BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC MỞ – BÁN CÔNG TP. HCM
KHOA XÃ HỘI HỌC
TÀI LIỆU
GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Biên soạn : THÁI THỊ NGỌC DƯ
NĂM 2004
1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ PHỤ NỮ HỌC VÀ KHOA HỌC VỀ GIỚI: QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM, MỤC TIÊU
I.
Giới thiệu khái quát chương I
Chương I giới thiệu quá trình phát triển của ngành phụ nữ học và khoa học về giới ở
các đại học và trung tâm nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam, sự thừa nhận tính chất
khoa học của ngành này, mục tiêu và đặc điểm của ngành học.
II.
Những điều sinh viên cần đạt được sau khi học chương này
1. PNH là một ngành học mới mẻ nhưng phát triển nhanh
2. PNH đã có điều kiện phát triển tại các đại học ở Việt Nam
3. Mục tiêu của PNH và của khoa học về giới là tìm hiểu tình trạng bất bình
đẳng giới, những thiệt thòi của phụ nữ, những phương hướng thực hiện bình
đẳng giới tại các nước, các vùng khác nhau trên thế giới.
III.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 2: Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tới năm 2000.
Nhà xuất bản Phụ nữ, H
ồ Chủ Tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, 1976
I V. Nội dung cơ bản
1. Từ phụ nữ học đến giới và phát triển
Ngày nay, trong nghiên cứu và giảng dạy về các mối quan hệ xã hội giữa nam giới
và nữ giới, về các vấn đề bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới, thuật ngữ giới, bình
đẳng giới, giới, giới và phát triển ngày càng được dùng thay cho các thuật ngữ phụ nữ
học, giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ . Có thể nói nghiên cứu về giới là một giai
đoạn phát triển mới của phụ nữ học, do đó giới không tách rời phụ nữ học. Nội dung
nghiên cứu vẫn chú trọng đến tình trạng thiệt thòi của phụ nữ và các chiến lược tiến đến
xóa bỏ phân biệt đối xử đối với phụ nữ, nhưng cách tiếp cận có thay đổi. Thay vì chỉ chú
trọng đến phụ nữ, khoa học về giới chú trọng đến phụ nữ trong mối quan hệ giữa nữ giới
và nam giới. Có nghĩa là các vấn đề bình đẳng namnữ, phát triển, xóa bỏ phân biệt đối xử
đối với phụ nữ liên quan đến cả nữ giới lẫn nam giới. Cải tiến mối quan hệ nữ giới – nam
giới là trọng tâm của khoa học về giới.
Như vậy, ngày nay, hai thuật ngữ phụ nữ học và giới đều đang được giới nghiên
cứu và giảng dạy sử dụng để nói về những nội dung nghiên cứu tương tự liên quan đến
tình trạng thiết thòi của phụ nữ và các vấn đề bình đẳng giới. Một điều cần lưu ý là không
nên xem các các vấn đề giới là những vấn đề riêng của phụ nữ. Cách nhìn và cách hiểu
này vẫn còn tồn tại ở nhiều người. Theo nhãn quan của họ, phụ nữ hay giới cũng đều là
những vấn đề riêng của phụ nữ, không liên quan đến nam giới. Cần nêu rõ đây là một
cách nhìn không đúng với quan điểm của khoa học về giơi.
1
Lịch sử phát triển của khoa học về giới khởi đi từ phụ nữ học, do đó, các phần tiếp
theo sẽ trình bày về sự phát triển của phụ nữ học.
2. Sự phát triển của ngành phụ nữ học như là một khoa học
Từ nửa sau thập niên 1960, bắt đầu xuất hiện những bài giảng về nữ quyền ở các
trường đại học. Năm 1970, thuật ngữ phụ nữ học (PNH) được dùng lần đầu tiên cho
những giáo trình để chỉ những giáo trình này. Ở Mỹ, dù bị chống đối mạnh mẽ, phụ nữ
học đã phát triển nhanh chóng :
Số giáo trình tăng lên nhiều. Phụ nữ học trở thành chương trình đào tạo ở bậc cử
nhân và sau đại học. Số người tham gia nghiên cứu về nữ quyền gia tăng mạnh mẽ.
Ở Pháp, trước thập niên 1990, các chương trình và các cấp bằng về phụ nữ học
thường không được đa số giảng viên/ giáo sư đại học chấp nhận. Gần đây, người ta nhận
thấy ngày càng có nhiều môn học trong một số ngành có kết hợp/lồng ghép yếu tố giới
. Trong lúc các trung tâm nghiên cứu phụ nữ hiện hữu ở các đại học Lyon 11, Paris 7,
Paris 8, Rennes, Toulouse 2 tiếp tục thu hút sinh viên theo học các môn phụ nữ học, thì
các nhóm/ trung tâm nghiên cứu mới về PNH ở Nantes, Lille, đã trở nên rất tích cự trong
giảng dạy và giảng dạy về phụ nữ học. Các trung tâm này tổ chức thường xuyên các cuộc
hội thảo, phối hợp các chương trình đào tạo, hướng dẫn luận án tiến sĩ và cao học, cung
cấp tư liệu cho sinh viên. Các trung tâm PNH này mở rộng phạm vi hoạt động, hợp tác
với các tổ chức ngoài đại học, tìm nguồn kinh phí hỗ trợ ở các tổ chức chính phủ và phi
chính phủ. Các chương trình cao học về PNH dần dần được thừa nhận ở các đại học Pháp
trong thập niên 1990.
Như vậy, phụ nữ học là một khoa học mới mẽ nhưng phát triển rất nhanh chóng tại
hầu hết các ác đại học trên thế giới.
Điểm khác biệt với các ngành khoa học xã hội truyền thống khác là những nghiên
cứu về phụ nữ xuất phát trước tiên từ những phong trào chính trị, xã hội ở ngoài các
trường đại học.
Điểm phân biệt những người nghiên cứu về phụ nữ với các chuyên gia trong các
khoa học truyền thống là họ hướng tới một phong trào góp phần cải tiến xã hội.
Các hội nghị quốc tế về phụ nữ đã có ảnh hưởng sâu rộng đến các nghiên cứu về
phụ nữ. Đã có các hội nghị quốc tế về phụ nữ vào các năm :
● 1975 : Mexico (Mexico)
● 1980 : Copenhagen (Đan Mạch)
1
●
●
●
●
1985 : Nairobi (Kenya)
1995 : Bắc Kinh (Trung Quốc)
2000 : Bắc Kinh +5 tại New York (Mỹ) tại phiên họp đặc biệt thứ 23 của Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ).
2005: Bắc Kinh + 10 tại New York (Mỹ) tại phiên họp đặc biệt thứ 49 của
Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ).
Sau hội nghị Mexico, Liên Hiệp Quốc đã đề ra thập kỷ phụ nữ từ 1976 đến 1985.
Sau hội nghị ở Copenhagen, một mạng lưới các nhà nghiên cứu về PNH được thiết
lập, mạng lưới này hoạt động hữu hiệu trong năm năm từ 1980 đến 1985. Hội nghị
Nairobi năm 1985 có số người tham dự đông gấp bốn lần hội nghị Copenhagen, có nhiều
đoàn từ các nước đang phát triển. Hội nghị Nairobi đánh giá những kết quả đạt được trong
thập kỷ phụ nữ, và đề ra chiến lược “BÌNH ĐẲNG, PHÁT TRIỂN, HÒA BÌNH”. Tại
diễn đàn của các tổ chức phi chính phủ tại hội nghị quốc tế về phụ nữ ở Bắc Kinh, đã có
khoảng 30.000 người tham dự. Hội nghị đánh giá việc thực hiện chiến lược đã đề ra ở
Nairobi. Dưới khẩu hiệu “Nhìn thế giới qua mắt người phụ nữ”, nhiều chủ đề của hội nghị
cho thấy sự gắn kết của phụ nữ vào những vấn đề chung của thế giới như toàn cầu hóa,
chiến tranh và hòa bình, phát triển, môi trường.
Hội nghị Bắc Kinh +5 về phụ nữ diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 6 năm 2000
trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York (Mỹ).
Khóa họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc có chủ đề : “Phụ
nữ năm 2000 : Bình đẳng giới, Phát triển và Hòa bình cho thế kỷ 21” (gọi tắt là Bắc Kinh
+5).
Năm 1995, Hội nghị Thế giới lần thứ 4 về Phụ nữ diễn ra tại Bắc Kinh (Trung
Quốc) đã thông qua Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh Hành động toàn cầu vì sự tiến bộ
của phụ nữ (CLHĐ). Sau 5 năm triển khai thực hiện, LHQ quyết định triệu tập Khóa họp
đặc biệt này nhằm mục đích đánh giá tình hình thực hiện CLHĐ và xác định các sáng
kiến và hành động tiếp theo để đạt được bình đẳng giới cho Thế kỷ 21.
Đây là lần đầu tiên có Khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng LHQ về phụ nữ. Hội
nghị được triệu tập để tạo cơ hội cho các Chính phủ một lần nữa khẳng định cam kết thực
hiện đầy đủ các mục tiêu của CLHĐ.
Tham gia Hội nghị có đại biểu của 189 quốc gia thành viên, đại diện các cơ quan
LHQ và các cơ chế quốc tế, khu vực, các tổ chức phi chính phủ. Tổng cộng có khoảng 1
vạn đại biểu, trong đó có 6 Phó Tổng thống, 1 Thủ tướng, 6 Phó Thủ tướng, 99 Bộ trưởng
hoặc tương đương, 64 Thứ trưởng hoặc tương đương.
1
2. Một số đặc điểm của phụ nữ học.
Từ hàng bao thế kỷ, phụ nữ đã là một đối tượng nghiên cứu, vậy phụ nữ học ngày
nay có gì khác? Theo Sheila Ruth, những công trình nghiên cứu phụ nữ trước đây thường
có quan điểm :
● phụ nữ thường được nhìn vào, ít khi phụ nữ có được cái nhìn riêng về mình.
● phụ nữ được nghiên cứu trong một phần nào đó của công trình như là một phần
phụ thuộc.
● có những quan điểm “ghét phụ nữ”. Thành kiến đối với phụ nữ dần dần trở
thành một lý thuyết khoa học và được chấp nhận.
Theo một số nhà khoa học, nếu các nghiên cứu về phụ nữ không xuất phát từ quan
điểm xem phụ nữ là một tầng lớp bị áp bức thì không thuộc phạm vi nghiên cứu phụ nữ
học hiện đại. Một số khác đề nghị cách tiếp cận trung dung hơn, không nhất thiết phải có
thiên kiến về tình trạng bị lệ thuộc của phụ nữ.
Tính chất liên ngành của phụ nữ học.
Tiếp cận liên ngành là điều không thể thiếu trong khi nghiên cứu phụ nữ học. PNH
có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành khoa học xã hội khác như xã hội học, tâm lý học,
dân tộc học, luật, lịch sử, y học, môi trường. Trong khi nghiên cứu, PNH chú ý các điểm
tương đồng và dị biệt giữa nam và nữ giới.
Nghiên cứu các vấn đề xã hội với quan điểm tiếp cận giới sẽ làm thay đổi cách
nhìn nhận vấn đề cũng như các đề nghị về giải pháp.
Xuất phát từ các phong trào giải phóng phụ nữ, đấu tranh cho nữ quyền nên PNH
có tính mục đích, tính ứng dụng rất cao. Đây là một lãnh vực nghiên cứu liên kết
chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa nhà nghiên cứu và những người tham
gia phong trào, xây dựng dự án.
3. Nội dung và mục tiêu của phụ nữ học.
Phụ nữ học là một khoa học mới lại phát triển nhanh, nên chưa có một định nghĩa
được đại đa số chấp nhận.
Theo Bách khoa Tự điển Wikipedia, PNH là một khoa học liên ngành nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến phụ nữ, nữ quyền, giới và chính trị. PNH thường bao gồm lý
thuyết về nữ quyền, lịch sử phụ nữ, lịch sử xã hội, văn học phụ nữ, sức khỏe phụ nữ,
nghiên cứu về giới.
1
Vào cuối thập niên 1960, PNH được thiết lập như là một ngành học riêng biệt, đó
là lúc làn sóng thứ hai của nữ quyền đã đạt được những thắng lợi trong giới khoa học nhờ
những họat động tích cực của giảng viên và sinh viên.
Ruth quan niệm rằng PNH là một tiến trình, một mảnh đất mới được khai phá. Một
số nhà nghiên cứu Úc cho rằng lúc đầu PNH gắn với phong trào giải phóng phụ nữ, tiến
đến xóa bỏ những bất bình đẳng về giới và giải phóng phụ nữ. Gần đây, những người
sáng lập Hội Quốc gia nghiên cứu về phụ nữ ở Úc cho rằng PNH là một chiến lược giáo
dục nhằm tiến đến những đổi mới trong xã hội. Lý do là vì xã hội mà ta đang sống còn
phân biệt giới tính, người phụ nữ còn bị hạ thấp phẩm giá, bị lệ thuộc và bị ngược đãi.
Các mục tiêu của phụ nữ học :
● Phân tích tính thống trị của các quan điểm của nam giới trong kiến thức lịch sử, tạo ra
những kiến thức mới và những giá trị mới thông qua việc nghiên cứu tích cực kinh
nghiệm của phụ nữ.
● PNH nhằm đạt đến sự thay đổi ý thức của phụ nữ về chính người phụ nữ : hình ảnh, tư
cách, quyền lợi, vị trí, sự tham gia của người phụ nữ trong thế giới.
● Thay đổi những ước vọng của phụ nữ dựa trên cơ sở ý thức đã được thay đổi, lòng tự
tin đã được củng cố, từ đó người phụ nữ có những lựa chọn mới cho mình và cho xã
hội.
● Cải thiện những quan hệ giữa nam và nữ giới, tiến tới quan hệ hợp tác, tôn trọng lẫn
nhau.
● Gây ý thức ở mọi tầng lớp, nam cũng như nữ, về những giá trị của cuộc sống : lòng
nhân ái, công bằng xã hội, chất lượng cuộc sống.
● Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.
● Chấm dứt cuộc chạy đua đến sự phá hủy hành tinh, tăng cường bảo vệ môi trường.
● Đấu tranh cho hòa bình của thế giới.
Về tình trạng lệ thuộc của phụ nữ :
Một thực tế kéo dài trong lịch sử và ở khắp nơi trên thế giới là phụ nữ có địa vị
thấp kém hơn nam giới trong gia đình cũng như ngoài xã hội, phụ nữ bị áp bức, bị đối xử
không bình đẳng.
Mặc dù phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất, vào công cuộc đấu tranh bảo
vệ tổ quốc, nhưng rất ít tài liệu viết về lịch sử của phụ nữ, cho nên ngay chính người phụ
nữ cũng không hiểu rõ bản sắc của chính mình. Điểm qua lịch sử, ta thấy phụ nữ bị tước
mất các phương tiện để tự nhận thức về mình. Vì vậy, phụ nữ thường có xu hướng tin vào
những hình ảnh huyền thoại về mình, hình ảnh do nam giới vẽ ra, ngay cả khi hình ảnh đó
xung đột với thực tại. Phụ nữ bị ngăn cản nên không thể nhận biết về mình. Phụ nữ được
dạy rằng chỉ cần biết người khác nhìn về mình như thế nào là đủ cho sự tồn tại của phụ nữ
1
rồi.
4. Nghiên cứu và đào tạo về giới ở Việt Nam và ở TP. HCM
4.1. Từ nghiên cứu phụ nữ đến nghiên cứu về giới, mối quan tâm ngày càng gia tăng
trong thập niên 1990.
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về phụ nữ đã được tiến hành tương đối sớm. GS.
Lê thị Nhâm Tuyết đã cho xuất bản quyển sách “ Truyền thống phụ nữ Việt Nam” ngay từ
những năm 1960, và sách này đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Anh. Tuy nhiên, phải
đợi đến thập niên 1980 nghiên cứu PNH mới thật sự có vị trí trong giới khoa học với việc
thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ do Giáo sư Lê Thi làm giám đốc.
Cũng trong thời gian này, Trung tâm nghiên cứu về Giới, Gia đình và Môi trường trong
phát triển (CGFED) được thành lập do Giáo sư Lê thị Nhâm Tuyết làm giám đốc. Điểm
đáng lưu ý là CGFED là một cơ quan nghiên cứu mang tính chất phi chính phủ, tự hạch
tóan, không có kinh phí của nhà nước.
Có thể nói rằng tại Việt Nam cũng như tại TP.HCM, cho đến thập niên 80, nghiên
cứu phụ nữ học như là một hoạt động khoa học hãy còn xa lạ đối với nhiều người. Lúc ấy,
nói đến phụ nữ, người ta dễ dàng liên tưởng đến Hội Liên Hiệp Phụ Nữ như là một phong
trào chính trị xã hội, hoạt động dưới khẩu hiệu giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền.
4.1.1. Đầu thập niên 90, các cơ quan nghiên cứu về phụ nữ và các tổ chức hoạt động của
phụ nữ và vì phụ nữ tại TP.HCM còn rất hiếm hoi. Chỉ có :
● Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ Nữ thuộc Viện Khoa học Xã hội TP.HCM,
sau đó đổi tên là Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ nữ và Gia đình và nay là
Trung tâm Nghiên cứu về Giới và Phát triển. Các chủ đề nghiên cứu của Trung tâm
chú trọng đến việc phân tích địa vị, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã
hội, phụ nữ và hạnh phúc gia đình, tình trạng học vấn của phụ nữ…
● Hội Liên Hiệp Phụ Nữ chú trọng đến các hoạt động xã hội, nhằm vận động phụ nữ
tham gia thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước. Các hoạt động vì phụ nữ
của hội thường ở mức độ đem lại phúc lợi cho phụ nữ, đặc biệt là trong lãnh vực chăm
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Kế hoạch hóa gia đình là công việc của ngành y tế, phụ nữ là đối tượng vận động
chủ yếu, các phương thức còn nặng về mệnh lệnh và nhẹ về nâng cao nhận thức, hiểu biết
và tính tự nguyện.
● Một ít nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội có đề cập đến vai trò của phụ nữ như là một
tác nhân phát triển nhưng những kiến thức ấy rất hạn chế trong một số ít người, chưa
đủ sâu rộng để tạo thành một trào lưu nhận thức trong giới nghiên cứu.
1
4.1.2. Tuy đã có hội nghị Nairobi về phụ nữ năm 1985 với chiến lược bình đẳng, phát
triển, hòa bình, nhưng những thông tin về các xu hướng mới này còn ít và gián đoạn. Cho
đến những năm cuối của thập kỷ 80, Việt Nam mới mở cửa chưa lâu, do đó các nguồn
thông tin, trao đổi với giới nghiên cứu và với các nhà hoạt động nữ quyền trên thế giới
còn rất thưa thớt.
Có thể nói rằng tại TP.HCM, cho đến đầu thập niên 90, các khái niệm về giới, tiếp
cận các vấn đề theo quan điểm giới chưa được những người nghiên cứu về phụ nữ biết
đến. Điều thuận lợi là Nhà nước Việt Nam có chính sách giải phóng phụ nữ, chủ trương
bình đẳng nam nữ, nhờ vậy những nghiên cứu về phụ nữ cũng được phát triển theo hướng
“tăng quyền lực cho phụ nữ”, như ngôn ngữ chúng ta dùng ngày nay. Các chủ đề phụ nữ
trong khoa học kỹ thuật, phụ nữ tham gia sản xuất, đề xuất các chính sách hỗ trợ lao động
nữ… thường được đề cập đến. Tuy nhiên, xu hướng nghiên cứu là chú ý khai thác những
ưu thế, nêu gương phụ nữ vượt khó khăn để thành công, hơn là chú ý nghiên cứu những
vấn đề, những cản trở đối với người phụ nữ trên con đường tiến đến bình đẳng giới.
4.2. Tác động của các phong trào, hội nghị thế giới và của bối cảnh kinh tế xã hội mới
đối với phát triển nghiên cứu về giới trong thập niên 90.
4.2.1. Các hội nghị thế giới có tác động mạnh mẽ nhất đến sự phát triển nghiên cứu về
giới là hội nghị thế giới về dân số và phát triển Cairo năm 1994 và nhất là hội nghị thế
giới về phụ nữ lần thứ tư ở Bắc Kinh năm 1995. Lần đầu tiên phụ nữ Việt Nam có được
một đoàn đại biểu đông đảo đến gần 150 người, với thành phần rất đa dạng, bao gồm
nhiều người trong các lãnh vực hoạt động khác nhau. Phụ nữ TP.HCM cũng có dịp tham
gia đông đảo vào sự kiện này.
Từ sau hai hội nghị ấy, những khái niệm, thuật ngữ liên quan đến khoa học về giới
đã trở nên quen thuộc hơn. Truyền thông, báo chí đã đóng một vai trò quan trọng trong
việc quảng bá những kiến thức này.
● Cách tiếp cận nghiên cứu sức khỏe từ góc độ khoa học xã hội, sức khỏe cộng đồng đã
được hiểu và được chú ý phát triển.
● Các khái niệm sức khỏe sinh sản, quyền của phụ nữ trong việc lựa chọn số con và
khoảng cách giữa các lần sinh được phổ biến rộng rãi hơn nhờ các chương trình huấn
luyện và truyền thông về dân số.
4.2.2 . Sự tham gia của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ vào các chương
trình phát triển đã góp phần phổ biến những cách tiếp cận mới các vấn đề phát triển, trong
đó vai trò của phụ nữ như là chủ thể phát triển luôn được nhấn mạnh. Nhiều lớp huấn
luyện được tổ chức tại các địa phương, nhiều kinh nghiệm tăng cường sự tự chủ về kinh tế
và quyền lực của phụ nữ đã được chuyển giao.
1
4.2.3. Sau một thời gian mở cửa, sự giao lưu, trao đổi giữa những nhà nghiên cứu Việt
Nam và cộng đồng khoa học vùng Đông Nam Á và thế giới được tăng cường. Các nhà
nghiên cứu trẻ tuổi bắt đầu có điều kiện theo học các chương trình chính quy về phụ nữ
học và về giới ở nước ngoài.
4.2.4. Trong bối cảnh kinh tế chuyển đổi, nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe phụ nữ
bộc lộ rõ hơn, và có những vấn đề vừa nghiêm trọng vừa cấp bách như tình trạng phá thai
của lứa tuổi vị thành niên, nhiễm HIV/AIDS, nạn mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Tình trạng này đòi hỏi những người hữu quan, các nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội
chú trọng tìm hiểu hơn nữa sức khỏe sinh sản, những tập tục xã hội có hại cho sức khỏe
phụ nữ, các mối quan hệ giới hầu tìm những giải pháp lâu dài cho việc cải thiện sức khỏe
phụ nữ. Chính trong khi đi tìm nguyên nhân, các nhà nghiên cứu nhận ra rằng bạo hành
phụ nữ tồn tại trong xã hội dưới nhiều hình thức và đã có tác động nguy hại đến sức khỏe
sinh sản, và sâu xa hơn nữa là xâm phạm đến quyền con người của phụ nữ và trẻ em gái.
4.3. Sự phát triển của các quan tâm về giới.
Số lượng các cơ sở, tổ chức nghiên cứu, đào tạo hay hoạt động về giới gia tăng,
nhiều lớp tập huấn, hội thảo về giới, về phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế, về sức khỏe phụ
nữ và sức khỏe sinh sản đã được tổ chức.
● Khoa Phụ Nữ Học được thành lập năm 1992. Đây là chương trình đào tạo cử nhân về
phụ nữ học đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1996, 22 sinh viên đầu tiên tốt nghiệp khoa Phụ
nữ học, đa số đều có việc làm ngay. Đến năm 2003, tổng số sinh viên tốt nghiệp khoa
Phụ nữ học lên đến 418 sinh viên. Sinh viên được trang bị các kiến thức về giới và
phương pháp tiếp cận theo quan điểm giới. Các môn học về sức khỏe phụ nữ, dân số,
xã hội học gia đình, tham vấn, đã đề cập đến sức khỏe sinh sản và vấn đề ngược đãi,
bạo hành đối với phụ nữ. Khoa Phụ nữ học đã tham gia nhiều lớp đào tạo ngắn hạn về
giới cho các ngành và địa phương.
Khoa Phụ nữ học đã thực hiện các đề tài nghiên cứu về phụ nữ và về giới, có thể kể :
●
Quá trình xã hội hóa về giới ở trẻ em
●
Phụ nữ nhập cư trong khu vực kinh tế phi chính qui tại TP.HCM
●
Dự án hỗ trợ phụ nữ bị bạo hành
●
Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, nghiên cứu và đào tạo về giới vẫn còn gặp khá nhiều trở ngại xuất phát
từ những định kiến của xã hội đối với các vấn đề của phụ nữ và bìnhg đẳng giới.
Nhằm mở rộng nội dung đào tạo, Đại học mở bán công TPHCM đã chuyển khoa Phụ
nữ học thành khoa Xã hội học từ năm 2003. Khối kiến thức về giới trở thành một
1
●
●
●
●
●
●
●
●
chuyên ngành phụ của ngành xã hội học. Môn nhập môn về giới và phát triển vẫn là
môn học chung của tòanh khoa Xã hội học.
Các môn học về giới đã được giảng dạy trong chương trình xã hội học của nhiều
trường đại học. Giáo trình xã hội học về giới đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào
chương trình khung của ngành Xã hội học.
Chương trình hợp tác Việt Nam – Hà Lan đã hỗ trợ nhiều đề tài nghiên cứu về vai trò
của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp, trong phát triển cộng đồng.
Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ nữ và Gia đình đã tổ chức các lớp học đầu
tiên về phụ nữ do GS. Miriam Darce Frenier giảng. Trung tâm đã tiến hành nghiên cứu
các đề tài về nữ công nhân trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế như lao động nữ nhập cư,
nữ công nhân trong các xí nghiệp liên doanh.
Các trung tâm công tác xã hội của thanh niên, Hội Bảo trợ Trẻ em, một số tổ chức phi
chính phủ nước ngoài triển khai những dự án liên quan đến sức khỏe sinh sản, phòng
chống AIDS.
Phòng Nghiên cứu Công tác xã hội thuộc Hội Tâm lý Giáo dục TP.HCM là một đơn vị
triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu và huấn luyện về giới trong các dự án phát triển
cộng đồng.
Các tổ chức xã hội, y tế đã có những chuyển hướng rõ rệt trong cách tiếp cận và triển
khai các dự án, trong đó các khía cạnh xã hội được tăng cường, các vấn đề xã hội được
chú ý nghiên cứu, Hội Liên Hiệp Phụ nữ TP.HCM đã tiến hành đề án nghiên cứu tình
hình di cư và buôn bán phụ nữ qua biên giới. Dự án do Đại sứ quán Hà Lan tài trợ.
Một số mạng lưới kết hợp các tổ chức nghiên cứu về phụ nữ đã hình thành :
FRAPNET liên kết các nhà nghiên cứu phụ nữ học Đại học British Columbia –
Canada và các cơ quan nghiên cứu phụ nữ học ở Việt Nam và ở các nước khác trong
vùng Đông Nam Á và Nam Á. WONET liên kết các giáo sư phụ nữ học của đại học
CaliforniaBerkeley với các nhà nghiên cứu phụ nữ học của Việt Nam, Lào,
Campuchia, Trung Quốc. Các cơ quan có nghiên cứu và đào tạo về phụ nữ học, về
giới ở TP.HCM, Cần Thơ và Hội Liên Hiệp Phụ nữ cũng đã xây dựng mối liên kết.
Thành phố hiện có nhiều trung tâm tư vấn về tâm lý, tình yêu, hôn nhân, gia đình hoạt
động, thể hiện đậm nét một xu hướng hành động và ứng dụng.
Trên đây chỉ là một vài trường hợp tiêu biểu, chưa phản ánh hết sự phong phú của
các hoạt động liên quan đến khoa học về giới đã phát triển trong mười năm trở lại đây.
V. Một số điểm cần lưu ý khi học chương này
1. Đây là chương mở đầu, có tính chất thông tin. Tài liệu liên quan đến chương này
không nhiều.
2. Sinh viên có thể tìm hiểu và suy nghĩ về tính khoa học và sự cần thiết của ngành
học.
1
VI. Tóm lược những vấn đề cần ghi nhớ
Cần chú ý đến đặc điểm và mục tiêu của PNH. PNH là một ngành khoa học nghiên
cứu mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới .Một nhận xét chung là phụ nữ
còn chịu nhiều thiệt thòi và phân biệt đối xử.
I.
Câu hỏi để sinh viên tự trả lời hoặc thảo luận nhóm
1. Sinh viên có thật sự được thuyết phục rằng PNH/khoa học về giới là một
ngành khoa học và cần được đưa vào chương trình xã hội học? Nêu những
lập luận cho quan điểm của sinh viên.
2. Sinh viên hiểu thế nào về tình trạng bị thiệt thòi của phụ nữ?
1
CHƯƠNG II
GIỚI TÍNH VÀ GIỚI
I. Giới thiệu khái quát chương II
Chương II trình bày và phân tích hai khái niệm rất căn bản trong nghiên cứu về giới, đó
là khái niệm giới tính và giới. Khi nghiên cứu giới, cần phân biệt giới tính (dịch từ tiếng Anh s ex )
chỉ những đặc điểm sinh học của nam giới và nữ giới, có tính phổ quát và không thay đổi, với
giới (dịch từ tiếng Anh g ender ) chỉ những đặc điểm mà xã hội hoặc các nền văn hóa gán cho nam
giới và nữ giới. Khác với giới tính, những đặc điểm giới có tính đặc thù của từng xã hội và có thể
thay đổi.
II. Những điều sinh viên cần đạt được sau khi học chương này:
1. Hiểu và phân biệt được những đặc điểm thuộc về giới tính và giới.
2. Ảnh hưởng của văn hóa và giáo dục của môi trường xã hội và gia đình đối
với những quan niệm về vị trí, vai trò và quyền của nam giới và nữ giới.
3. Sự phổ biến của mô hình xã hội trong đó nam giới đóng vai trò thống trị.
III. Tài liệu tham khảo :
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, UNICEF, UNDP, Tài liệu tập huấn về giới, Hà Nội, 1996.
(Chương trình bày về giới tính và giới).
I V. Nội dung cơ bản:
1. Giới tính
Một thuật ngữ được các nhà khoa học xã hội và các nhà sinh học dùng để chỉ một
phạm trù sinh học. Trong ý nghĩa đó, nam và nữ khác nhau về mặt sinh học, tạo nên hai
giới tính : nam và nữ.
Những khác biệt căn bản về giới tính :
● Hình dạng bên ngoài của cơ thể : nam giới cao hơn, nặng hơn, thể lực mạnh hơn phụ
nữ.
● Khác nhau về cấu tạo nhiễm sắc thể, hormone, về cơ thể học.
● Khác nhau về chức năng sinh học, tạo nên vai trò của giới tính : phụ nữ mang thai,
sinh con và cho con bú.
Những sự khác nhau về cơ thể đã là cơ sở cho một số lý thuyết về sự khác biệt giới
tính về mặt tâm lý. Tuy nhiên, chúng ta không thể đơn giản kết luận rằng sự khác biệt về
sinh học sẽ tất yếu dẫn đến những khác biệt về tâm lý, và đặc biệt là về năng lực và vai trò
trong xã hội của hai giới.
1
2. Giới
Thuật ngữ giới được dùng trong nghiên cứu về phụ nữ mang một ý nghĩa khác,
không phải để miêu tả các đặc điểm của giới tính sinh học. Giới là một phạm trù khoa học
xã hội, được sử dụng để nói về các vai trò, thái độ và giá trị của giới tính do các cộng
đồng xã hội gán cho. Như vậy, giới được xác định trong mối quan hệ giữa nam và nữ về
quyền lực, vị trí xã hội và phân công lao động.
Những tính chất của quan hệ giới được tạo dựng qua quá trình lịch sử, có tính xã
hội, không cố định mà có thể thay đổi qua thời gian, có thể khác nhau trong những bối
cảnh văn hóa, xã hội khác nhau.
Ví dụ : cũng là những phụ nữ Việt Nam với những đặc trưng sinh học không thay
đổi, nhưng phụ nữ Việt Nam dưới thời phong kiến bị lệ thuộc nhiều vào nam giới, còn
phụ nữ ngày nay đã đạt nhiều tiến bộ, được bình đẳng với nam giới trên nhiều phương
diện.
Có nhiều quan điểm trong dòng tư tưởng cho rằng giới là một phạm trù xã hội và
các lý thuyết thường rất phức tạp. Nhưng các lý thuyết căn cứ vào điều kiện xã hội để
định nghĩa nam giới, nữ giới là được chấp nhận nhiều nhất. Các lý thuyết này cho rằng
những đặc điểm của giới nam hay giới nữ là do cha mẹ và những người khác tác động đến
và lặp đi lặp lại nhiều lần mà tạo nên.
Viện Nghiên cứu phát triển của đại học Sussex ở Anh đã đi đầu trong việc nghiên
cứu hình thành khái niệm về giới. Một trong những nhà nghiên cứu là Ann Whitehead đã
đưa ra một định nghĩa về khái niệm giới trong một cuộc hội thảo vào năm 1978 với chủ
đề “Sự lệ thuộc kéo dài của phụ nữ trong quá trình phát triển”. Sau đây là một số cơ sở
của khái niệm giới nêu trên :
● Không có một nghiên cứu nào về phụ nữ và phát triển mà không phải là vấn đề của cả
nam lẫn nữ, nghĩa là phải đặt nó trong mối quan hệ giữa nam và nữ.
● Những mối quan hệ giữa nam và nữ là do xã hội tạo nên chứ không phải do sinh học.
● Các quan hệ giới ngày nay thường được thể hiện thông qua sự thống trị của nam giới
và sự phụ thuộc của nữ giới. Chúng ta có thể thấy những hình thức phụ thuộc khác
nhau :
● công việc nội trợ của phụ nữ không được đánh giá đúng mức.
● phụ nữ làm những việc có lương thấp.
● phụ nữ ít được tham gia quản lý các nguồn tài nguyên, do đó kém hơn nam giới trong
lãnh vực ra quyết định.
● Đặc trưng của giới là do giáo dục mà có. Đứa trẻ được dạy dỗ và phải học để làm con
trai hoặc con gái. Ví dụ : con trai không được khóc, không chơi búp bê, lớn lên phải
1
được học hành cao, có sự nghiệp; con gái phải dịu dàng, phải giúp mẹ làm việc nhà,
khi lớn lên thì việc lấy chồng, có con được xem là quan trọng hơn sự nghiệp… Các
quan niệm vốn có này của cha mẹ, gia đình đối với đứa trẻ khiến nó phải điều chỉnh
hành vi sao cho phù hợp với sự chờ đợi và dần dần trở thành khuôn mẫu cụ thể đối với
mỗi giới.
Walter Mischel đã quan sát hai đặc tính là tính tấn công và tính lệ thuộc thường
được xem là rất gắn bó với giới tính thì thấy trẻ con khi còn nhỏ không phân biệt. Sau
này, có sự phân biệt vì trẻ học qua xã hội, chứ không phải bẩm sinh.
Nếu phụ nữ bẩm sinh là thụ động và lệ thuộc, và nam giới có tính chủ động và độc
lập thì điều đó phải thể hiện ở mọi nơi và mọi thời kỳ. Trong thực tế, các nhà dân tộc học
cho thấy có sự khác nhau giữa các xã hội. Một nghiên cứu ở Papua New Guinea cho thấy
tình trạng các bộ lạc ở đây hoàn toàn khác với những giả định thông thường về tâm lý
nam và nữ. Ở một bộ lạc thứ nhất, người ta thấy có sự khác biệt về hành vi giữa nam và
nữ, nhưng cả hai giới đều được huấn luyện để sống hòa thuận, hợp tác với nhau, đáp ứng
những yêu cầu của nhau. Ở một bộ lạc thứ hai, ngược lại cả hai giới đều rất hung dữ. Ở
một bộ lạc thứ ba, mối quan hệ giữa hai giới lại khác : phụ nữ là người điều khiển, quản
lý, nam giới ít có trách nhiệm hơn và lệ thuộc hơn. Như vậy, dưới nhãn quan của chúng
ta, những người đàn ông của bộ lạc này là đàn bà và đàn bà lại là đàn ông.
● Các quan niệm, khuôn mẫu được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, con gái thì
phỏng theo mẹ, con trai phỏng theo cha. Vì vậy quá trình biến đổi vai trò của giới
thường diễn ra một cách chậm chạp và khó khăn.
● Để thay đổi quan hệ giới và các đặc trưng giới, cần vượt qua những định kiến và quan
niệm cũ, tức là bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức của từng người về vị trí, vai trò của
mỗi giới và đặc biệt là các quan hệ giới giữa nam và nữ để tiến tới thiết lập những
quan hệ mới trên cơ sở bình đẳng và hợp tác giữa hai giới. Bình đẳng giới không có
nghĩa là nam giới và nữ giới giống nhau mà có nghĩa là nam và nữ giới đều có những
quyền và cơ hội như nhau, không bị phân biệt đối xử vì họ là nữ giới hoặc nam giới.
V. Một số điểm cần lưu ý khi học chương này
1. Phân biệt hai khái niệm cơ bản giới tính sinh học và giới xã hội là nền tảng
cho những quan điểm về giới và phát triển. Hiểu định nghĩa của hai khái niệm này không
khó, nhưng sinh viên cần chú ý phân biệt được những đặc điểm thuộc về giới hay giới
tính trong thực tế, vì những định kiến về giới đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người.
2. Cần suy nghĩ để ngày càng được thuyết phục rằng những đặc điểm về giới là
có thể thay đổi được, và trong thực tế những thay đổi này đang tiếp diễn và tạo cơ sở cho
những nỗ lực hướng đến bình đẳng giới.
I.
Tóm lược những vấn đề cần ghi nhớ
Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới về mặt sinh học, có tính phổ biến
1
và không thay đổi. Trong sự khác biệt này, nữ giới phải đảm nhiệm chức năng sinh học
là mang thai, sinh con và cho con bú.
Giới là một phạm trù khoa học xã hội, được sử dụng để nói về các vai trò, thái độ
và giá trị của giới tính do các cộng đồng xã hội gán cho.
Những tính chất của quan hệ giới được tạo dựng qua quá trình lịch sử, có tính xã
hội, không cố định mà có thể thay đổi qua thời gian, có thể khác nhau trong những bối
cảnh văn hóa, xã hội khác nhau. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình
thành nhận thức về đặc điểm , vai trò và quan hệ của giới nam và giới nữ.
Để thay đổi quan hệ giới và các đặc trưng giới, cần vượt qua những định kiến và
quan niệm cũ, tức là bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức của từng người về vị trí, vai trò của
mỗi giới và đặc biệt là các quan hệ giới giữa nam và nữ để tiến tới thiết lập những quan
hệ mới trên cơ sở b ình đẳng và hợp tác giữa hai giới.
VII. Câu hỏi để sinh viên tự trả lời hoặc thảo luận nhóm
1. Thảo luận nhóm : Sinh viên thảo luận về giáo dục đối với con trai và con gái trong
các mẫu gia đình khác nhau và tác động của các kiểu mẫu giáo dục này đối với sụ hình
thành nhận thức về giới, về vai trò giới nơi con cái. Có thể chọn mẫu gia đình còn nậng
ảnh hưởng tư tưởng phong kiến, gia đình có tư tưởng bình đẳng, dân chủ hơn. Cuối cùng,
sinh viên có thể phân tích giáo dục bình đẳng đối với nam và nữ đem lại lợi ích gì cho cả
nữ giới, nữ giới và cho sự phát triển hài hòa của gia đình và xã hội.
2. B
ài tập nhóm này có mục đích giúp sinh viên phân biệt được hai khái niệm giới và
giới tính và thấy sự ích lợi của sự phân biệt này . P
hương pháp thực hiện:
a/ Sinh viên điền vào hai cột dưới đây những nhận định của mình hoặc của đa số về
những đẵc điểm về tính tình, công việc, vai trò, hòai bão... của nam giới và nữ giới. Ghi
ngay những suy nghĩ đến với mình, không đắn đo, suy luận nhiều.
Nữ giới
1
Nam giới
b/ Sau khi điền xong, nhóm xem xét từng đặc điểm trong cột “nữ giởi” và xem
có những đặc điểm nào có thể đặt được trong cột “nam giới”. Làm tương tự với cột “nam
giới”. Nói cách khác, xem nam giới có thể làm những gì mà nữ giới làm, và ngược lại.
Sinh viên sẽ thấy những chức năng sinh học không thể hóan vị được, còn những đặc điểm
khác đều có thể hóan vị được, cho dù trong thực tế không diễn ra như vậy. Đó là những
đặc điểm thuộc về giới. Bài tập này cũng cho ta nhận thức về vai trò rập khuôn của nam
giới và nữ giới.
1
CHƯƠNG III
SỰ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG THEO GIỚI
I. Giới thiệu khái quát chương III
Chương III trình bày cách phân lọai công việc trong nghiên cứu về giới, với mục đích
phân tích sự khác biệt về gánh nặng công việc đối với nam và nữ giới. Trong khuôn khổ đó, các
hoạt động được phân ra lam ba lọai chính: sản xuất/kinh tế; tái sản xuất / chăm sóc, nuôi dưỡng;
cộng đồng. Công cụ để khảo sát các họat động sẽ được trình bày trong phần bài tập.
II. Những điều sinh viên cần đạt được sau khi học chương này:
1. Hiểu được nội dung và tính chất của ba lọai công việc sản xuất, tái sản xuất và
cộng đồng.
2. Sự phân công lao động có thể khác nhau tùy theo bối cảnh văn hóa, xã hội, tùy
theo tầng lớp xã hội và nhận thức của từng gia đình.
3. Phân biệt được hai khái niệm điều kiện sống và địa vị của phụ nữ; hiểu được các
họat động tác động đến điều kiện sống hoặc đến địa vị của phụ nữ.
4. Hiểu và sử dụng được công cụ phân tích họat động của nam giới và nữ giới.
III. Tài liệu tham khảo :
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, UNICEF, UNDP, Tài liệu tập huấn về giới, Hà Nội, 1996.
(Chương trình bày phân công lao động theo giới).
1.
TRẦN THỊ VÂN ANH , LÊ NGỌC HÙNG, Phụ nữ, giới và phát triển, NXB Phụ nữ,
1996.
I V. Nội dung cơ bản:
1. Sự phân công lao động theo giới.
Sự khác biệt giữa nam và nữ giới trong công việc là yếu tố quan trọng trong quan
hệ giới, góp phần tạo ra sự chia rẽ và đôi khi nảy sinh đối kháng giữa nam và nữ giới.
Nhưng sự khác biệt này cũng góp phần tạo ra sự trao đổi, lệ thuộc lẫn nhau, hợp tác với
nhau trong việc duy trì cuộc sống và mưu sinh cho gia đình. Phụ nữ là người đóng góp
chính cho kinh tế và đời sống của gia đình, nhưng thường thường công việc của họ đem
lại ít thu nhập hơn nam giới.
Phần lớn phụ nữ ở các nước đang phát triển, nhất là ở nông thôn thực hiện những
công việc trong một nền kinh tế tự túc. Công việc của họ không được tính bằng tiền, họ
không được trả lương, do đó những thành quả kinh tế của họ cũng không được tính toán
đầy đủ vào các chỉ tiêu kinh tế quốc gia – Có thể nói phần lớn các công việc mà phụ nữ
1
đảm trách là những công việc âm thầm, vô hình, không được thấy rõ và không được thừa
nhận.
Sự phân công lao động theo giới có thể khác nhau trong các nền văn hóa hoặc thời
đại khác nhau. Điều này chứng tỏ các công việc của nam và nữ giới không do giới tính
quy định mà là do bối cảnh xã hội, phong tục tập quán, giáo dục và gia đình.
Ví dụ : Ở Việt Nam, đa số tiểu thương buôn bán ở chợ là phụ nữ, nhưng ở Ấn Độ,
Thổ Nhĩ Kỳ rất ít phụ nữ buôn bán ở chợ mà lại do nam giới đảm trách.
Khi khảo sát một vùng, một cộng đồng theo quan điểm phân tích giới, ta phải đặt
câu hỏi ở đó có những hoạt động kinh tế, xã hội gì, và trong các hoạt động ấy, nam làm
gì, nữ làm gì.
2. Phân loại công việc
Có thể phân ra 3 loại công việc :
Hoạt động sản xuất : một cách tổng quát đó là các hoạt động kinh tế đem lại thu
nhập bao gồm các hoạt động sản xuất nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Về
hình thức tổ chức, đó có thể là những hoạt động sản xuất nhỏ, tiểu thương tiểu chủ, hay là
làm nhân viên ăn lương, làm chủ các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ. Cả nam lẫn nữ
đều tham gia hoạt động sản xuất, nhưng thường vai trò và trách nhiệm của nữ giới thấp
hơn và ít thấy rõ hơn nam giới.
Hoạt động tái sản xuất : bao gồm việc chăm sóc nhà cửa, lo nấu ăn cho tất cả gia
đình, lấy nước và chất đốt, mua sắm, chăm sóc sức khỏe cho mọi thành viên trong gia
đình, nuôi nấng và dạy dỗ con cái.
Ví dụ : Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc người bệnh trong gia đình… Ta thường
gọi là “việc nhà”. Những hoạt động ấy rất quan trọng vì chúng giúp cho mọi người trong
gia đình tái tạo sức lao động, giúp nuôi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai.
Tuy nhiên, các hoạt động tái sản xuất này lại không được xem là công việc thực sự.
Thường là phụ nữ (mẹ và con gái) chịu trách nhiệm chính về những việc này trong gia
đình. Ở những xã hội mà mức sống còn thấp, các công việc nhà chiếm rất nhiều thì giờ.
Chẳng hạn, việc đi chợ, nấu ăn, lấy nước và củi ở những gia đình nghèo, không có bếp ga
hoặc bếp điện, không có tủ lạnh, không có nước máy… làm mất nhiều thì giờ hơn một bà
nội trợ ở các nước phát triển, có đầy đủ tiện nghi trong nhà.
Một đặc điểm cần lưu ý là người phụ nữ làm các công việc tái tạo sức lao động này
không chỉ riêng cho họ mà cho tất cả thành viên trong gia đình.
1
Hoạt động cộng đồng : bao gồm những hoạt động, dịch vụ phục vụ cho tập thể :
gia đình, họ hàng, cộng đồng ở địa phương. Đó là các lễ hội, kỵ giỗ, các hoạt động văn
hóa, xã hội, tôn giáo… Các hoạt động này thường mang tính tự nguyện, không đem lại
thu nhập và không được phân tích, tính toán trong các phân tích có ý nghĩa kinh tế. Tuy
nhiên, đây là những hoạt động quan trọng cho sự phát triển của các cộng đồng.
Cả nam lẫn nữ đều tham gia vào hoạt động cộng đồng. Có khi nam giới vì bận rộn
với công việc sản xuất nên nữ giới lại trở thành người chăm lo nhiều hơn các hoạt động
cộng đồng của họ hàng, khu phố.
Nhìn chung, cả nam lẫn nữ đều có tham gia ba mảng hoạt động nêu trên. Loại công
việc rất phân tán, tủn mủn mà lại ít được đánh giá cao về mặt kinh tế là các hoạt động tái
sản xuất thì lại do nữ giới đảm nhận. Như vậy, cần chú ý đến điều kiện làm việc của nữ
giới vất vả và đa dạng, phân tán hơn nam giới nhiều, phải đảm nhiệm nhiều việc cùng một
lúc, vừa lo kinh tế, vừa lo việc nhà,và cả việc cộng đồng. Trong lúc đó nam giới có thể chỉ
tập trung vào một công việc chính là hoạt động kinh tế.
Với điều kiện làm việc như vậy, dễ hiểu tại sao phụ nữ khó tập trung tâm trí chi
cho một việc, hoặc tại sao phụ nữ lại chỉ làm được những việc nhỏ, không có tầm nhìn lâu
dài, ít hướng đến những việc có quy mô lớn.
Với quan điểm tiếp cận giới, những người xây dựng dự án phát triển cần chú ý đến
điều kiện làm việc phân tán, đa dạng của phụ nữ để xây dựng những hoạt động thích hợp,
tạo điều kiện cho phụ nữ có thể tham gia được.
Việc phân tích công việc do nam giới và nữ giới làm giúp thấy rõ hơn :
● Tất cả các loại công việc được thực hiện trong gia đình, trong cộng đồng, xã hội và giá
trị đích thực của các việc này.
● Đánh giá được ảnh hưởng khác nhau của các dự án đối với nam giới và nữ giới, tiến
đến việc xây dựng các kế hoạch phát triển đem lại lợi ích cho cả 2 giới.
● Các hoạt động có thể giúp phụ nữ bớt gánh nặng của công việc.
● Các biện pháp bảo đảm cho phụ nữ có điều kiện tham gia vào các dự án.
3. Vị trí và điều kiện sống của phụ nữ
Các dự án phát triển thường có mục đích cải thiện điều kiện sống của người dân
theo quan điểm tiếp cận giới và phát triển, cần làm rõ điều kiện sống hàng ngày của phụ
nữ và vị trí của họ trong xã hội.
Điều kiện sống liên quan chủ yếu đến các điều kiện vật chất, sức khỏe, học vấn…
1
của bản thân người phụ nữ, không so sánh với nam giới. Ví dụ : họ làm việc gì, họ và con
họ có những nhu cầu gì.
V
ị trí kinh tế – xã hội của phụ nữ được xét trong viễn cảnh so sánh với nam giới.
Ví dụ : So sánh trình độ học vấn, cơ hội có việc làm, lương giữa nữ và nam giới –
Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp lãnh đạo sovới nam giới.
Trong một gia đình hoặc trong một cộng đồng nghèo, nam giới, nữ giới và trẻ em
đều cùng chịu nghèo khổ và thiệt thòi, và cùng có những nhu cầu như nhau : nước sạch,
dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên nam và nữ sống và cảm nhận những nhu cầu
đó một cách khác nhau.
Ví dụ : Về nhu cầu nước và chất đốt. Người phụ nữ vì phải đảm nhiệm các công
việc nội trợ hàng ngày (nấu ăn, giặt giũ…) nên thấy có nhu cầu rất bức thiết về cấp nước,
chất đốt, chăm sóc sức khỏe, nâng cao thu nhập.
Nam giới với trách nhiệm truyền thống là trụ cột kinh tế của gia đình có thể dành
ưu tiên cho việc tiếp cận các nguồn lực : đất đai, kỹ thuật, nguyên vật liệu.
Các dự án phát triển có thể tác động đến điều kiện sống và vị trí của phụ nữ và nam
giới một cách khác nhau.
Một dự án cấp nước ở nông thôn có thể cải thiện điều kiện sống của phụ nữ rất
nhiều nhưng không ảnh hưởng mấy đến nam giới.
Ngược lại, một dự án đưa giống mới hoặc kỹ thuật mới vào nông nghiệp có thể
làm cho điều kiện làm việc của phụ nữ trở nên vất vả hơn vì họ phải tăng cường việc nhổ
cỏ, vệ sinh đồng ruộng, vốn là một hoạt động mà phụ nữ phải đảm nhiệm.
Một dự án có thể ảnh hưởng không tốt hoặc ảnh hưởng tích cực đến vị trí của
người phụ nữ : ảnh hưởng xấu nếu các hoạt động hạ thấp vai trò hoặc loại trừ phụ nữ ra
khỏi các hoạt động hay làm cho phụ nữ mất quyền kiểm soát. Tác động tích cực nếu
người phụ nữ được tham gia như là một tác nhân tích cực cải thiện tình hình.
Ví du : Một dự án cấp nước nông thôn có thể thay đổi vị trí của phụ nữ nếu dự án
chú ý đến việc huấn luyện kỹ thuật, huấn luyện kỹ năng quản lý, kiến thức về sức khỏe
cho phụ nữ, nếu người phụ nữ được tham gia vào ban quản lý dự án.
Cần lưu ý rằng nếu không có quan điểm phân tích giới các chương trình nhắm đối
tượng là phụ nữ không đương nhiên cải thiện điều kiện sống hay địa vị của người phụ nữ.
Nhìn chung nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ thường nhắm đến việc cải thiện điều kiện sống
1
của họ, tăng cường khả năng của phụ nữ để họ có thể thực hiện tốt hơn vai trò và những
trách nhiệm truyền thống của họ. Các hoạt động này thường tìm cách giúp phụ nữ thụ
hưởng các lợi ích và tiếp cận được với các nguồn tài nguyên (học tập, thu nhập…), nhưng
ít chú ý đến tăng cường sự kiểm soát của phụ nữ đối với các nguồn tài nguyên này. Các
hoạt động này cũng ít chú ý đến việc tăng cường vị trí, vai trò của phụ nữ so với nam giới
và phát huy vai trò của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ cùng nam giới tham gia vào các
hoạt động xã hội như một tác nhân của phát triển và biến đổi xã hội.
Các chỉ báo của sự cải thiện địa vị phụ nữ thường không rõ ràng như sự cải thiện
điều kiện sống của phụ nữ, vì chúng có tính chất định tính hơn là định lượng. Chúng ta có
thể xem xét các chỉ báo sau :
● Làm cho nam và nữ giới ngày càng chấp nhận phụ nữ là những người có quyền quyết
định ở cộng đồng.
● Làm cho phụ nữ tự tin hơn và tự lập về kinh tế.
● Có thêm nhiều tổ chức của phụ nữ và các tổ chức này được nhiều người biết đến.
● Có thêm nhiều phụ nữ trong các chương trình học tập và đào tạo.
● Sức khỏe của phụ nữ và trẻ em được cải thiện.
● Cải thiện địa vị của phụ nữ về mặt pháp lý.
● Giảm được những hành vi ngược đãi phụ nữ.
● Phụ nữ được tăng quyền tự chủ đối với việc sinh con.
● Giảm sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
● Gia tăng các mối quan tâm và nâng cao nhận thức của công chúng về các vấn đề phụ
nữ.
V. Một số điểm cần lưu ý khi học chương này
1. Sinh viên cần nắm vững công cụ phấn tích một ngày làm việc của nam giới và
nữ giới để áp dụng khi tiến hành nghiên cứu về giới.
2. Cần khách quan khi tìm hiểu các họat động của nam giới và nữ giới. Sự phân
công lao động có thể khác nhau tùy theo tầng lớp xã hội.
VI. Tóm lược những vấn đề cần ghi nhớ
Trong ba lọai công việc, chỉ có các họat động kinh tế đem lại thu nhập cho các gia
đình thường được chú trọng và có ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của cá nhân trong xã hội.
Cả nam lẫn nữ giới đều tham gia vào họat động này, nhưng vị trí của phụ nữ thường thấp
hơn. Các họat động chăm sóc, nuôi dưỡng thường do phụ nữ đảm nhiệm lại không đem
lại thu nhập bằng tiền, lại phân tán, tủn mủn, chiểm nhiều thời gian, điều này gây trở ngại
cho sự thăng tiến của phụ nữ. Cần tìm những giải pháp hài hòa hai gánh nặng công việc.
San sẻ việc nhà giữa nam và nữ là một hướng đi hợp lý.
VII. Câu hỏi để sinh viên tự trả lời hoặc thảo luận nhóm
1
Bài tập nhóm: một ngày làm việc của nam giới và nữ giới
Có thể phân sinh viên thành 4,5 hoặc 6 nhóm, tùy theo số lượng sinh viên. Mỗi nhóm
có ít nhất 4 người, nhiều nhất 8 người. Không nên lập nhóm quá đông vì như vậy sinh
viên sẽ khó thảo luận.
Mỗi nhóm chọn khảo sát một lọai gia đình. Gợi ý những lọai gia đình như sau:
nông dân nghèo
nông dân bậc trung
dân nghèo thành thị
cán bộ – nhân viên bậc trung
gia đình doanh nhân
bà mẹ nông dân đơn thân.
Để thuận tiện cho thảo luận, sinh viên sẽ chỉ khảo sát công việc của người chồng và
nguời vợ . Với trường hợp bà mẹ đơn thân thì chỉ kháo sát công việc của bà mẹ.
Nên chọn các cặp vợ chồng trung niên, trong độ tuổi từ 30 đến 45 tuổi, con cái chưa
trưởng thành để thấy khối lượng công việc ở giai đọan bận rộn nhất của các gia đình.
Đối với mỗi gia đình, sinh viên nên nêu vài đặc điểm kinh tế, xã hội, nhân khẩu: tuối,
nghề nghiệp, số con, trình độ văn hóa.
Sinh viên ghi càng chi tiết càng tốt các công việc của người chồng, người vộ trong
ngày, từ khi thức dậy đến khi đi ngủ.
Sau khi ghi các công việc, sinh viên thống kê cho nam riêng, cho nữ riêng tổng số giờ
làm việc hoặc nghỉ ngơi cho từng lọai công việc theo bảng sau:
●
●
●
●
●
●
●
●
●
●
●
Công việc
Số giờ thực hiện
Sản xuất / kinh tế
Tái sản xuất, chăm soć, nuôi dưỡng
Nghỉ ngơi trong ngày
Ngủ
________________
Tổng số giờ: 24 giờ
Tùy theo kết quả khảo sát, sinh viên cho nhận xét và bình luận về công việc của nam
giới và nữ giới, những thuận lợi và trở ngại của hai giới trong phân công lao động.
Thời
gian
1
Phụ nữ làm
Nam giới làm
1
BÀI ĐỌC THÊM
BẤT BÌNH ĐẲNG VỀ GIỚI GIỮA CÁC NHÀ KHOA HỌC
Theo kết quả một cuộc điều travề lương của những người làm trong lĩnhvực y tế và
sinh học, phái nữ chỉ được trả thù lao bằng 2/3 so với các đồng nghiệp nam. Tại Mỹ,
lương trung bình của nhà khoa học nữ là 72.000 USD, so với mức 94.000 USD của nam
giới.
Công bố trên đây được Hiệp hộiTiến bộ Khoa học Mỹ đưa ra sau khi điều tra gần
20.000 người làm công tác nghiên cứu, quản lý, giáo sư, giảng viên… trong lĩnh vực khoa
học đời sống và chăm sóc sức khỏe. Lý giải về hiện tượng này, Hiệp hội cho hay : “Đàn
ông tiến xa hơn trong sự nghiệp. Họ làm việc nhiều hơn và thuộc nhóm các lĩnh vực y tế
có thu nhập cao hơn”.
Tuy nhiên, Catherine Didion, Giám đốc Hiệp hội Phụ nữ làm công tác khoa học,
nhận định lời giải thích này “là lập luận được đưa ra từ 2 thập kỷ trước, chứ không phải là
ngày nay”. Bà nhấn mạnh phụ nữ giờ đây đã đóng vai trò không nhỏ trong đội ngũ khoa
học, chiếm tới 50% trong nhiều lĩnh vực, và rằng không có lý do nào cho việc tồn tại
những bất bình đẳng về lương theo giới. “Nhiều phụ nữ có chất lượng công việc và kinh
nghiệm tốt. Lương của họ xứng đáng ngang với các đồng nghiệp nam giới”, Didion nói.
Theo cuộc điều tra, sự phân biệt về lương theo giới tính thể hiện rõ nhất trong lĩnh
vực vật lý, các tổ chức và các công ty khoa học. Chẳng hạn, lương trung bình của các nhà
quản lý nam là 160.000 USD, trong khi lương cho phái nữ ở vị trí tương tự là 125.000
USD. Đối với các nhà vật lý, lương của nam giới trung bình là 125.000 USD, so với
90.000 USD của nữ giới.
2/3 số nhà khoa học nữ được hỏi cho biết công việc của họ bị hạn chế phần nào do
sự nghiệp của chồng. Khoảng 1/3 cho biết công việc của họ bị ảnh hưởng “rất nhiều” bởi
hôn nhân. Ngược lại, chỉ có 7% nhà nghiên cứu nam cho biết nghề nghiệp của người vợ
có ảnh hưởng đáng kể đến công việc của họ.
B.H. (T
heo CNN)
17/10/2001
1
CHƯƠNG IV
NHU CẦU GIỚI
I. Giới thiệu khái quát chương III
Chương III giới thiệu một cách tiếp cận được sử dụng khá rộng rãi trong các khảo
sát các nhóm dân cư , đó là khảo sát nhu cầu. Chương này giới thiệu những đặc điểm và
cách xác định nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược trong những khảo sát về giới.
II. Những điều sinh viên cần đạt được sau khi học chương này
1.
Định nghĩa và cách xác định nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược, mối liên hệ
giữa hai lọai nhu cầu này.
2.
Tầm quan trọng của nhu cầu chiến lược trong quá trình tiến đến bình đẳng giới.
III. Tài liệu tham khảo
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, UNICEF, UNDP, Tài liệu tập huấn về giới, Hà Nội, 1996.
(Chương trình bày nhu cầu giới).
uốn xây dựng các hoạt độnghay dự án hỗ trợ một nhóm dân cư, 1 nhóm phụ nữ
M
hay một cộng đồng thì việc tìm hiểu và xác định nhu cầu của họ là cần thiết.
I. Nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược
Trong các loại nhu cầu của phụ nữ (hay của dân cư nói chung) người ta thường
phân ra 2 loại : nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược.
1. Nhu cầu thiết thực : thường liên quan đến điều kiện sống và làm việc của phụ
nữ. Các nhu cầu này xuất phát từ điều kiện sống và làm việc khó khăn, thiếu thốn nguồn
lực hoặc tài nguyên. Do đó, phụ nữ nghèo ở các nước đang phát triển thường dễ xác định
các nhu cầu thiết thực, liên quan đến dinh dưỡng, thực phẩm, nguồn cung cấp nước, sức
khỏe và việc học tập của con cái, gia tăng thu nhập. Đây là những nhu cầu trước mắt mà
cái dự án phát triển có thể đáp ứng trong một thời gian ngắn, ví dụ trang bị thêm phương
tiện, máy móc, huấn luyện kỹ thuật, trang bị máy bơm, xây trường, bệnh viện, cung cấp
bác sĩ, y tá, giáo viên… lập nhóm tín dụng – tiết kiệm. Thường thường, các dự án nhằm
mục đích đáp ứng nhu cầu thiết thực và cải thiện điều kiện sống của phụ nữ tiếp tục duy
trì mối quan hệ truyền thống giữa nam và nữ giới, ít chú trọng thay đổi địa vị của phụ nữ.
2. Nhu cầu chiến lược : của phụ nữ xuất phát từ vị trí lệ thuộc, thiệt thòi của họ
1