiếp cận được với các nguồn tài nguyên (học tập, thu nhập…), nhưng 
ít  chú  ý  đến  tăng  cường  sự  kiểm  soát  của  phụ  nữ  đối  với  các  nguồn  tài  nguyên  này.  Các 
hoạt  động  này  cũng  ít  chú ý đến việc tăng cường vị trí, vai trò của phụ nữ so với nam giới 
và  phát  huy  vai  trò  của  phụ  nữ,  tạo  điều  kiện cho phụ nữ cùng nam giới tham gia vào các 
hoạt   động   xã   hội   như   một   tác   nhân   của   phát   triển   và   biến   đổi   xã   hội. 
 
Các  chỉ  báo  của  sự  cải  thiện  địa  vị  phụ  nữ  thường  không  rõ  ràng  như  sự  cải  thiện 
điều  kiện  sống  của  phụ nữ, vì chúng có tính chất định tính hơn là định lượng. Chúng ta có 
thể   xem   xét   các   chỉ   báo   sau   : 
 
● Làm  cho  nam  và  nữ  giới  ngày  càng  chấp  nhận  phụ nữ là những người có quyền quyết 
định   ở  cộng   đồng. 
● Làm   cho   phụ   nữ   tự   tin   hơn   và   tự   lập   về   kinh   tế. 
● Có   thêm   nhiều   tổ   chức   của   phụ   nữ   và   các   tổ   chức   này   được   nhiều   người   biết   đến. 
● Có   thêm   nhiều   phụ   nữ   trong   các   chương   trình   học   tập   và   đào   tạo. 
● Sức   khỏe   của   phụ   nữ   và   trẻ   em   được   cải   thiện. 
● Cải   thiện   địa   vị   của   phụ   nữ   về   mặt   pháp   lý. 
● Giảm   được   những   hành   vi   ngược   đãi   phụ   nữ. 
● Phụ   nữ   được   tăng   quyền   tự   chủ   đối   với   việc   sinh   con. 
● Giảm   sự   phân   biệt   đối   xử   đối   với   phụ   nữ. 
● Gia  tăng  các  mối  quan  tâm  và  nâng  cao  nhận  thức  của  công  chúng  về  các  vấn đề phụ 
nữ. 
 
V.     Một   số   điểm   cần   lưu   ý  khi   học   chương   này 
1. Sinh  viên  cần  nắm  vững  công  cụ  phấn  tích một ngày làm việc của nam giới và 

nữ   giới    để   áp   dụng   khi   tiến   hành   nghiên   cứu   về   giới.  
2. Cần  khách  quan  khi  tìm  hiểu  các  họat  động  của  nam  giới  và  nữ  giới.  Sự phân 
công   lao   động   có   thể   khác   nhau   tùy   theo   tầng   lớp   xã   hội. 
 
VI.      Tóm   lược   những   vấn   đề   cần   ghi   nhớ 
 
 Trong  ba  lọai  công  việc,  chỉ có các họat động kinh tế đem lại thu nhập cho các gia 
đình  thường  được  chú  trọng  và  có  ảnh  hưởng  đến vị trí, vai trò của cá nhân trong xã hội. 
Cả  nam  lẫn  nữ  giới  đều  tham  gia  vào  họat động này, nhưng vị trí của phụ nữ thường thấp 
hơn.  Các  họat  động  chăm  sóc,  nuôi  dưỡng  thường  do  phụ  nữ  đảm  nhiệm  lại  không đem 
lại  thu  nhập  bằng  tiền,  lại  phân tán, tủn mủn, chiểm nhiều thời gian, điều này gây trở ngại 
cho  sự  thăng  tiến  của  phụ  nữ.  Cần  tìm  những  giải  pháp  hài  hòa  hai gánh nặng công việc. 
San   sẻ   việc   nhà    giữa   nam   và   nữ   là   một   hướng   đi   hợp   lý.   
 
VII.      Câu   hỏi   để   sinh   viên   tự   trả   lời   hoặc   thảo   luận   nhóm 

 
 


Bài   tập   nhóm:    một   ngày   làm   việc   của   nam   giới   và   nữ   giới 
Có   thể   phân   sinh   viên   thành   4,5   hoặc   6  nhóm,   tùy   theo   số   lượng   sinh   viên.   Mỗi   nhóm 
có   ít   nhất   4  người,   nhiều   nhất   8  người.   Không   nên   lập   nhóm   quá   đông   vì   như   vậy   sinh 
viên   sẽ   khó   thảo   luận. 
Mỗi   nhóm   chọn   khảo   sát    một   lọai   gia   đình.   Gợi   ý  những   lọai   gia   đình   như   sau: 
nông   dân   nghèo 
nông   dân   bậc   trung 
dân   nghèo   thành   thị 
cán   bộ   –  nhân   viên   bậc   trung 
gia   đình   doanh   nhân 

bà   mẹ   nông   dân   đơn   thân. 
Để   thuận   tiện   cho   thảo   luận,   sinh   viên   sẽ   chỉ   khảo   sát    công   việc   của   người   chồng   và 
nguời   vợ   .  Với   trường   hợp   bà   mẹ   đơn   thân   thì   chỉ   kháo   sát   công   việc   của   bà   mẹ. 
Nên   chọn   các   cặp   vợ   chồng   trung   niên,   trong   độ   tuổi   từ   30   đến   45   tuổi,   con   cái   chưa 
trưởng   thành   để   thấy   khối   lượng   công   việc   ở  giai   đọan   bận   rộn   nhất   của   các   gia   đình. 
Đối   với   mỗi   gia   đình,   sinh   viên   nên   nêu   vài   đặc   điểm   kinh   tế,   xã   hội,   nhân   khẩu:   tuối, 
nghề   nghiệp,   số   con,   trình   độ   văn   hóa. 
Sinh   viên   ghi   càng   chi   tiết   càng   tốt   các   công   việc   của   người   chồng,   người   vộ   trong 
ngày,   từ   khi   thức   dậy   đến   khi   đi   ngủ. 
Sau   khi   ghi   các   công   việc,   sinh   viên   thống   kê   cho   nam   riêng,   cho   nữ   riêng   tổng   số   giờ 
làm   việc   hoặc   nghỉ   ngơi   cho   từng   lọai   công   việc   theo   bảng   sau: 













Công   việc

Số   giờ   thực   hiện 

Sản   xuất   /  kinh   tế 
Tái   sản   xuất,   chăm   soć,   nuôi   dưỡng 

Nghỉ   ngơi   trong   ngày 
Ngủ 
________________ 
Tổng   số   giờ:           24   giờ 
­       Tùy   theo   kết   quả   khảo   sát,   sinh   viên   cho   nhận   xét   và   bình   luận   về   công   việc   của   nam 
giới   và   nữ   giới,   những   thuận   lợi   và   trở   ngại   của   hai   giới   trong   phân   công   lao   động. 
  
Thời 
gian 
 
 
 
 
 

 
 

Phụ   nữ   làm 
  
  
  
  
  

Nam   giới   làm 
  
  
  
  

  


 
 
 
 

  
  
  
  

  
  
  
  
 


 
 


BÀI   ĐỌC   THÊM 
 
BẤT   BÌNH   ĐẲNG   VỀ   GIỚI   GIỮA   CÁC   NHÀ   KHOA   HỌC 
 
 
Theo  kết  quả một cuộc điều travề lương của những người làm trong lĩnhvực y tế và 

sinh  học,  phái  nữ  chỉ  được  trả  thù  lao  bằng  2/3  so  với  các  đồng  nghiệp  nam.  Tại  Mỹ, 
lương  trung  bình  của  nhà  khoa  học  nữ  là  72.000  USD,  so  với  mức  94.000 USD của nam 
giới. 
 
Công  bố  trên  đây  được  Hiệp  hộiTiến  bộ  Khoa  học  Mỹ  đưa  ra  sau  khi điều tra gần 
20.000  người làm công tác nghiên cứu, quản lý, giáo sư, giảng viên… trong lĩnh vực khoa 
học  đời  sống  và  chăm  sóc  sức  khỏe.  Lý  giải  về  hiện  tượng  này,  Hiệp  hội  cho hay : “Đàn 
ông  tiến  xa  hơn  trong  sự  nghiệp.  Họ  làm  việc  nhiều  hơn  và  thuộc nhóm các lĩnh vực y tế 
có   thu   nhập   cao   hơn”. 
 
Tuy  nhiên,  Catherine  Didion,  Giám  đốc  Hiệp  hội  Phụ  nữ  làm  công  tác  khoa  học, 
nhận  định  lời  giải thích này “là lập luận được đưa ra từ 2 thập kỷ trước, chứ không phải là 
ngày  nay”.  Bà  nhấn  mạnh  phụ  nữ  giờ  đây  đã  đóng  vai  trò  không  nhỏ  trong  đội ngũ khoa 
học,  chiếm  tới  50%  trong  nhiều  lĩnh  vực,  và  rằng  không  có  lý  do  nào  cho  việc  tồn  tại 
những  bất  bình  đẳng  về  lương  theo  giới.  “Nhiều  phụ  nữ  có  chất  lượng  công  việc và kinh 
nghiệm   tốt.   Lương   của   họ   xứng   đáng   ngang   với   các   đồng   nghiệp   nam   giới”,   Didion   nói. 
 
Theo  cuộc  điều  tra,  sự  phân  biệt  về  lương theo giới tính thể hiện rõ nhất trong lĩnh 
vực  vật  lý,  các  tổ  chức và các công ty khoa học. Chẳng hạn, lương trung bình của các nhà 
quản  lý  nam  là  160.000  USD,  trong  khi  lương  cho  phái  nữ  ở  vị  trí  tương  tự  là  125.000 
USD.  Đối  với  các  nhà  vật  lý,  lương  của  nam  giới  trung  bình  là  125.000  USD,  so  với 
90.000   USD   của   nữ   giới. 
 
2/3  số  nhà  khoa  học  nữ  được hỏi cho biết công việc của họ bị hạn chế phần nào do 
sự  nghiệp  của  chồng.  Khoảng  1/3  cho  biết  công  việc của họ bị ảnh hưởng “rất nhiều” bởi 
hôn  nhân.  Ngược  lại,  chỉ  có  7%  nhà  nghiên  cứu  nam  cho  biết  nghề  nghiệp  của  người  vợ 
có   ảnh   hưởng   đáng   kể   đến   công   việc   của   họ. 
 
B.H.   (T
  heo   CNN) 

17/10/2001 
 


 
 


CHƯƠNG   IV 
 
NHU   CẦU   GIỚI 
 
I.       Giới   thiệu   khái   quát   chương    III 
Chương  III  giới  thiệu  một  cách  tiếp cận được sử dụng khá rộng rãi trong các khảo 
sát  các  nhóm  dân  cư  ,  đó  là  khảo  sát  nhu  cầu.  Chương  này  giới  thiệu  những  đặc điểm và 
cách   xác   định   nhu   cầu   thiết   thực   và   nhu   cầu   chiến   lược   trong   những   khảo   sát   về   giới. 
 
II.      Những   điều   sinh   viên   cần   đạt   được    sau   khi   học   chương   này 
1.
Định nghĩa và cách xác định nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược, mối liên hệ 
giữa   hai   lọai   nhu   cầu   này. 
2.
Tầm   quan   trọng   của   nhu   cầu   chiến   lược   trong   quá   trình   tiến   đến   bình   đẳng   giới. 
 
III.      Tài   liệu   tham   khảo 
HỘI   LIÊN  HIỆP  PHỤ  NỮ,  UNICEF,  UNDP,   Tài  liệu  tập  huấn  về  giới,   Hà  Nội,  1996. 
(Chương   trình   bày    nhu   cầu   giới). 
 
 
 

 
  uốn  xây  dựng  các  hoạt  độnghay  dự  án  hỗ  trợ  một  nhóm  dân  cư,  1 nhóm phụ nữ 
M
hay   một   cộng   đồng   thì   việc   tìm   hiểu   và   xác   định   nhu   cầu   của   họ   là   cần   thiết. 
 
I.   Nhu   cầu   thiết   thực   và   nhu   cầu   chiến   lược 
 
Trong  các  loại  nhu  cầu  của  phụ  nữ  (hay  của  dân  cư  nói  chung)  người  ta  thường 
phân   ra   2  loại   :  nhu   cầu   thiết   thực   và   nhu   cầu   chiến   lược. 
 
1.   Nhu  cầu  thiết  thực   :  thường  liên  quan  đến  điều  kiện  sống  và  làm  việc  của  phụ 
nữ.  Các  nhu  cầu  này  xuất  phát  từ  điều  kiện  sống  và  làm  việc  khó khăn, thiếu thốn nguồn 
lực  hoặc  tài  nguyên.  Do  đó,  phụ  nữ  nghèo  ở các nước đang phát triển thường dễ xác định 
các  nhu  cầu  thiết  thực,  liên  quan  đến  dinh  dưỡng,  thực  phẩm,  nguồn  cung  cấp  nước,  sức 
khỏe  và  việc  học  tập  của  con  cái,  gia  tăng  thu  nhập.  Đây  là  những  nhu cầu trước mắt mà 
cái  dự  án  phát  triển  có  thể  đáp  ứng  trong  một  thời  gian ngắn, ví dụ trang bị thêm phương 
tiện,  máy  móc,  huấn  luyện  kỹ  thuật,  trang  bị  máy  bơm,  xây  trường,  bệnh  viện,  cung  cấp 
bác  sĩ,  y  tá,  giáo  viên…  lập  nhóm  tín  dụng  –  tiết  kiệm.  Thường  thường,  các  dự  án  nhằm 
mục  đích  đáp  ứng  nhu  cầu  thiết  thực  và  cải  thiện  điều  kiện  sống  của  phụ  nữ  tiếp tục duy 
trì   mối   quan   hệ   truyền   thống   giữa   nam   và   nữ   giới,   ít   chú   trọng   thay   đổi   địa   vị   của   phụ   nữ. 
 
 2.   Nhu  cầu  chiến  lược  :   của  phụ  nữ  xuất  phát  từ  vị  trí  lệ  thuộc,  thiệt  thòi  của  họ 

 
 


×