Mục lục
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC................................................................................2
I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ............2
1. Khái niệm Ngân sách nhà nước..........................................................2
2. Đặc điểm của Ngân sách nhà nước.....................................................5
3. Vai trò của NSNN ..............................................................................7
II- THU VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC........................................12
1. Thu Ngân sách nhà nước...................................................................12
1.1.Những vấn đề chung về thu NSNN............................................12
1.1.1. Khái niệm thu NSNN..............................................................12
1.2. Một số khoản thu chủ yếu của NSNN.......................................16
1.2.1. Thuế - Khoản thu chủ yếu của NSNN...............................16
1.2.2. Nguồn thu từ phí và lệ phí..................................................22
1.2.3. Khoản thu từ vay nợ của Chính phủ ..................................25
1.2.4. Viện trợ quốc tế .................................................................26
1.3. Giải pháp nhằm bồi dưỡng nguồn thu Ngân sách nhà nước....27
2. Chi Ngân sách nhà nước ..................................................................28
2.1. Những vấn đề chung về chi NSNN...........................................28
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm chi NSNN.....................................28
2.1.2. Phân loại các khoản chi NSNN..........................................30
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi NSNN.............................35
2.2. Những nguyên tắc tổ chức chi NSNN.......................................36
3. Cân đối ngân sách nhà nước..............................................................37
3.1. Nhận thức cơ bản về cân đối Ngân sách ..................................37
3.1.1. Khái niệm cân đối Ngân sách.............................................37
3.1.2. Các quan điểm về cân đối Ngân sách Nhà nước...............38
3.2. Thâm hụt ngân sách Nhà nước..................................................41
III. TỔ CHỨC HỆ THỐNG NSNN VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN
CỦA VIỆT NAM.......................................................................................45
1. Tổ chức hệ thống NSNN...................................................................45
2. Phân cấp quản lý NSNN....................................................................47
IV- NĂM NGÂN SÁCH VÀ CHU TRÌNH NSNN................................49
1. Năm ngân sách ..................................................................................49
2. Chu trình NSNN ................................................................................49
CÂU HỎI THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP............................................................52
TÀI LIỆU HỌC TẬP VÀ THAM KHẢO.......................................................52
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Trong chương này cần làm rõ các vấn đề sau:
- Ngân sách là gì? Vai trị của nó?
- Q trình tạo lập NSNN.
- Nhà nước sử dụng NSNN như thế nào?
- Nhà nước quản lý NSNN ra sao?
I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
a) Vài nét sơ lược về nguồn gốc ra đời và phát triển của Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước (NSNN) là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, Ngân sách nhà nước ra đời
là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại của Nhà nước và nền kinh tế hàng hoátiền tệ.
Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước", Ăngghen đã chỉ ra rằng: Nhà nước ra đời trong cuộc đấu tranh của xã hội có giai cấp, nó là sản
phẩm của đấu tranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực cơng
cộng để duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có nguồn lực
tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ thuế, bắt cơng dân phải
đóng góp lập ra quỹ tiền tệ riêng có - quỹ NSNN - để chi tiêu cho bộ máy nhà nước, quân đội,
cảnh sát... Nhưng dần dần những tham vọng về lãnh thổ, về chủ quyền đưa đến những cuộc
chiến tranh xâm lược làm cho bộ máy thống trị, quân đội ngày một lớn. Thuế không đảm bảo
được nhu cầu chi tiêu buộc Nhà nước phải vay nợ bằng cách phát hành công trái để bù đắp sự
thiếu hụt của NSNN.
Như vậy, qua việc phân tích nói trên của Ăng- ghen chúng ta có thể thấy rằng: sự ra đời
của NSNN luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của Nhà nước
quyết định bản chất giai cấp của NSNN.
- Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, nguồn thu của NSNN chủ yếu dựa
trên sự đóng góp bắt buộc của dân chúng để hình thành quỹ NSNN và quỹ này dùng để chi tiêu
cho nhà vua, quân đội, bộ máy công quyền cai trị xã hội. Người dân được hưởng rất ít các phúc
lợi cơng cộng từ NSNN.
2
- Khi giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ trương xây dựng một
Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các lực lượng kinh tế trên thị trường. Nhà nước
chỉ đơn thuần đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc phịng. NSNN lúc này chỉ đóng vai trị
là một quỹ tiền tệ của nhà nước để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước.
Bước vào những năm 1929-1933, nền kinh tế của các nước tư bản lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế
bằng cách lập ra các chương trình chi tiêu lớn và thực hiện tái phân phối lại thu nhập xã hội thông
qua các cơng cụ tài chính. Trong số các cơng cụ đó thì NSNN là cơng cụ quan trọng, sắc bén để nhà
nước thực hiện điều chỉnh nền kinh tế và nâng cao phúc lợi công cộng cho người dân.
- Đối với Nhà nước trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay, có những vấn đề mang
tính tồn cầu mà khu vực tư nhân không thể giải quyết được (chẳng hạn vấn đề bảo vệ môi
trường, sinh thái, thiên tai, việc chống khủng bố,...) do vậy nhà nước phải đứng ra giải quyết
các vấn đề đó. Trong thời kỳ này NSNN có thêm nhiệm vụ đảm bảo nguồn tài chính cho những
hoạt động đối ngoại nói trên của nhà nước.
Như vậy cùng với việc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và sự phát triển
của các quan hệ hàng hố- tiền tệ, các hình thức thu, chi của NSNN ngày càng phát triển phong
phú hơn và NSNN đã trở thành một công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc đảm bảo chi
tiêu cho nhà nước và tác động đến đời sống xã hội cho đất nước.
Vậy thực chất NSNN là gì?
b) Khái niệm NSNN
Cho đến nay, thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống
kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Thế nhưng người ta vẫn chưa có sự nhất trí về NSNN là gì? Có
nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm NSNN, tuỳ theo quan điểm của người định nghĩa thuộc
các trường phái kinh tế khác nhau, hoặc tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau.
- Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, thì: Ngân sách nhà nước là
một văn kiện tài chính, mơ tả các khoản thu, chi của Chính phủ, được thiết lập hàng năm.
- Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN.
Chẳng hạn:
+ Theo các nhà kinh tế phương Tây, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, là kế
hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước.
+ Các nhà kinh tế Trung Quốc cho rằng, NSNN là kế hoạch thu, chi tài chính hàng năm
của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp luật quy định.
+ Các nhà kinh tế Nga cũng cho rằng, NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng
tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.
3
Chúng ta có thể thấy, quan điểm của các nhà kinh tế Nga và Trung Quốc khá gần gũi
với quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển.
- Luật Ngân sách nhà nước đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam Khố
IX, kỳ họp thứ 9 thơng qua ngày 20/3/1996 cũng có ghi: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước trong dự tốn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của
Nhà nước.
Các ý kiến trên xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề khác nhau và có nhân tố hợp lý song
chưa đầy đủ. Bởi chúng mới chỉ mơ tả hình thức biểu hiện bên ngoài của NSNN, mà chưa phản
ánh được nội dung kinh tế bên trong- mặt bản chất của NSNN.
Khái niệm NSNN là một khái niệm trừu tượng, nhưng nếu xem xét ở giác độ hoạt động
tài chính thì NSNN lại là một hoạt động tài chính cụ thể của Nhà nước. Do vậy, khái niệm
NSNN phải thể hiện được mặt bản chất, tức là nội dung kinh tế - xã hội chứa đựng bên trong
của NSNN, muốn vậy NSNN phải được xem xét trên các giác độ khác nhau:
- Xét về hình thức: NSNN là một bản dự tốn thu và chi do Chính phủ lập ra, đệ trình
Quốc hội phê chuẩn và giao cho Chính phủ tổ chức thực hiện.
- Xét về thực thể: NSNN bao gồm những nguồn thu cụ thể, những khoản chi cụ thể và
được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp vào một quỹ tiền tệ - quỹ NSNN - và các khoản
chi đều được xuất ra từ quỹ tiền tệ ấy.
Thu và chi quỹ này có quan hệ ràng buộc với nhau gọi là cân đối cân đối thu- chi
NSNN, đó là một cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường và được Nhà nước quan tâm đặc biệt.
Vì lẽ đó có thể khẳng định NSNN là một quỹ tiền tệ lớn của Nhà nước.
- Xét trong tổng thể một hệ thống tài chính thống nhất: NSNN là khâu chủ đạo trong hệ
thống tài chính quốc gia.
- Xét về các nội dung kinh tế chứa đựng trong NSNN: Quan sát các hoạt động ngân
sách ta thấy: các khoản thu - luồng nhập quỹ NSNN, các khoản chi - xuất quỹ NSNN chính là
q trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước. Trong q trình đó xuất hiện hàng
loạt các quan hệ tài chính giữa một bên là Nhà nước với một bên là các chủ thể phân phối trong
quá trình phân phối các nguồn tài chính .Cụ thể:
Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với dân cư, thể hiện: dân cư nộp các thứ thuế cho nhà
nước và nhà nước chi các khoản hỗ trợ cho dân cư như các khoản trợ cấp xã hội, y tế, giáo dục,
trợ cấp xố đói giảm nghèo.v.v.
Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với khu vực doanh nghiệp, thể hiện: doanh nghiệp
nộp thuế cho nhà nước và nhà nước chi hỗ trợ vốn đầu tư, trợ cấp xuất khẩu cho doanh nghiệp.
4
Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội, thể hiện nhà nước chi hỗ trợ
cho hoạt động của các tổ chức xã hội được khuyến khích.
Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với các Nhà nước khác và với các tổ chức quốc tế,
thể hiện: ở quan hệ vay nợ, viện trợ, hợp tác kinh tế giữa các nhà nước với nhau hoặc giữa nhà
nước với các tổ chức phi chính phủ.v.v.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngồi của NSNN là một quỹ tiền tệ của Nhà
nước với các khoản thu, chi của nó thì NSNN lại phản ánh các quan hệ kinh tế gắn với một chủ
thể đặc biệt đó là Nhà nước trong quá trình phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm tạo
lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, xã hội.
Những quan hệ thu nộp và cấp phát qua quỹ NSNN là những quan hệ được xác định trước,
được định lượng và Nhà nước sử dụng chúng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Từ sự phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm NSNN như sau:
NSNN là một khâu của hệ thống tài chính quốc gia, nó phản ánh quan hệ kinh tế
phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện
các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
2. Đặc điểm của Ngân sách nhà nước
Từ việc phân tích nguồn gốc ra đời và khái niệm của NSNN, chúng ta rút ra một số đặc
điểm cơ bản của NSNN:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn với quyền lực của Nhà nước và
được Nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định.
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của NSNN. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung hay
bãi bỏ một khoản thu, chi nào của NSNN cũng chỉ có một cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước
- Quốc hội quyết định. Mặt khác tính quyền lực của Nhà nước đối với NSNN cịn thể hiện ở chỗ
Chính phủ khơng thể thực hiện thu, chi NS một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở pháp lý đã được
xác định trong các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực của Nhà nước ban hành.
Bởi vì:
- Quá trình tạo lập quỹ NSNN (thu NSNN) chính là q trình phân phối lại lợi ích kinh
tế giữa Nhà nước và các chủ thể tham gia phân phối, trong đó Nhà nước điều tiết một phần lợi
ích kinh tế từ các chủ thể tham gia phân phối là các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên,
trong thực tế không phải tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội đều sẵn sàng chia sẻ lợi ích
của mình cho Nhà nước. Do vậy, để điều tiết được một phần thu nhập của xã hội nhằm tạo lập
được quỹ NSNN thì Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để buộc các tổ chức, cá nhân
trong xã hội đóng góp.
5
- Quá trình sử dụng quỹ NSNN (chi NSNN) cũng chính là q trình phân phối lợi ích
nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Quá trình này tác động đến lợi ích
kinh tế của các chủ thể ở mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội do vậy để đảm bảo tính thống nhất, kỷ
cương trong đời sống kinh tế xã hội để Nhà nước hoàn thành chức năng của mình thì các khoản
chi NSNN phải được thể hiện bằng quyền lực của Nhà nước tức là luật pháp.
Thứ hai, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng
của Nhà nước, luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích cơng cộng.
Như phần trên đã phân tích, hoạt động NSNN được biểu hiện cụ thể bằng các hoạt động
thu và chi, trong đó:
- Thu NSNN chính là q trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ đặc biệt- quỹ này thuộc
sở hữu của Nhà nước.
- Chi NSNN, chính là việc sử dụng quỹ này chi tiêu cho những hoạt động của bộ máy
quản lý hành chính, quốc phịng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, các vấn
đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp xã hội trước mắt và lâu dài. Tất cả những khoản chi nói
trên nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Kết quả của các khoản chi nói trên khơng ngồi mục đích đảm bảo cho một xã hội ổn
định, nền kinh tế tăng trưởng bền vững và phúc lợi công cộng được nâng cao. Do vậy hoạt
động của NSNN ln chứa đựng lợi ích cơng cộng, lợi ích chung toàn xã hội.
Thứ ba, hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện theo ngun tắc khơng hồn trả trực
tiếp là chủ yếu.
Tính chất khơng hồn trả trực tiếp của hoạt động thu, chi NSNN được thể hiện trên các
khía cạnh sau:
Một là: Sự chuyển giao thu nhập của xã hội vào quỹ NSNN chủ yếu thơng qua hình
thức thuế. Đó là hình thức thu- nộp bắt buộc, khơng mang tính hồn trả trực tiếp. Có nghĩa là
mức thu nhập mà người nộp chuyển giao cho Nhà nước khơng hồn tồn dựa trên mức độ lợi
ích mà người nộp thuế thừa hưởng từ những dịch vụ và hàng hố cơng cộng do Nhà nước cung
cấp. Ngược lại, người nộp thuế cũng khơng có quyền địi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hố,
dịch vụ cơng cộng trực tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước;
Hai là: Mọi người dân sẽ nhận được một phần các hàng hố, dịch vụ cơng cộng mà Nhà
nước đã cung cấp cho cả cộng đồng. Phần giá trị mà người đó được hưởng thụ khơng nhất thiết
tương đồng với khoản đóng góp mà họ đã nộp vào NSNN.
Ngoài ba đặc điểm nêu trên, NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác
(thể hiện tính mục đích và tính vận động thường xuyên). Tuy nhiên, nét riêng biệt của NSNN
với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước là nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có
6
tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới được chi dùng cho những mục đích nhất định đã định
trước.
Nghiên cứu những đặc điểm của NSNN không những cho phép tìm được phương thức
và phương pháp quản lý NSNN hiệu quả hơn, mà còn giúp ta nhận thức và phát huy tốt hơn vai
trò của Ngân sách nhà nước.
3. Vai trị của NSNN
NSNN có vai trị rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng và đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, vai trò của NSNN bao giờ cũng gắn liền với vai
trò của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trị của NSNN có thể xem xét trên một số mặt sau đây:
3.1. NSNN là cơng cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Sự hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội ln địi hỏi phải
có các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của nhà
nước được thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngồi thuế. Đây là vai trị lịch
sử của NSNN, được xuất phát từ tính nội tại của phạm trù tài chính mà trong bất kỳ chế độ xã
hội và cơ chế kinh tế nào, NSNN đều phải thực hiện và phát huy.
Để phát huy vai trò của NSNN trong quá trình phân phối, huy động các nguồn tài chính
của xã hội cho nhà nước cần thiết phải xác định:
- Mức động viên các nguồn tài chính từ đơn vị cơ sớ để hình thành nguồn thu của nhà
nước.
- Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho nhà nước và thực hiện các khoản
chi của nhà nước.
-
Tỷ lệ động viên (tỷ suất thu) của nhà nước trên GDP.
[Theo thống kê của thế giới, mức động viên GDP vào NSNN ở các nước phát triển thường
khoảng trên 30%, và ở các nước đang phát triển khoảng từ 14% đến 17% (khơng tính tới các
khoản khơng phải là thuế, phí, lệ phí như các nguồn thu từ bán tài nguyên thiên nhiên đặc biệt
là dầu thôlà thứ không tái tạo lại được trong tương lai)
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách quyết định qui mô quỹ NSNN.
Ở 30 nước của nền kinh tế phát triển (nguồn kinh tế tài chính thế giới 1970-2000 của Viện
nghiên cứu tài chính), tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách chính quyền trung ương bình qn
trong giai đoạn 1971-2000 là 29.92 %GDP.
Cũng cùng giai đoạn trên, đối với 13 nước của nền kinh tế khu vực EURO là 32,23%GDP ; của
nhóm G7 là 25,74%GDP (trong đó duy chỉ có Nhật là dưới 15% GDP do nước này phân cấp
mạnh ngân sách cho chính quyền địa phương);
7
Nhóm 33 nước xuất khẩu dầi khí giai đoạn 2000-2005 là 37,45 % GDP ( Viet Nam 23,72%
GDP). Các nước ASEAN giai đoạn 1971-2000 (trừ tài trợ) là 18,93% GDP (Việt Nam 20,25 %
GDP) !
Vậy tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách ở Việt Nam bao nhiêu sẽ là hợp lý ?
Việt Nam là nước có GDP thấp với nền kinh tế và thu ngân sách phụ thuộc một phần quan
trọng vào khai thác xuất khẩu dầu thô và tài ngun khống sản thơ, hơn thế nữa lại là nước vay
nợ thuần với tỷ lệ nợ Chính phủ tương đối cao.
Tổng thu và viện trợ của VN qua các năm 2004, 2005, 2006 lần lượt là 26,7% GDP; 25,9%
GDP; 24,5% GDP trong đó thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm tỷ trọng tương đối lớn (hơn
8%GDP) tiếp đến là thuế VAT. Trong khi thu NSTW (trừ viện trợ) tương ứng năm là 17,4%
GDP ; 16,9% GDP; 16% GDP. ( nguồn IMF tháng 11 năm 2006).
Qua phân tích và nhận định của các chuyên gia, tỷ lệ động viên hợp lý GDP vào ngân sách
chính quyền TW của Việt Nam hiện nay ở mức 16% GDP là hoàn toàn hợp lý.
Bên cạnh đó tỷ lệ động viên GDP và NSNN nói chung ở mức 24% GDP hiện nay cũng hợp lý
(theo đó tỷ trọng thu NSTW chiếm 2/3 NSNN như mức độ phân cấp thu NSNN hiện nay).
Muốn duy trì mức độ phân cấp như hiện nay với tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách chính
quyền TW của VN ở mức 18% GDP thì cần 27% GDP cho NSNN - mức này bất hợp lý so với
trình độ và nguồn lực phát triển kinh tế VN hiện nay và trong tương lai gần. Phần giảm thu từ
dầu khí và thuế XNK của NSTW được bù đắp bằng thuế trực thu, đặc biệt là từ thuế TNDN,…
(Câu hỏi thêm: trong khi mức thu từ dầu thơ vẫn được tính chung là tổng thu của NSNN phục
vụ cho chi tiêu chung của Chính phủ, nếu tách riêng ra thành một quỹ riêng thi mức động viên
của Việt Nam trong tương lai tới đây sẽ phải được bù vào bởi khoản thu nào để thế cho khoản
thu từ dầu thơ đã được bóc tách riêng. Và với mục tiêu phát triển bền vững thì trong trường hợp
bóc tách ấy bạn có ý kiến sử dụng quỹ thu từ dầu thơ vào việc gì?)
3.2. NSNN là công cụ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền
kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững.
Thông qua các khoản chi kinh tế và chi đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ
tầng kinh tế, phát triển những ngành mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên thị trường; đẩy
mạnh sản xuất các mặt hàng thuộc thế mạnh xuất khẩu.. ., Chính phủ có thể tạo điều kiện
và hướng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào những lĩnh vực, những vùng cần
thiết để hình thành cơ cấu kinh tế mới cũng như tạo ra môi trường thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh. Các khoản chi này của NSNN khơng thu hồi trực tiếp, nhưng hiệu quả của nó
lại được tính bằng sự tăng trưởng của GDP, sự phân bố chung hợp lý của nền kinh tế hoặc
bằng các chỉ tiêu khác như tạo ra khả năng tăng tốc độ lưu chuyển hàng hố và dịch vụ...
Thơng qua thu ngân sách mà chủ yếu là thuế cũng góp phần định hướng phát triển sản
xuất. Việc đặt ra các loại thuế với thuế suất ưu đãi, các quy định miễn, giảm thuế... có tác dụng
8
kích thích mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp. Một chính sách thuế có lợi sẽ thu hút được
doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết, ngược lại, một chính sách thuế khắt khe sẽ giảm
bớt luồng di chuyển vốn vào nơi cần hạn chế sản xuất kinh doanh.
Rõ ràng là chính sách thu, chính sách chi ngân sách gắn liền với chính sách phát triển kinh tế xã hội và phục vụ trực tiếp cho chính sách này của Nhà nước.
3.3. NSNN là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cung cầu chi phối đến giá cả thị trường rất mạnh
mẽ. Mọi sự biến động của giá cả trên thị trường đều có nguyên nhân từ sự mất cân đối giữa
cung và cầu. Để ổn định giá cả, chính phủ có thể thông qua công cụ NSNN để tác động vào
cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trường. Sự tác động này có thể được thực hiện theo hai hướng:
thu và chi NSNN. Cụ thể:
(i) Thơng qua điều chỉnh chính sách thu NSNN:
Bằng việc điều chỉnh cơ cấu hệ thống thuế, thuế suất, chính sách miễn giảm thuế hợp
lý.v.v. Chính phủ cũng có thể tác động vào tổng cung hoặc tổng cầu để góp phần ổn định giá cả
trên thị trường.
Ví dụ: khi giá cả hàng hố lên cao, có nguy cơ trở thành lạm phát, nhà nước có thể điều
chỉnh tăng thuế thu nhập cá nhân để giảm cầu, miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp sản
xuất.v.v. để nâng đỡ cung từ đó thúc đẩy cân bằng cung cầu, ổn định giá cả, hạn chế lạm phát
xảy ra
(ii) Thông qua chính sách chi tiêu của Nhà nước (chi NSNN).
Bằng nguồn cấp phát của chi tiêu NS hàng năm các quỹ dự trữ của Nhà nước (bằng
tiền, bằng ngoại tệ, các loại hàng hố, vật tư chiến lược...) được hình thành. Thơng qua các quỹ
này, Chính phủ thực hiện điều tiết thị trường bình ổn giá cả. Một cách tổng quát, cơ chế điều
tiết là:
+ Khi giá cả của một loại hàng hố nào đó lên cao, để kìm hãm và chống đầu cơ, Chính
phủ đưa dự trữ hàng hố đó ra thị trường để tăng cung, trên cơ sở đó sẽ bình ổn được giá cả và
hạn chế khả năng tăng giá đồng loạt, gây nguy cơ lạm phát chung cho nền kinh tế.
+ Còn khi giá cả một loại hàng hố nào đó bị giảm mạnh, có khả năng gây thiệt hại cho
người sản xuất và tạo ra xu hướng di chuyển vốn sang lĩnh vực khác, Chính phủ sẽ bỏ tiền để
mua các hàng hố đó theo một giá nhất định đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất.
- Trong trường hợp xảy ra lạm phát, Chính phủ cũng có thể sử dụng NSNN để khống
chế và đẩy lùi lạm phát một cách hiệu quả bằng các biện pháp nhằm nâng đỡ cung và giảm bớt
cầu, đó là:
+ Thắt chặt chi tiêu của NSNN, nhất là các khoản chi cho tiêu dùng;
9
+ Tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế thu nhập.
3.4. Ngân sách là công cụ hữu hiệu của Nhà nước để điều chỉnh trong lĩnh vực thu
nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một mâu thuẫn gay gắt đang nảy sinh trong thời đại hiện nay là mâu thuẫn giữa tính
nhân đạo xã hội mà mỗi nhà nước và mỗi cá nhân cần vươn tới và quy luật khắt khe của nền
kinh tế thị trường xung quanh vấn đề thu nhập, đó là sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa
người giàu và người nghèo. Vấn đề đặt ra là phải có một chính sách phân phối hợp lý thu nhập
của tồn xã hội. Chính sách đó phải vừa khuyến khích sự tăng trưởng, lại vừa đảm bảo tính
cơng bằng xã hội một cách hợp lý.
Bằng việc sử dụng công cụ NSNN, cụ thể là chính sách thuế và chính sách chi tiêu ngân
sách, Chính phủ đã làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa người giàu và người
nghèo nhằm ổn định đời sống của các tầng lớp dân cư trong phạm vi cả nước. Hay nói cách
khác, vai trò quan trọng của NSNN trong điều chỉnh phân phối thu nhập được thể hiện trên
phạm vi rộng lớn ở cả hai mặt hoạt động thu và chi NSNN. Cụ thể:
(i) Sử dụng công cụ thuế
- Thông qua thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước thực hiện việc điều tiết một phần thu
nhập của những người giàu, để đảm bảo mức tiêu dùng hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, hạn
chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới đảm bảo công bằng xã hội về thu nhập.
- Với việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, đánh thuế giá trị gia tăng với thuế suất cao đối
với các mặt hàng xa xỉ, các loại dịch vụ cao cấp, Nhà nước có thể để điều tiết một phần thu
nhập của những người giàu có- đối tượng chủ yếu sử dụng các loại hàng hoá cao cấp này.
(ii) Sử dụng chính sách chi tiêu ngân sách
Thơng qua các khoản chi an sinh xã hội, chi cho các chương trình giải quyết việc làm,
xố đói giảm nghèo, chi trợ cấp trợ giá các mặt hàng thiết yếu (lương thực, điện, nước), chi phí
cho việc cung cấp hàng hố khuyến dụng, hàng hố cơng cộng.v.v. thì NSNN như một trung
tâm phân phối lại thu nhập, nhằm chuyển bớt một phần thu nhập từ các tầng lớp giàu có sang
tầng lớp những người nghèo
Thông thường ở các quốc gia trên thế giới, các khoản chi phí cho mục tiêu phúc lợi xã
hội, mục tiêu trợ cấp cho người nghèo được bố trí theo chiều hướng tăng lên theo một tỷ lệ nhất
định so với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.
* Lưu ý:
- Việc sử dụng công cụ NSNN làm công cụ điều chỉnh đảm bảo công bằng xã hội là
một việc không đơn giản. Chẳng hạn:
10
+ Trong việc sử dụng công cụ thuế, quan điểm cơ bản nhất cần phải quán triệt là: kích
thích sản xuất và điều hồ thu nhập. Thuế khơng thể thu quá cao đến mức làm nhụt khát vọng
làm giàu của nhà kinh doanh và làm giảm khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Thuế cũng
không thể thu quá thấp, bởi lẽ nó khơng chỉ làm giảm nguồn thu của NSNN, nguồn cơ bản để
giải quyết các vấn đề xã hội, mà ở mức độ nhất định, nó cịn hạn chế cạnh tranh để phát triển
sản xuất. Vì thế, mức thuế và thuế suất phải được nghiên cứu thận trọng ở cả hai cực: kích
thích và hạn chế.
+ Đối với nước ta hiện nay, nhu cầu chi tiêu của Chính phủ ngày càng tăng, nhất là các
khoản chi tiêu dùng xã hội, trong khi đó nguồn thu NSNN cịn hạn hẹp. Để giải quyết mâu
thuẫn nói trên, trong thời điểm hiện nay thì trong việc giải quyết các vấn đề xã hội cần thiết
phải quán triệt quan điểm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".
- Vấn đề điều chỉnh thu nhập, tái phân phối thu nhập qua NSNN không chỉ hiểu đơn
giản là điều tiết phần thu nhập quá cao, mà còn bao hàm cả việc điều chỉnh mức thu nhập quá
thấp đến mức thu nhập trung bình, đủ để người lao động thực hiện tái sản xuất giản đơn sức lao
động và có thể dự trữ một phần thu nhập để thực hiện các khoản chi khác trong sinh hoạt gia
đình.
Thực tế thì theo nghiên cứu của một số nhà kinh tế trên thế giới cho thấy rằng những
người nghèo phải chịu nhiều tiền thuế hơn là người giàu bởi họ tiêu dùng nhiều hơn số hàng
nhập khẩu như quần, áo, ... Trong khi số người giàu và dân thành thị dùng hàng hố cơng nhiều
hơn lớp nghèo ở nơng thơn do vậy thuế suất thực của nhóm người nghèo phải chịu cao hơn
nhóm giàu.
Ở Việt Nam hiện nay đang cải cách thuế theo hướng tăng thuế trực thuế và giảm thuế
gián thu nhằm đảm bảo hợp lý hoá công bằng cho người nghèo , tuy nhiên ở một số nước phát
triển như Nhật và Canada thì lại ngược lại ( tăng thuế gián thu và giảm thuế trực thu ) tại sao
vậy ?
Các doanh nghiệp cũng không thể suốt đời phục vụ cho mục đích tăng trưởng kinh tế
nếu thu nhập của họ bị chia xẻ một cách vô lý. Đây là mâu thuẩn cơ bản trong nền kinh tế thị
trường mà chính sách thuế của chính phủ phải giải quyết.
Các nhà kinh doanh sẵn sàng đóng góp một phần thu nhập cho xã hội mà không làm suy
giảm sự tăng trưởng của họ. Nói cách khác là nhà kinh doanh có thể khơng quan tâm nhiều tới
thuế suất của Việt Nam áp dụng là 28% hay tới đây có thể là 25%, mà họ quan tâm tới tổng số
thuế họ phải nộp chiếm bao nhiêu % so với tổng lợi nhuận trước thuế mà họ có được và việc
nộp một lượng thuế như vậy có làm cho họ bị hạn chế trong tái sản xuất mở rộng hay khơng?
Việc giảm thuế suất tuy ban đầu có thể giảm thu NSNN nhưng nó sẽ có tác động kích thích sản
11
xuất, và hệ quả trong tương lai gần thu NSNN sẽ tăng lên từ nguồn thu từ doanh nghiệp.
Sau đây chúng ta xem xét các hoạt động thu, chi NSNN.
II- THU VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Thu Ngân sách nhà nước
1.1.Những vấn đề chung về thu NSNN
1.1.1. Khái niệm thu NSNN
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử dụng ba hình thức
động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc dân
phải đóng góp. Trong đó hình thức qun góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân
là những hình thức khơng mang tính ổn định và lâu dài, thường được Nhà nước sử dụng có giới
hạn trong một số trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước
dùng quyền lực chính trị của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân phải đóng góp một
phần thu nhập của mình cho Ngân sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy
động tập trung nguồn tài chính cho Nhà nước. Vậy ta có thể nói rằng:
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài
chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Từ khái niệm nói trên về thu NSNN, chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản sau
đây:
- Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN chính là một phần thu nhập của các tầng
lớp dân cư được chuyển giao cho nhà nước.
Do vậy, thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các
nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội. Việc xác định các khoản
thu phải trên cơ sở giải quyết hài hồ giữa lợi ích Nhà nước với lợi ích của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội.
- Đối tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia là kết quả do lao động sản xuất
trong nước tạo ra được thể hiện dưới hình thức tiền tệ (GDP).
Như vậy, thu NSNN trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động kinh tế trong xã
hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm là tiền đề và là yếu tố khách
quan hình thành nên các khoản thu NSNN và quyết định mức độ động viên các khoản thu của
NSNN.
12
- Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị
nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia
hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
1.1.2. Phân loại thu NSNN
Việc phân loại các khoản thu NSNN có ý nghĩa thiết thực trong việc phân tích, đánh giá
và quản lý các nguồn thu NSNN.
Có 3 cách phân loại phổ biến là:
a) Căn cứ vào phạm vi phát sinh, các khoản thu NSNN được chia làm hai nhóm là thu
trong nước và thu ngoài nước. Cụ thể:
- Các khoản thu trong nước bao gồm:
+ Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là lĩnh vực tạo ra đại bộ phận tổng sản
phẩm xã hội và cũng là nơi tạo ra số thu chủ yếu cho NSNN.
+ Thu từ hoạt động dịch vụ (là những hoạt động phục vụ cho sản xuất kinh doanh và
đời sống xã hội) bao gồm cả thu sự nghiệp và thu từ các dịch vụ tài chính. Số thu từ lĩnh vực
này có xu hướng ngày càng tăng.
+ Thu từ các hoạt động khác như thu về bán và cho thuê tài sản quốc gia, nguồn tài
nguyên, vay nợ trong nước dưới các hình thức.v.v.
- Các khoản thu ngoài nước bao gồm:
+ Thu từ các hoạt động xuất khẩu lao động và hợp tác chuyên gia với nước ngoài;
+ Thu từ viện trợ của nước ngoài
+ Thu từ vay nợ nước ngoài, kể cả vay các tổ chức tài chính quốc tế.
* Ý nghĩa của cách phân loại này: các phân loại này phản ánh cơ cấu của nền kinh tế,
thơng qua đó có thể đánh giá tính hiệu quả, tính hợp lý của nền kinh tế.
b) Căn cứ vào tính chất phát sinh và nội dung kinh tế, các khoản thu được chia làm hai
loại:
- Các khoản thu thường xuyên: là các khoản thu phát sinh tương đối đều đặn, ổn định về
mặt thời gian và số lượng gồm thuế, phí, lệ phí.
- Các khoản thu không thường xuyên: là những khoản thu không ổn định về mặt thời
gian phát sinh cũng như số lượng tiền thu được, bao gồm các khoản thu từ hoạt động kinh tế
của Nhà nước, thu từ hoạt động sự nghiệp, thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà
nước, thu từ viện trợ nước ngoài, từ vay trong nước và ngoài nước và các khoản thu khác.
13
* Ý nghĩa của cách phân loại này: Việc phân loại các khoản thu NSNN dựa trên sự kết
hợp giữa hai tiêu chí: theo nội dung kinh tế và tính chất phát sinh của nguồn thu là cần thiết,
bởi qua cách phân loại này để thấy rõ sự phát triển của nền kinh tế, tính hiệu quả của nền kinh
tế và mức độ ổn định vững chắc của nguồn thu NS.
c) Phân loại theo yêu cầu động viên vốn vào NSNN:
Có thể chia các khoản thu NSNN thành:
- Thu trong cân đối NSNN:
Bao gồm các khoản thu:
+ Thuế, phí, lệ phí
+ Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, bao gồm: thu nhập từ vốn góp của Nhà nước
vào các cơ sở kinh tế, tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay
của Nhà nước (cả gốc và lãi).
+ Thu từ hoạt động sự nghiệp
+ Thu tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước
+ Các khoản thu khác theo luật định.
Trong các khoản thu nói trên thì thuế là nguồn thu chủ yếu, chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng thu của NSNN
- Thu bù đắp thiếu hụt NSNN: khi số thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu
và Nhà nước phải đi vay, bao gồm vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội, vay từ nước ngoài.v.v.
* Ý nghĩa của cách phân loại này: Cách phân loại này cho phép đánh giá sự lành mạnh
của NSNN và rất có ý nghĩa trong tổ chức điều hành NSNN.
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức động viên và lĩnh
vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó khơng chỉ ảnh hưởng đến số thu NSNN, mà
còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động
viên lại chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia. Các nhân tố ảnh
hưởng đến thu NSNN cần phải kể đến là:
a) Thu nhập GDP bình quân đầu người
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, phản
ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Thu nhập GDP bình quân đầu người
là nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN. Nếu không tính đến chỉ tiêu này khi xác
định mức động viên của ngân sách sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và
14
đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư. Thông thường mức động viên vào
NSNN ở các nước khoảng từ 17%- 21% GDP là hợp lý.
* Lưu ý:
Hiện nay, có một nghịch lý ở các nước đang phát triển. Đó là ở các nước này, khả năng
thu là rất hạn chế (do GDP bình quân đầu người thấp) trong khi nhu cầu chi cho phát triển kinh
tế và các vấn đề xã hội lại rất lớn nên tỷ lệ động viên của các nước này thường rất cao (thường
trên 23%) do vậy đã gây ra hiệu ứng tiêu cực là kìm hãm sản xuất, gây thất thu trong tương lai.
b) Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế
Tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ
suất lợi nhuận càng lớn, nguồn tài chính càng lớn. Đây là nhân tố quyết định đến việc nâng cao
tỷ lệ động viên của NSNN.
Dựa vào tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu NSNN sẽ tránh được
việc động viên vào NSNN gây khó khăn về tài chính cho hoạt động kinh tế. Hiện nay, tỷ suất
lợi nhuận trong nền kinh tế nước ta đạt thấp, trong khi chi phí tiền lương ngày càng tăng, nên tỷ
lệ động viên của NSNN không thể cao được.
c) Tiềm năng đất nước về tài nguyên thiên nhiên
Đối với các nước đang phát triển và nguồn tài ngun thiên nhiên phong phú thì nhân tố
này có ảnh hưởng lớn đến số thu NSNN.
Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng thu từ dầu thô chiếm khoảng 74% trong tổng thu NSNN (1).
Trong tương lai, việc xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất
khẩu. Đó là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng to lớn đến việc nâng cao tỷ lệ động viên của
NSNN.
d) Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước
Nhân tố này phụ thuộc vào:
+ Quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của nó
+ Những nhiệm vụ kinh tế- xã hội mà Nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ
+ Chính sách sử dụng kinh phí của Nhà nước
Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí Nhà nước khơng có khả năng tăng
lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước sẽ dẫn đến áp lực thu NSNN phải tăng lên.
* Lưu ý:
Ở hầu hết các nước đang phát triển, Nhà nước đều có tham vọng đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế bằng việc đầu tư vào các cơng trình lớn. Để có nguồn vốn đầu tư phải tăng thu.
(1)
Nguồn Bộ Tài chính, số liệu năm 2007
15
Nhưng trong thực tế tăng thu quá mức lại làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại. Để giải quyết
vấn đề nan giải đó, Nhà nước phải có một chương trình phát triển kinh tế, xã hội thận trọng trên
cơ sở khoa học và thực tiễn để đạt hiệu quả cao, từ đó xác lập một chính sách chi tiêu có hiệu
quả và tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa thu và chi của NSNN.
e) Tổ chức bộ máy thu nộp
Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn, lậu
thuế sẽ là nhân tố tích cực làm tăng hiệu quả thu NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NSNN.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, để xác định mức thu NSNN đúng đắn cần phải có sự
phân tích, đánh giá cụ thể các nhân tố tác động đến nó trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của đất nước trong từng thời kỳ. Tỷ lệ động viên các khoản thu NSNN được xem là hạt nhân cơ
bản của chính sách thu nên cần phải được nghiên cứu, xem xét trên nhiều khía cạnh kinh tế, chính
trị, xã hội.
Sau đây là một số khoản thu chủ yếu:
1.2. Một số khoản thu chủ yếu của NSNN
1.2.1. Thuế - Khoản thu chủ yếu của NSNN
1.2.1.1. Khái niệm thuế
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn chưa có
quan điểm thống nhất về khái niệm thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế khi
đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, chưa phản
ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế.
- Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: "Để duy trì quyền lực
cơng cộng, cần phải có những sự đóng góp của những người cơng dân của Nhà nước đó là
thuế khố..." (Mác - Ăng Ghen. TT.T2- NXB Sự thật - Hà Nội- 1962. Tr.522).
- Theo Paul.A. Samulson thì: thuế có thể coi là một loại “giá” mà chúng ta phải trả
cho các hàng hố cơng cộng(1).
- Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn sách
"Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ là Makkollhell và Bruy như sau: "thuế là một khoản
chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hố, dịch vụ) của các cơng ty và
các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ khơng nhận được trực tiếp hàng
hố, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó khơng phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi
phạm pháp luật" (Economic. Makkollhell and Bruy - M.1993.- tr.14- Tiếng Nga).
Theo tác phẩm “Kinh tế học” của Paul.A. Samulson và Wiliam D. Nordhalls, Tập I,. NXB Thống kê, năm
2002.
(1)
16
Ở nước ta, theo cuốn "Từ điển tiếng Việt" (do Trung tâm từ điển học xuất bản năm
1998), thì: thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo
tài sản, thu nhập, nghề nghiệp v.v buộc phải nộp cho Nhà nước theo mức quy định.
Qua các định nghĩa nói trên, ta thấy có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhưng chúng
đều tốt lên những nội dung chính của thuế là:
- Xét về giác độ nhà nước: thuế là biện pháp động viên nguồn thu vào NSNN mang tính
bắt buộc, gắn với quyền lực nhà nước.
- Đối với người nộp thuế: thuế là khoản đóng góp bắt buộc vào NSNN mà khơng mang
tính hồn trả trực tiếp.
Người nộp thuế chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định.
- Xét về nội dung kinh tế: thuế được đặc trưng bởi các quan hệ phân phối giữa Nhà
nước với các pháp nhân và các thể nhân, nhằm động viên một phần thu nhập của xã hội vào
NSNN.
Từ việc phân tích những quan niệm về thuế của thế giới và của nước ta nêu trên, chúng
ta có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho Nhà nước theo mức
độ và thời hạn được pháp luật quy định, khơng mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
1.2.1.2. Hệ thống thuế nước ta và phân loại thuế
a) Hệ thống thuế của nước ta
Hệ thống thuế bao gồm nhiều sắc thuế mà Nhà nước sử dụng, nó tạo lập nguồn thu cho
NSNN và thực hiện những mục tiêu nhất định trong quản lý kinh tế - xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, hệ thống thuế nước ta đã được
cải cách căn bản bằng việc ban hành các luật thuế, pháp lệnh thuế áp dụng chung cho mọi thành
viên trong cả nước.
Hệ thống thuế hiện hành ở nước ta bao gồm:
- Thuế giá trị gia tăng
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Thuế tiêu thụ đặc biệt
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
17
- Thuế nhà đất
- Thuế tài nguyên
- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
- Thuế mơn bài
Ngồi ra, cịn có một số loại thu khác có tính chất thuế như: lệ phí trước bạ, lệ phí
chứng thư, lệ phí hải quan, phí giao thơng, phí cầu phà, phí đường, phí bay qua bầu trời.v.v.
b) Phân loại thuế
Bất cứ hệ thống thuế của quốc gia nào cũng đều được phân loại để quản lý. Có nhiều
cách phân loại khác nhau, nhưng thơng thường có các cách phân loại phổ biến sau:
b.1) Phân loại theo tính chất chuyển giao của thuế: Chuyển giao thuế là việc xác định
ai là người nộp thuế, ai là người thực sự phải gánh chịu thuế. Theo tiêu thức này thuế được chia
thành hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu: là các thứ thuế trực tiếp huy động một phần thu nhập của người làm
nghĩa vụ. Đặc điểm cơ bản của thuế trực thu là người nộp thuế và người chịu thuế là một. Nó
đánh trực tiếp vào người nộp thuế, tức là người có thu nhập chịu thuế làm giảm phần thu nhập
của họ. ở đây không có hiện tượng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác chịu.
Ở nước ta, thuế trực thu đó là các thứ thuế như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế gián thu: là các thứ thuế mà người nộp thuế gián tiếp nộp thuế cho người tiêu
dùng, họ không phải là người chịu thuế. Đặc điểm cơ bản của thuế gián thu là được cấu thành
trong giá cả hàng hoá, dịch vụ để bán ra. ở đây có sự chuyển giao gánh nặng thuế từ người nộp
thuế theo luật định sang người tiêu dùng qua cơ chế giá cả. Ở nước ta, đó là các thứ thuế giá trị
gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...
*Lưu ý:
+ Thuế trực thu có thể trực tiếp điều tiết bớt thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân
nên người ta thường sử dụng thuế suất lũy tiến để điều tiết những thu nhập cao.
+ Thuế gián thu lại có tầm quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu hàng hố, mở rộng
hoặc thu hẹp sự lưu thơng hàng hoá nên người ta thường sử dụng thuế suất tỷ lệ cao thấp khác
nhau nhằm khuyến khích hay hạn chế chúng.
Cách phân loại này cho thấy được vai trò của từng loại thuế trong phân phối và điều tiết
thu nhập của các chủ thể trong xã hội. Đồng thời nó cũng có ý nghĩa trong việc hệ thống hố
một cách khoa học các sắc thuế phục vụ công việc nghiên cứu và thiết kế các chính sách thuế.
b.2) Phân loại theo đối tượng đánh thuế
18
Dựa vào đối tượng đánh thuế, nghĩa là thuế đánh trên cái gì, thuế được chia thành:
- Thuế thu nhập như thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp...
- Thuế tài sản như thuế sử dụng tài sản nhà nước (thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế
tài nguyên...), thuế chuyển nhượng tài sản (thuế chuyển giao quyền sử dụng đất, thuế mua, bán
các tài sản như nhà, xe cộ...).
- Thuế tiêu dùng đánh vào hàng hoá, dịch vụ lưu thông trên thị trường trong nước và
xuất nhập khẩu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu...
Cách phân loại này giúp cho việc tìm các giải pháp để quản lý, khai thác, bồi dưỡng
từng nguồn thuế, đồng thời còn giúp cho việc xem xét thuế với việc đảm bảo quản lý được các
hoạt động khác nhau, các nguồn thu nhập khác nhau để có thể mở rộng và phát triển hệ thống
thuế.
1.2.1.3. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế
Một luật thuế thơng thường có các yếu tố cấu thành sau:
a) Tên gọi của thuế
Bất kỳ một loại thuế nào cũng có tên gọi. Tên gọi của thuế xác định nội dung kinh tế
của thuế. Thông thường người ta dựa vào đối tượng đánh thuế để đặt tên cho một sắc thuế, ví
dụ: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu.v.v.
Khi đặt tên cho một sắc thuế cần ngắn gọn, dễ hiểu, từ dùng mang tính phổ thông và
phản ánh được mục tiêu của thuế.
b) Đối tượng nộp thuế:
Người nộp thuế là chủ thể của một luật thuế, là một pháp nhân hay thể nhân có nghĩa vụ
phải nộp khoản thuế do luật thuế quy định. Trong tất cả các luật thuế, người nộp thuế luôn được
quy định rõ ràng.
c) Đối tượng chịu thuế:
Người chịu thuế là người trích một phần thu nhập của mình để gánh chịu khoản thuế
của Nhà nước. Nói cách khác, người chịu thuế là người gánh vác sau cùng khoản thuế phải nộp
vào NSNN.
Tuy nhiên, trong các luật thuế, không bao giờ quy định yếu tố này. Nhưng khi nghiên
cứu và ban hành luật thuế lại phải ln tính tới nó. Bởi lẽ không xem xét tới sự gánh chịu sau
cùng khoản thuế phải nộp, sẽ không biết được thuế tác động như thế nào đến tích lũy của các
doanh nghiệp, đến mức sống của dân cư.
* Lưu ý:
19
Trong nhiều sắc thuế (thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế NK.v.v.) người nộp thuế không
bắt buộc là người cuối cùng chịu thuế, tuy nhiên trong một số sắc thuế người nộp thuế cũng
chính là người chịu thuế, ví dụ: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp.v.v.
d) Đối tượng đánh thuế
Đối tượng đánh thuế là các khách thể của một luật thuế, là những thu nhập hoặc tài sản,
hàng hoá mà một luật thuế nhất định tác động vào, điều tiết nó. Hay nói cách khác đối tượng
đánh thuế là mục tiêu tác động của thuế.
Đối tượng đánh thuế có thể là thu nhập, tài sản, hàng hố đem bán thuộc sở hữu của
người nộp thuế được luật thuế quy định. Xác định đối tượng của thuế là xác định nguồn vật
chất mà người ta tính tốn trên đó số tiền thuế phải nộp.
e) Căn cứ tính thuế:
Căn cứ tính thuế là những yếu tố mà người thu thuế dựa vào đó để tính số thuế phải
nộp. Các loại thuế khác nhau thì căn cứ tính thuế cũng khác nhau. Chẳng hạn, thuế giá trị gia
tăng có căn cứ tính thuế là giá tính thuế và thuế suất; căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp là
thu nhập chịu thuế và thuế suất; căn cứ tính thuế xuất nhập khẩu lại bao gồm số lượng, chủng
loại hàng hoá xuất nhập khẩu, giá tính thuế và thuế suất.v.v.
Như khi xem xét căn cứ tính thuế thì cần phải xem xét các yếu tố:
- Thuế suất: là phần thuế phải nộp trên mỗi đơn vị tính của đối tượng đánh thuế.
Trong các yếu tố cấu thành của một luật thuế, thuế suất có vị trí quan trọng nhất. Người
ta ví nó như linh hồn" của một sắc thuế. Thuế suất phản ánh mức nộp thuế cao hay thấp, nặng
hay nhẹ, đồng thời liên quan đến số thuế Nhà nước thu được bao nhiêu vào NSNN. Do vậy,
việc thiết kế thuế suất là một vấn đề phải được xem xét cẩn trọng, phải quán triệt quan điểm
vừa coi trọng lợi ích quốc gia, vừa chú ý đến lợi ích thích đáng của người nộp thuế, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong việc sử dụng cơng cụ thuế (có thể giải thích vấn
đề này bằng đường cong Laffer).
Số
thu
thuế
*
Y*
Y1
1
2
Y2
t1
20
t*
t2
Thuế suất
Có nhiều cách quy định thuế suất khác nhau cho từng đối tượng đánh thuế khác nhau
trong các luật thuế, đó là:
+ Thuế suất tỷ lệ: là thuế suất được quy định theo tỷ lệ % trên đối tượng đánh thuế.
+ Thuế suất lũy tiến: là thuế suất tăng dần lên theo độ lớn của đối tượng đánh thuế.
Thuế suất lũy tiến có hai loại:
Thuế suất lũy tiến từng phần là thuế suất tăng dần theo từng nấc của đối tượng đánh
thuế.
Thuế suất lũy tiến toàn phần là thuế suất tăng lên theo toàn bộ mức tăng của đối tượng
đánh thuế.
+ Thuế suất tuyệt đối: là mức thuế được quy định bằng một lượng tuyệt đối trên đối
tượng đánh thuế mà khơng tính tới độ lớn của đối tượng đánh thuế.
- Đơn vị tính thuế: là đơn vị được sử dụng làm phương tiện tính tốn của đối tượng
đánh thuế. Ví dụ: đơn vị tính thuế của thuế thu nhập doanh nghiệp là đồng Việt Nam (VNĐ);
đơn vị tính thuế sử dụng đất nơng nghiệp là kg thóc tính theo hạng đất.
- Giá tính thuế: là trị giá của đối tượng đánh thuế. Ví dụ: thuế đánh vào tài sản chuyển
nhượng nên phải định giá tài sản theo một giá cả nào đó để tính thuế, nó có thể là giá thị
trường, có thể là giá do cơ quan thuế ấn định... Giá tính thuế liên quan mật thiết đến mức thuế
phải nộp. Một khối lượng hàng hoá như nhau, giá tính thuế khác nhau sẽ dẫn đến mức thuế phải
nộp khác nhau.
- Khởi điểm đánh thuế: là mức thu nhập bắt đầu phải đánh thuế, thu nhập dưới mức đó
khơng phải nộp thuế. Khi thiết kế khởi điểm đánh thuế phải tính đến diện người nộp thuế. Khởi
điểm đánh thuế càng cao, diện người nộp thuế càng hẹp và ngược lại, khởi điểm đánh thuế càng
thấp, diện người nộp thuế càng rộng.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khởi điểm đánh thuế không phải là yếu tố phổ biến trong tất
cả các luật thuế, thường chỉ quy định trong một số luật thuế, chẳng hạn Luật thuế thu nhập cá
nhân.
g) Miễn, giảm thuế
Một số sắc thuế có quy định cho phép người nộp thuế không phải thực hiện nghĩa vụ
nộp tồn bộ số tiền thuế mà người đó phải nộp cho Nhà nước (gọi là miễn thuế) hoặc chỉ nộp
một phần số tiền thuế đó (gọi là giảm thuế) . Miễn thuế, giảm thuế chỉ là yếu tố ngoại lệ được
quy định trong một số sắc thuế.
21
Thông thường, những lý do để người nộp thuế được Nhà nước cho phép miễn thuế,
giảm thuế quy định trong các sắc thuế là:
- Do nguyên nhân khách quan mà người nộp thuế gặp khó khăn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh hoặc bị giảm sút thu nhập.
- Thực hiện một số chủ trương chính sách kinh tế của Nhà nước như: khuyến khích xuất
khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề trọng điểm, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội
khó khăn...
Tuy nhiên thực hiện việc miễn giảm thuế cũng có tính hai mặt, nó chứa đựng những yếu
tố tích cực, tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, nhưng cũng
chứa đựng các yếu tố tiêu cực, có thể làm méo mó những ý tưởng ban đầu khi thiết lập các sắc
thuế, không phù hợp với những tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại.
h) Thưởng phạt
Thưởng là hình thức Nhà nước khuyến khích người có thành tích trong thực hiện các luật
thuế. Cịn phạt là hình thức kỷ luật đối với người vi phạm luật thuế.
i) Thủ tục về thuế
Đó là những quy định về những giấy tờ và trình tự thu nộp mang tính hành chính để thi
hành luật thuế (như thủ tục kê khai, tính thuế và nộp thuê).
Ngoài các yếu tố trên đây, trong luật thuế bao giờ cũng quy định rõ trách nhiệm và
quyền hạn của Chính phủ, của UBND các cấp, của Bộ Tài chính, cơ quan thuế ở Trung ương và
ở các địa phương, nghĩa vụ của người nộp thuế.
1.2.1.4. Các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế hiện đại
a) Tính cơng bằng (theo chiều dọc và chiều ngang)
b) Tính hiệu quả (đối với công tác thu thuế và với nền kinh tế)
c) Tính trung lập
d) Tính rõ ràng minh bạch
e) Tính thuận tiện
f) Tính ổn định
1.2.2. Nguồn thu từ phí và lệ phí
a) Khái niệm của phí và lệ phí
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người đều nhận được rất nhiều hàng hoá, dịch vụ tư
nhân và các hàng hoá dịch vụ công cộng do xã hội cung cấp. Trong số các hàng hố, dịch vụ
này có một phần khơng nhỏ là hàng hố, dịch vụ cơng cộng (ví dụ: đường giao thông, các khu
22
vui chơi giải trí.v.v.). Khác với hàng hố, dịch vụ thơng thường, hàng hố, dịch vụ cơng cộng
có tính chất đặc biệt là khó phân chia và nhiều người cùng sử dụng một lúc, nhưng khó xác
định được mức độ tiêu dùng của từng người hưởng thụ.
Việc sản xuất và cung cấp hàng hố, dịch vụ cơng cộng địi hỏi chi phí lớn, thời gian
thu hồi vốn dài, tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc khơng có lợi nhuận nên khu vực kinh tế tư nhân
không sẵn sàng cung cấp các hàng hố và dịch vụ cơng cộng. Do vậy, đại đa số hàng hố, dịch
vụ cơng cộng do Nhà nước sản xuất và cung cấp. Tuy nhiên, trong thực tế những đối tượng thụ
hưởng hàng hố, dịch vụ cơng cộng lại không tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng các hàng
hố này. Để bù đắp chi phí bỏ ra nhằm tái tạo và phát triển hơn nữa hàng hoá, dịch vụ cơng
cộng, Nhà nước phải tìm ra một phương thức thích hợp, đó là hình thức thu phí và lệ phí.
Vậy phí và lệ phí là gì?
- Khái niệm phí:
Trong thực tế cụm từ “phí” được sử dụng rất rộng rãi. ở dưới mỗi giác độ khác nhau
người ta lại có những định nghĩa khác nhau về phí. Thơng thường phí được hiểu là khoản tiền
mà một người phải trả khi người đó được hưởng một dịch vụ cơng cộng nào đó nhằm mục đích
bù đắp chi phí sản xuất và cung cấp dịch vụ đó.
Xuất phát từ bản chất của phí như vậy, Điều 2 Pháp lệnh về phí và lệ phí hiện hành đã
đưa ra khái niệm về phí như sau:
“Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác
cung cấp dịch vụ (được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Pháp lệnh) ”.
Tuỳ thuộc vào tính chất đặc thù của dịch vụ được phép thu phí và chủ thể đầu tư vốn
cung cấp dịch vụ là Nhà nước hay tư nhân mà phí có thể là khoản thu của Ngân sách Nhà nước
hoặc là khoản thu của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ được pháp luật cho phép thu phí.
Phí thu được từ các dịch vụ do Nhà nước đầu tư hoặc từ các dịch vụ thuộc đặc quyền
của Nhà nước, là khoản thu của Ngân sách Nhà nước.
Phí thu được từ các dịch vụ không do Nhà nước đầu tư, hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng
đã chuyển giao cho tổ chức, cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán, tự chủ tài chính
khơng phải là khoản thu của NSNN mà là doanh thu của tổ chức, cá nhân thực hiện cung cấp
dịch vụ được phép thu phí. Tổ chức, cá nhân thu phí có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định hiện
hành của Nhà nước trên kết quả thu phí.
- Khái niệm lệ phí:
Khác với phí, lệ phí thường gắn với một số cơ quan Nhà nước cung cấp các dịch vụ
hành chính pháp lý cụ thể cho dân chúng. Người dân thụ hưởng các dịch vụ này phải trả một
khoản tiền. Tuy nhiên, việc thu khoản tiền này hồn tồn khơng có nghĩa là thu hồi chi phí đã
23
bỏ ra mà việc thu này chủ yếu để hỗ trợ một phần chi phí quản lý Nhà nước và nhằm đảm bảo
sự công bằng theo nguyên tắc: ai được hưởng lợi phải trả tiền. Xuất phát từ bản chất nói trên
của lệ phí, Điều 3 Pháp lệnh về phí và lệ phí hiện hành đã đưa ra khái niệm về lệ phí như sau:
“Lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước hoặc tổ
chức được uỷ quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước (được quy định trong Danh mục lệ
phí ban hành kèm theo Pháp lệnh) ”.
Như vậy, chỉ có các dịch vụ gắn với chức năng quản lý của Nhà nước mới được thu lệ
phí.
*) Phân biệt lệ phí, phí thuộc NSNN với thuế và giá dịch vụ:
(i) Phân biệt lệ phí, phí thuộc NSNN (gọi tắt là phí và lệ phí) với thuế:
Xét ở ý nghĩa tạo nguồn thu cho Nhà nước thì lệ phí, phí và thuế đều là khoản thu của
NSNN và do Nhà nước quy định. Tuy nhiên, về bản chất thì giữa lệ phí, phí và thuế có sự khác
nhau:
- Thuế là khoản thu bắt buộc mang tính nghĩa vụ, khơng hồn trả trực tiếp cho người
nộp thuế. Việc chuyển giao thu nhập từ người nộp thuế cho Nhà nước dưới hình thức thuế
khơng gắn liền với lợi ích cụ thể nào của đối tượng nộp thuế. Phí, lệ phí là những khoản thu
mang tính hồn trả trực tiếp cho người nộp. Người nộp phí, lệ phí được Nhà nước hồn trả
bằng một dịch vụ hoặc công việc quản lý Nhà nước tương ứng.
- Nhà nước sử dụng thuế để điều tiết thu nhập của những người thu nhập cao so với mặt
bằng của xã hội, tái phân phối lại thu nhập và đảm bảo cơng bằng xã hội. Về khía cạnh xã hội
của thuế thì phí và lệ phí khơng thực hiện được bởi phí, lệ phí mới chỉ đảm bảo công bằng
trong việc sử dụng dịch vụ.
(ii) Phân biệt lệ phí, phí thuộc NSNN (gọi tắt là phí và lệ phí) với phí (giá) dịch vụ
thơng thường:
Mặc dù, phí, lệ phí thuộc NSNN và phí (giá) dịch vụ đều là những khoản thu mang tính
chất hồn trả trực tiếp cho người nộp (được Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân hoàn trả bằng một
dịch vụ tương ứng), nhưng giữa chúng có sự khác nhau cơ bản:
- Phí nói chung là giá của dịch vụ công cộng do Nhà nước cung cấp hoặc uỷ quyền cho
tổ chức, cá nhân cung cấp, cịn lệ phí khơng phải là giá của dịch vụ mà người nộp được hưởng.
Lệ phí vừa có tính chất của thuế từ phía Nhà nước, lại vừa có tính chất của phí từ phía người
nộp.
- Phí, lệ phí thuộc NSNN là khoản thu của NSNN, không phải chịu thuế theo quy định
của pháp luật thuế, cịn phí (giá) dịch vụ là khoản thu (doanh thu) của đơn vị hoạt động kinh
doanh dịch vụ là thuộc đối tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế.
24
b) Vai trị của phí và lệ phí
(i) Phí và lệ phí làm tăng thu cho NSNN
Trong tổng số thu về thuế, phí và lệ phí của NSNN, khoản thu về phí và lệ phí trong
NSNN chiếm tỷ trọng khơng lớn, tuy nhiên, đây vẫn là những khoản thu đáng kể và quan trọng
của NSNN. Phí và lệ phí đảm bảo hỗ trợ một phần chi phí về sản xuất hàng hố, dịch vụ cơng
cộng của Nhà nước, góp phần giảm bớt gánh nặng cho NSNN.
Cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhu cầu tiêu dùng hàng hố, dịch vụ
cơng cộng ngày càng tăng lên sẽ kéo theo số thu phí và lệ phí cũng ngày càng gia tăng. Sự tăng
lên của các khoản thu từ phí và lệ phí cho phép Nhà nước tăng chi đầu tư cho nền kinh tế quốc
dân, tăng các phúc lợi công cộng, phục vụ tốt hơn đời sống nhân dân.
Ở nước ta số thu về phí và lệ phí chiếm tỷ trọng 3-5% trong tổng số thu về thuế và phí,
lệ phí hàng năm của NSNN.
(ii) Phí và lệ phí góp phần thực hiện cơng bằng xã hội trong hưởng thụ các hàng hố,
dịch vụ cơng cộng, nâng cao ý thức trách nhiệm cộng đồng của các tầng lớp dân cư.
Việc thu phí và lệ phí là dựa trên cơ sở những lợi ích được thụ hưởng của các thể nhân
và pháp nhân do việc cung cấp hàng hố, dịch vụ cơng cộng của Nhà nước. Với ngun tắc: "Ai
được hưởng lợi ích thì phải trả chi phí" là thể hiện sự cơng bằng về mặt kinh tế trong phân phối
thu nhập thơng qua phí và lệ phí.
Mặt khác việc thu phí, lệ phí cịn giúp cho người dân có ý thức tơn trọng các giá trị vật
chất và tinh thần của cộng đồng, của xã hội, khuyến khích họ có trách nhiệm hơn trong việc giữ
gìn, sử dụng và thụ hưởng các hàng hoá, dịch vụ cơng cộng.
1.2.3. Khoản thu từ vay nợ của Chính phủ
Để bù đắp thiếu hụt NSNN và đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế, Nhà nước còn
thực hiện huy động vốn bằng việc vay nợ trong và ngoài nước. Vay nợ chính phủ phản ánh việc
vận dụng tín dụng Nhà nước. Tín dụng Nhà nước là một hoạt động thuộc lĩnh vực tài chính-tiền
tệ, gắn liền với hoạt động của NSNN, nó phản ánh quan hệ tín dụng trong đó Nhà nước là
người trực tiếp vay vốn từ trong và ngoài nước để đảm bảo các khoản chi tiêu của Nhà nước.
a) Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước được thực hiện bằng cách phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ.
Đó là những chứng chỉ nhận nợ của Nhà nước, là một loại trái phiếu do Nhà nước phát hành để
vay dân cư, các tổ chức kinh tế, ngân hàng.
Ở Việt Nam, Chính phủ uỷ nhiệm cho Kho bạc Nhà nước phát hành trái phiếu Chính
phủ dưới ba hình thức:
25