Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu tại công ty in tổng hợp hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.37 KB, 86 trang )

1

Luận văn
Hoàn thiện kế toán
nguyên vật liệu tại công
ty in tổng hợp Hà nội


2

Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, cạnh tranh là con đường duy nhất mà mọi đơn vị kinh doanh, bất kỳ thuộc
thành phần kinh tế nào, phải lựa chọn để tồn tại. Để có thể đứng vững và cạnh
tranh được trên thị trường, các doanh nghiệp phải tạo ra uy tín và hình ảnh cho
sản phẩm, thể hiện qua: chất lượng, mẫu mã, giá cả....trong đó chất lượng là vấn
đề then chốt. Đầu tư cho chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với đầu tư vào máy móc
thiết bị, dây chuyền công nghệ, đầu tư vào nguồn nhân lực và cũng không kém
phần quan trọng là chú trọng tới các yếu tố cấu thành nên sản phẩm, đó là nguyên
vật liệu.
Công ty in tổng hợp Hà nội là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong
lĩnh vực in ấn. Là một doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện chế độ tự hạch toán lỗ
lãi, công ty luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cung ứng một
cách tốt nhất cho khách hàng. Để đảm bảo đời sống cho công nhân viên và kinh
doanh có lãi, công ty luôn nỗ lực tìm tòi, đầu tư có hiệu quả vào các yếu tố đầu
vào của quá trình kinh doanh nhằm tiết kịêm chi phí, hạ giá thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng của sản phẩm. Trong đó công tác quản lý và
hạch toán nguyên vật liệu đóng vai trò quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại công ty em đã mạnh dạn lựa chọn và đi sâu
nghiên cứu luận văn tốt nghiệp với đề tài: “ Hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu
tại công ty in tổng hợp Hà nội”. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em gồm
những nội dung chính sau đây:


Phần I : Lý luận chung về kế toán nguyên vật liệu tại doanh nghiệp sản xuất.
Phần II : Thực trạng kế toán nguyên vật liệu tại công ty in tổng hợp Hà nội.

Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán nguyên vật liệu tại công ty in
tổng hợp Hà nội.


Phần I
Lý luận chung về kế toán Nguyên vật liệu tại doanh nghiệp sản xuất.
1. Khái quát chung về kế toán nguyên vật liệu.
1.1. Khái niệm.
Các yếu tố đầu vào là một trong những yếu tố quyết định đối với hiệu quả
sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Các sản phẩm đầu ra do quy luật cung
cầu trên thị trường quyết định, các yếu tố đầu vào là sự kết hợp của 3 yếu tố là:
sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Một trong những điều kiện thiết yếu để tiến hành sản xuất là đối tượng lao
động. Nguyên vật liệu là những đối tượng lao động đã được thể hiện dưới dạng
vật hoá như: sắt, thép trong doanh nghiệp cơ khí chế tạo; sợi trong doanh
nghiệp dệt; da trong doanh nghiệp đóng giày; vải trong doanh nghiệp may
mặc....Khác với tư liệu lao động, nguyên vật liệu chỉ tham vào một chu kỳ sản
xuất nhất định và khi tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác động của lao
động, chúng bị tiêu hao toàn bộ hoặc thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo
ra hình thái vật chất của sản phẩm.
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động đã trải qua tác động lao động của con
người và được các đơn vị sản xuất sử dụng làm chất liệu ban đầu để tạo ra sản
phẩm. Do đó nguyên vật liệu là nhân tố cơ bản cho quá trình sản xuất, nó quyết
định chất lượng sản phẩm, là chìa khoá cho doanh nghiệp trong việc giảm chi phí,
hạ giá thành nhờ đó mà có thể trụ vững và ngày càng phát triển trong điều kiện
cạnh tranh mạnh mẽ của cơ chế thị trường như hiện nay.
Đặc điểm nguyên vật liệu của mỗi doanh nghiệp là khác nhau, tuỳ thuộc

vào ngành nghề kinh doanh đặc thù của doanh nghiệp đó. Ví dụ, trong ngành chế
biến rau quả thực phẩm, mỗi nguyên vật liệu có giá trị thấp, hầu hết là các sản
phẩm tươi sống, tỷ lệ hỏng cao...; trong ngành chế tạo máy, lắp ráp ô tô thì ngược
lại nguyên vật liệu có giá trị cao và phải bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật chuẩn
xác. Tuy nhiên nguyên vật liệu cũng mang những đặc điểm chung sau:


- Là đối tượng lao động cấu thành thực thể sản phẩm.
- Chỉ tham gia vào một chu trình sản xuất kinh doanh nhất định,
toàn bộ giá trị nguyên vật liệu được chuyển hoá vào giá trị của sản
phẩm làm ra.
- Khi tham gia vào quá trình sản xuất, dưới tác động của lao động,
nguyên vật liệu bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật
chất của sản phẩm.
- Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm. Tuy nhiên tỷ trọng này tuỳ thuộc vào đặc
điểm ngành nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
1.2. Phân loại nguyên vật liệu.
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm như trên, chúng ta thấy rằng nguyên vật
liệu trong các doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ có vai trò công dụng khác
nhau trong quá trình sản xuất – kinh doanh. Trong điều kiện đó, để quản lý một
cách có hiệu quả, sử dụng nguyên vật liệu một cách tiết kiệm, đúng mục đích thì
doanh nghiệp phải tiến hành phân loại nguyên vật liệu.
Phân loại nguyên vật liệu nhằm thống nhất tên gọi, ký mã hiệu, quy cách,
đơn vị tính, sử dụng hợp lý các loại tài khoản kế toán, phản ánh chính xác tình
hình hiện có và sự biến động của các loại nguyên vật liệu cũng như phục vụ cho
việc xây dựng “Danh điểm nguyên vật liệu”.
Các doanh nghiệp được phép linh hoạt trong việc lựa chọn tiêu thức phù
hợp để phân loại nguyên vật liệu tại đơn vị mình tuỳ thuộc vào tính đặc thù
của mỗi ngành nghề sản xuất – kinh doanh và quy mô hoạt động. Trong thực

tế công tác quản lý và hạch toán ở các doanh nghiệp, đặc trưng dùng để phân
loại nguyên vật liệu thông dụng nhất là theo vai trò và tác dụng của nguyên
vật liệu trong quá trình sản xuất – kinh doanh. Theo đặc trưng này, nguyên
vật liệu ở các doanh nghiệp được phân ra các loại sau đây:
Nguyên liệu và vật liệu chính: Là các đối tượng lao động mà sau quá trình
gia công chế biến sẽ cấu thành hình thái vật chất của sản phẩm (kể cả bán thành


phẩm mua vào). Danh từ nguyên liệu ở đây dùng để chỉ đối tượng lao động chưa
qua chế biến công nghiệp. Ví dụ như sắt, thép trong các doanh nghiệp cơ khí chế
tạo; vải trong các doanh nghiệp may mặc; da trong doanh nghiệp đóng giày...
Vật liệu phụ: Là những vật liệu có tác dụng phụ trong quá trính sản xuất –
kinh doanh, được sử dụng kết hợp với nguyên vật liệu chính để hoàn thiện và
nâng cao tính năng, chất lượng của sản phẩm hoặc được sử dụng để bảo đảm cho
công cụ lao động hoạt động bình thường, hoặc dùng để phục vụ cho nhu cầu kỹ
thuật, nhu cầu quản lý. Ví dụ như dầu nhờn, hồ dán, thuốc nhuộm, thuốc tẩy,
thuốc chống rỉ, hương liệu, xà phòng, dẻ lau...
Nhiên liệu: Là những thứ dùng để tạo nhiệt năng trong quá trình sản xuất –
kinh doanh. Nhiên liệu trong các doanh nghiệp thực chất là loại vật liệu phụ, tuy
nhiên nó được tách ra thành một loại riêng là vì việc sản xuất và tiêu dùng nhiên
liệu chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
nhiên liệu cũng có yêu cầu và kỹ thuật quản lý hoàn toàn khác với các loại vật liệu
phụ thông thường. Ví dụ như than dá, than bùn, củi, xăng, dầu...
Phụ tùng thay thế: Là các chi tiết, phụ tùng phục vụ cho hoạt động thay thế
sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải....
Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: bao gồm các vật liệu và thiết bị (cần
lắp, không cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ...) mà doanh nghiệp mua nhằm
mục đích phục vụ cho hoạt động xây lắp, xây dựng cơ bản.
Phế liệu: Là loại vật liệu thu được trong quá trình sản xuất hay thanh lý tài
sản, có thể sử dụng hay bán ra ngoài. Ví dụ như phoi bào, vải vụn, sắt vụn, giấy

vụn...
Vật liệu khác: Bao gồm các loại vật liệu đặc chủng của từng doanh nghiệp
và các loại khác như bao bì, vật đóng gói....
Trên thực tế hạch toán theo cách phân loại nói trên chỉ đáp ứng được yêu
cầu phản ánh tổng quát về mặt giá trị đối với mỗi loại nguyên vật liệu. Để bảo
đảm thuận tiện, tránh nhầm lẫn cho công tác quản lý và hạch toán về số lượng và
giá trị đối với từng thứ nguyên vật liệu, trên cơ sở phân loại theo vai trò và công


dụng của nguyên vật liệu, các doanh nghiệp phải tiếp tục chi tiết và hình thành
nên “Sổ danh điểm vật liệu”. Sổ này xác định thống nhất tên gọi, ký mã hiệu, quy
cách, số hiệu, đơn vị tính, và kích cỡ của chúng.
1.3. Tính giá nguyên vật liệu.
Quản lý nguyên vật liệu chính là quản lý chất lượng, giá trị và chi phí
nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. Xác định giá trị nguyên vật liệu thông
qua các phương pháp tính giá là cơ sở cho việc hạch toán. Tính giá nguyên vật
liệu là dùng tiền để biểu hiện giá trị của chúng. Tính giá có hợp lý thì hạch toán
mới chính xác và ngược lại, tính giá nguyên vật liệu sai dẫn đến nhầm lẫn trong
việc xác định giá thành sản phẩm và kết quả sản xuất – kinh doanh, ảnh hưởng lớn
tới các quyết định trong việc tiêu thụ sản phẩm, đẩy đơn vị đến chỗ làm ăn thua
lỗ. Việc tính giá được tiến hành cho cả nguyên vật liệu nhập kho và xuất kho.
Trong công tác hạch toán nguyên vật liệu ở các doanh nghiệp, nguyên vật liệu
được tính giá theo giá thực tế.
1.3.1.

Tính giá nguyên vật liệu nhập kho.

Theo chuẩn mực kế toán quốc tế hàng tồn kho (IAS2): Hàng tồn kho (trong
đó có nguyên vật liệu) được mua về nhập kho tuỳ từng thứ, loại khác nhau được
tính giá khác nhau song về cơ bản giá gốc của chúng bao gồm: Chi phí mua, chi

phí chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để đưa chúng về địa
điểm và trạng thái hiện tại.
Nguyên vật liệu nhập kho được tính theo giá thực tế. Giá thực tế của nguyên
vật liệu là loại giá được hình thành trên cơ sở các chứng từ hợp lệ chứng minh các
khoản chi hợp pháp của doanh nghiệp để tạo ra nguyên vật liệu. Giá thực tế của
nguyên vật liệu nhập kho được xác định theo từng nguồn nhập.
 Đối với nguyên vật liệu mua ngoài.
Giá NVL
thực tế
nhập kho


+ Giá mua thực tế trên hợp đồng: Đối với các đơn vị tính thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thì giá mua trên hoá đơn không bao gồm thuế GTGT đầu
vào, ngược lại đối với các đơn vị tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp: Giá
mua bao gồm cả thuế GTGT đầu vào.
+ Chi phí thu mua: Chi phí mua bao gồm giá mua, thuế nhập khẩu và các
loại thuế khác (không bao gồm các khoản thuế mà đơn vị được hoàn lại), chi phí
vận chuyển, bốc xếp và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua vật
tư, hàng hoá, dịch vụ.
+ Các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua do hàng mua
không đúng quy cách, phẩm chất được trừ khỏi chi phí mua.
+ “Có thể tính vào tổng chi phí mua lỗ hối đoái trong trường hợp đặc
biệt là đơn vị tiền tệ kế toán đột xuất giảm trầm trọng so với ngoại tệ mua
hàng gần đây”.
 Đối với nguyên vật liệu tự chế:
Giá thực tế
=
+
Chi phí gia công

NVL tự chế
để tự chế

Giá NVL xuất
chế biến

+ Giá nguyên vật liệu xuất để tự chế: Được xác định tuỳ theo phương pháp
đánh giá vật liệu xuất kho của đơn vị hạch toán.
+ Chi phí gia công chế biến: Mọi khoản chi phí liên quan đến quá trình gia
công, chế biến số vật liệu đó, bao gồm:
- Chi phí liên quan trực tiếp đến sản phẩm như chi phí khấu hao tài
sản cố định, chi phí bảo tr nhân công trực tiếp.
- Phân bổ các chi phí sản xuất chung bao gồm: Chi phí nhà xưởng
và máy móc thiết bị, chi phí quản lý sản xuất, chi phí nguyên vật
liệu gián tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.


Đối với nguyên vật liệu thuê ngoài gia công.
Giá thực tế
NVL thuê
ngoài gia công


+ Chi phí thuê ngoài gia công: Tổng giá trị ghi trên hợp đồng thuê ngoài gia
công hoặc các chứng từ thanh toán với bên nhận gia công.
+ Chi phí vận chuyển, bốc dỡ: Là chi phí nhân công bốc dỡ, chi phí vận tải
đưa số vật liệu đó từ kho của đơn vị đến nơi gia công và ngược lại. Nếu trong hợp
đồng quy định bên nhận gia công thanh toán khoản chi phí này thì đơn vị hạch
toán không phải phản ánh nữa.
Đối với nguyên vật liệu nhận vốn góp liên doanh, vốn cổ phần:




Giá thực tế NVL nhận vốn
tế NVL

+

=

Giá thực

Chi phí

Mỗi khi nhận vốn góp liên doanh, vốn cổ phần các doanh nghiệp đều phải
có biên bản đánh giá tài sản do hội đồng liên doanh và các chuyên gia (nếu có)
đánh giá. Giá trị vật liệu được đánh giá dựa trên giá thị trường và giá ghi sổ tại
đơn vị tham gia liên doanh, góp vốn.


Các chi phí khác có thể tính vào giá phí nguyên vật liệu tồn kho:
Các chi phí khác được tính vào giá phí tồn kho là các chi phí mà doanh

nghiệp phải chịu để đưa hàng về địa điểm và trạng thái hiện tại ngoài các chi phí
kể trên. Ví dụ: Chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính (với điều kiện các
chi phí này phải gắn liền với việc mua vật liệu và được tính, phân bổ thật chính
xác.
1.3.2. Tính giá nguyên vật liệu xuất kho.
Để tính giá nguyên vật liệu xuất kho kế toán có nhiều phương pháp tính
khác nhau. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Tuỳ loại

hình doanh nghiệp, đặc điểm và tính đa dạng của nguyên vật liệu mà lựa chọn
phương pháp tính giá phù hợp. Các phương pháp tính giá bao gồm:


Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Giá thực tế VL
xuất kho

=

Số lượng VL
xuất kho

x

Giá đơn vị
bình quân



10

Giá đơn vị bình quân có thể được sử dụng dưới ba dạng sau:
+ Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ:
Theo phương pháp này, dựa vào giá thực tế của nguyên vật liệu tồn đầu kỳ
và nhập trong kỳ, kế toán xác định được giá trị bình quân của một đơn vị nguyên
vật liệu trong cả kỳ dự trữ. Căn cứ vào lượng nguyên vật liệu xuất trong kỳ và giá
đơn vị bình quân vừa tính được để xác định giá trị thực tế của nguyên vật liệu xuất
kho trong kỳ. Đây là phương pháp có ý nghĩa về mặt thực tiễn hơn là cơ sở lý
thuyết, có ưu điểm đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa,

công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói
chung. Chính vì vậy, phương pháp này chỉ phù hợp với doanh nghiệp có số lượng
chủng loại nguyên vật liệu lớn và không có điều kiện phân công riêng nhân viên
kế toán nguyên vật liệu.
+ Phương pháp giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước:
Trị giá thực tế của nguyên vật liệu xuất kho kỳ này được tính theo giá đơn
vị bình quân cuối kỳ trước. ưu điểm của phương pháp tính giá này là đơn giản, dễ
thực hiện, cung cấp số liệu kế toán kịp thời nhưng không đảm bảo được tính chính
xác của số liệu do không tính đến sự biến động của giá cả kỳ này.
+ Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập:
Sau mỗi lần nhập kho, kế toán tính lại giá nguyên vật liệu trong kho, giá
thực tế vật liệu xuất kho là giá bình quân được tính sau lần nhập gần nhất. Phương
pháp này có ưu điểm lớn là vừa bảo đảm tính kịp thời của số liệu vừa đảm bảo
được tính chính xác do phản ánh được tình hình biến động của giá cả thị trường.
Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi khối lượng tính toán lớn, phức tạp do sau do
sau mỗi lần nhập kho, kế toán phải tính lại giá bình quân.


Phương pháp xác định theo giá hàng tồn kho cuối kỳ trên cơ sở giá

mua thực tế cuối kỳ:
Theo phương pháp này, trị giá thực tế hàng xuất kho được tính như sau:
Giá thực tế (GTT)NVL = Số lượng tồn kho
tồn kho cuối kỳ

cuối kỳ

x

Đơn giá NVL

nhập kho lần cuối


Theo phương pháp này, giá thực tế hàng xuất kho được tính theo giá nhập
cuối kỳ kế toán. Phương pháp này đơn giản nhưng chỉ có độ chính xác khi giá cả
trong kỳ ít biến động, lại không đảm bảo cung cấp kịp thời thông tin kế toán nên ít
được sử dụng.


Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO):
Giả thiết rằng lô nguyên vật liệu nào nhập trước thì được xuất trước và

nguyên vật liệu tồn kho là nguyên vật liệu được mua hoặc sản xuất gần thời điểm
cuối kỳ. Ưu điểm của phương pháp này là “cung cấp một sự ước tính hợp lý về
giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán, đặc biệt trong điều kiện có
những lần mua hàng nhưng chưa có giá đơn vị”. Phương pháp này thích hợp trong
bối cảnh giá cả nguyên vật liệu ổn định hoặc có xu hướng giảm, nếu giá cả có xu
hướng tăng cuối kỳ doanh nghiệp có số lãi nhiều hơn so với khi sử dụng các
phương pháp khác. Điều đó đôi khi có thể gây bất lợi cho doanh nghiệp trong việc
tăng thuế thu nhập phải nộp.
Với khối lượng tính toán nhiều, phức tạp, phươngpháp này chỉ áp dụng đối
với doanh nghiệp có ít danh điểm nguyên vật liệu, số lần nhập kho của mỗi danh
điểm không nhiều và phù hợp khi giá cả thị trường có nhiều biến động. Ngoài ra,
áp dụng phương pháp này làm cho doanh thu hiện hành không phù hợp với những
khoản chi phí hiện hành bởi doanh thu hiện hành lại được tạo ra từ giá trị vật tư đã
được mua vào từ trước đó rất lâu, dẫn đến việc tính lãi gộp và thu nhập thuần
không chính xác.


Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO):

Theo phương pháp này, giả thiết rằng số nguyên vật liệu nào nhập kho sau

sẽ được xuất trước và nguyên vật liệu tồn kho cuối kỳ là nguyên vật liệu được
mua hoặc sản xuất trước đó. Đây là phương pháp ngược lại với phương pháp
Nhập trước – xuất trước ở trên, khắc phục được những nhược điểm của phương
pháp FIFO.
Phương pháp này thích hợp trong trường hợp lạm phát do giá thực tế của
vật liệu xuất dùng luôn sát với giá thị trường ở thời điểm sử dụng, bảo đảm


nguyên tắc thận trọng vì doanh thu hiện tại phù hợp với những khoản chi phí hiện
tại. Quan trọng hơn, trong điều kiện giá cả thị rường có xu hướng tăng lên,
phương pháp này sẽ giúp cho đơn vị kinh doanh giảm được số thuế thu nhập
doanhn ghiệp phải nộp cho Nhà nước.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là cung cấp những thông tin
không hợp lý về giá trị hàng tồn kho của doanh nghiệp. Do đó , vốn lưu động của
đơn vị kinh doanh được phản ánh thấp hơn kéo theo khả năng thanh toán của
doanh nghiệp bị nhìn nhận là kém hơn so với khả năng thực tế nên nó không được
khuyến khích áp dụng.
 Phương pháp giá thực tế đích danh:
Theo phương pháp giá thực tế đích danh, giá trị xuất kho của một loại hàng
được xác định đúng theo giá nhập kho.đây là phương pháp tuân thủ theo nguyên
tắc phù hợp của hạch toán kế toán, chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế.
Phương pháp này vận dụng thích hợp với những doanh nghiệp có điều kiện bảo
quản riêng từng lô nguyên vật liệu, có số lượng chủng loại nguyên vật liệu, có số
lượng chủng loại nguyên vật liệu ít và đặc biệt chỉ áp dụng đối với nguyên vật liệu
nhận diện được.
Phương pháp này có ưu điểm là công tác tính giá nguyên vật liệu được thực
hiện kịp thời và thông qua việc tính giá nguyên vật liệu xuất kho kế toán có thể
theo dõi được thời hạn bảo quản của từng lô nguyên vật liệu nhập kho, hơn nữa,

giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo giá thực tế của nó. Tuy nhiên, nó sẽ
không thích hợp đối với doanh nghiệp có vật liệu đa dạng, trình độ cán bộ quản lý
thấp.
ở Việt Nam, các doanh nghiệp có xu hướng lựa chọn phương pháp giá trị
hàng tồn kho như sau: Phương pháp giá thực tế đích danh cần được ưu tiên lựa
chọn nếu doanh nghiệp có thể áp dụng được. Nếu có bằng chứng thực tế xác nhận
luồng nhập xuất vật tư của doanh nghiệp là nhập sau – xuất trước thì doanh
nghiệp được phép áp dụng phương pháp nhập sau – xuất trước. Khi không thể áp
dụng phương pháp giá thực tế đich danh và khi thực tế luồng nhập, xuất vật tư của


doanh nghiệp không phải là nhập sau - xuất trước thì doanh nghiệp co thể lựa
chọn phương pháp giá bình quân hay phương pháp mhập trước – xuất trước. Điều
này hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế vừa phản ánh đúng tình
hình tài chính (giá trị hàng tồn kho) của doanh nghiệp. Trên thực tế áp dụng ở các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, một phương pháp khác cũng được áp dụng khá
phổ biến đó là phương pháp giá hạch toán.


Phương pháp giá hạch toán:
Doanh nghiệp đánh giá nguyên vật liệu xuất kho theo phương pháp này tự

xác định một mức giá ổn định trong kỳ gọi là giá hạch toán. Toàn bộ nguyên vật
liệu xuất dùng trong kỳ được phản ánh theo giá trị hạch toán. Cuối kỳ, kế toán sẽ
điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức sau:
Giá thực tế NVL
xuất trong kỳ

=


(Hoặc tồn cuối kỳ)
Hệ

Giá hạch toán NVL
xuất trong kỳ
(Hoặc tồn cuối kỳ)

Hệ
x

số
giá

Giá thực tế vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ

số

= -------------------------------------------------------------------

giá

Giá hạch toán vật liệu tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ

Hệ số giá có thể được tính cho từng loại, nhóm nguyên vật liệu tuỳ thuộc
tính đa dạng của nguyên vật liệu, yêu cầu và trình độ quản lý của đơn vị. Phương
pháp tính giá trị này đơn giản, kịp thời, dễ thực hiện. Doanh nghiệp tính giá theo
phương pháp này sẽ có một mức chi phí ổn định trong cả kỳ hạch toán. Mức
chênh lệch giá mua nguyên vật liệu trong kỳ sẽ được san đều cho các lô hàng xuất
và tồn cuối kỳ.
Nhược điểm của phương pháp này là không cung cấp được thông tin chính

xác về giá xuất kho vật liệu và chi phí sản xuất tại một thời điểm trong kỳ kế toán.
1.4. Nhiệm vụ và yêu cầu quản lý nguyên vật liệu.


Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, máy móc
dần dần có thể thay thế con người ở một khâu nhất định, nhưng đối với các yếu tố
đầu vào của sản xuất đặc biệt là nguyên vật liệu thì công nghệ chỉ có thể tác động
làm giảm định mức tiêu hao cho sản xuất sản phẩm, cho phép thay thế, tận dụng
nguồn nguyên vật liệu sẵn có trong tự nhiên hay cải tiến chất lượng nguyên vật
liệu. Chất lượng của nguyên vật liệu ngày càng được nâng cao, sản phẩm lúc đó
mới đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng cả về giá trị sử dụng của sản
phẩm lẫn các yếu tố về thẩm mỹ. Không những thế, đây còn là nhân tố then chốt
trong việc tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường. Vậy để đảm bảo cho hoạt động sản xuất – kinh doanh
của doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên và liên tục, doanh nghiệp phải có kế
hoạch tổ chức quản lý, sử dụng nguyên vật liệu một cách có hiệu quả ở tất cả các
khâu: cung ứng, bảo quản, dự trữ, cấp phát và hạch toán kế toán.
1.4.1. Khâu cung ứng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, nguyên vật liệu đa dàng về chủng loại,
giá cả không đồng nhất do vậy bộ phận cung ứng vật tư của doanh nghiệp cần
linh hoạt, nhanh nhậy trong công tác thu mua song vẫn phải triệt để tuân thủ các
nguyên tắc sau:
-

Cung ứng vật tư nói chung và nguyên vật liệu nói riêng phải xuất phát từ
định mức kế hoạch, căn cứ vào yêu cầu của phân xưởng phục vụ cho sản
xuất và sửa chữa.

-


Thời điểm cung ứng kịp thời tránh gây ra tình trạng đình trệ, gián đoạn
sản xuất song tuyệt đối không nhập ồ ạt gây ứ đọng, tồn kho ảnh hưởng
tới vốn lưu động của doanh nghiệp.

-

Việc cung ứng nguyên vật liệu phải kiểm tra chặt chẽ mặt số lượng, cần
có đủ chứng từ hợp lý, hợp lệ phục vụ cho việc ghi sổ và giải quyết khi
phát sinh tranh chấp.

Một trong những điều kiện chủ yếu để hoàn thành toàn diện và vượt mức kế
hoạch sản xuất là việc cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng phải được tổ chức


một cách hợp lý, đảm bảo đủ số lượng, đồng bộ, đúng phẩm chất và đúng thời
gian.
Để có thể nắm bắt một cách chính xác có khoa học tình hình cung cấp
nguyên vật liệu ở doanh nghiệp phục vụ cho yêu cầu quản lý, kế toán tiến hành
phân tích thông qua các chỉ tiêu khác nhau nhưng phải tuân theo nguyên tắc chung
đó là phân tích theo từng loại nguyên vật liệu không lấy phần vượt kế hoạch cung
ứng của nguyên vật liệu này để bù đắp cho phần thiếu hụt của nguyên vật liệu
khác.
1.4.2. Khâu bảo quản và dự trữ.
Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng nguyên vật liệu mà doanh nghiệp tổ
chức các hình thức bảo quản cho phù hợp nhằm đảm bảo chất lượng, số lượng của
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Các yêu cầu trong tổ chức bảo quản bao
gồm: nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, phương tiện cất trữ hay mức độ an toàn....
Do phân công lao động xã hội và sự phát triển chuyên môn hoá sản xuất
làm cho sản phẩm của doanh nghiệp này trở thành nguyên vật liệu của doanh
nghiệp khác. Việc vận chuyển những sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng

được thực hiện bằng những phưpng tiện vận tải với các trọng tải khác nhau. Trong
những điều kiện như vậy, sự liên tục của quá trình sản xuất ở doanh nghiệp chỉ có
thể được đảm bảo bằng cách dự trữ các loại nguyên vật liệu cần thiết.
Để xác định mức dự trữ vật tư, doanh nghiệp sử dụng ba chỉ tiêu: Dự trữ
tuyệt đối (biểu hiện bằng đơn vị hiện vật như: tấn, kg, m...), dự trữ tương đối
(tính bằng số ngày tương đối) và dữ trữ biểu hiện bằng tiền (biểu hiện bằng
giá trị).
Trước kia, trong nền kih tế tập trung đơn vị chỉ xác định mức dự trữ tuyệt
đối và dữ trữ tương đối không cần tính đến chỉ tiêu dự trữ biểu hiện bằng tiền vì
Nhà nước dựa trên chỉ tiêu kế hoạch sản xuất trong từng thời kỳ sẽ có trách nhiệm
đảm bảo lượng nguyên vật liệu tương ứng, đơn vị chỉ có nghĩa vụ sản xuất. Trong
điều kiện hiện nay, xác định mức dự trữ biểu hiện bằng tiền là điều kiện cần để


doanh nghiệp vừa tự cấp cho mình lượng nguyên vật liệu cần thiết phục vụ sản
xuất vừa bảo đảm lượng vốn lưu động cho quá trình kinh doanh.
1.4.3. Khâu cấp phát sử dụng.
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu
quả gây thất thoát, ứ đọng nguyên vật liệu dẫn tới giá thành sản phẩm cao.
Nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức bảo quản nguyên vật liệu tại kho thiếu khoa
học, thủ kho trình độ kém, việc cấp phát tuỳ tiện không qua kiểm duyệt, dẫn tới
không đáp ứng kịp thời cho sản xuất.
Để thực hiện tốt khâu cấp phát sử dụng, bộ phận vật tư cũng như cán bộ kho
cần triệt để tuân thủ nguyên tắc: Không xuất kho nguyên vật liệu khi không có
giấy phép bằng văn bản của người có thẩm quyền như: Lệnh giao hàng, Phiếu
xuất vật tư..., theo dõi chặt chẽ lượng vật tư dư thừa trong sản xuất để tái nhập
kho và kiến nghị với cấp trên về các hành vi sai trái trong việc sử dung
nguyên vật liệu được cấp phát.... Bởi vì, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu là
một trong những mục tiêu cơ bản để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm, tăng mức lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Việc phân tích tình hình sử dụng nguyên vật liệu vào sản xuất phải được tiến
hành trên các mặt khối lượng nguyên vật liệu, chi phí nguyên vật liệu sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm.... Để nâng cao hiệu quả sử dụng vật tư, doanh nghiệp phải
xây dựng cho đơn vị mình định mức tiêu hao cũng như thường xuyên nghiên cứu
thay đổi cho phù hợp với tình hình biến động trên thực tế tránh tình trạng lạc hậu
gây lãng phí nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất.
Ngoài ra, để đánh giá được mức độ hoàn thành kế hoạch về chi phí nguyên
vật liệu tiêu dùng trong kỳ người ta thường so sánh chỉ tiêu này giữa các kỳ thông
quaviệc áp dụng các phương pháp phổ biến như: Thay thế liên hoàn, hệ thống chỉ
số....trong đó tập trung vào việc xác định các nhân tố ảnh hưởng và phân tích mối
quan hệ của chúng tới chi phí nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
1.5. Nhiệm vụ và yêu cầu kế toán nguyên vật liệu.


Kế toán là môn khoa học xã hội, là công cụ quản lý kinh tế, nó phản ánh, ghi
chép, tính toán một cách thường xuyên liên tục, có hệ thống tình hình vốn, và quá
trình luân chuyển vốn, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất knh doanh....để từ
đó cung cấp thông tin cho các nhà quản trị. Như vậy đối tượng của kế toán là toàn
bộ tài sản, nguyên vật liệu là một trong các tài sản lưu động chiếm giá trị lớn nên
nguyên vật liệu cũng là đối tượng của kế toán.
Kế toán nguyên vật liệu có nhiệm vụ ghi chép, phản ánh, xử lý tổng hợp số
liệu và cung cấp thông tin về tình hình thu mua, vận chuyển, bảo quản, nhập xuất
tồn kho vật liệu cả về chỉ tiêu giá trị lẫn hiện vật. Kế toán nguyên vật liệu thực
hiện vai trò tham mưu cho các nhà quản trị trong việc xác định nhu cầu vật liệu và
mức độ dự trữ vật liệu hợp lý, tránh tình ttrạng lãng phí, ứ đọng mà vẫn cung cấp
đầy đủ, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các số liệu, chỉ tiêu
về tình hình biến động của nguyên vật liệu cả về mặt số lượng, chủng loại và giá
trị.
Yêu cầu đặt ra đối với kế toán nguyên vật liệu là sự bảo đảm nguyên tắc
nhất quán, chính xác trong các phương pháp tính giá nguyên vật liệu xuất nhập

kho, mỗi nhiệm vụ liên quan đến nhập xuất vật tư phải được ghi chép đầy đủ ở hai
bộ phậnkế toán, kế toán theo dõi vật tư bằng hiện vật phải tách rời kế toán vật tư
theo dõi về giá trị, lưu trữ đầy đủ các chứng từ nhập xuất vật tư và phải được ghi
chép theo dõi trên thẻ kho, sổ chi tiết, bảo đảm cung cấp những thông tin về bảo
quản, xuất nhập vật tư cho người quản lý, lượng hàng xuất kho phải được hạch
toán chính xác về giá thành, nếu có sai lệch giữa số liệu kế toán và số liệu kiểm kê
phải đối chiếu và giải thích rõ nguyên nhân, phương pháp hạch toán chi tiết
nguyên vật liệu cũng như hạch toán tổng hợp sao cho thống nhất giữa các kỳ và
niên độ kế toán (trong trường hợp có những thay đổi phải báo cấo và giải thách cụ
thể).
Kế toán nguyên vật liệu phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm nguyên
vật liệu và yêu cầu quản lý của đơn vị mình, nhằm cung cấp thông tin chính xác,


kịp thời, phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính và phân tích hoạt động kinh
doanh.
II. Kế toán ban đầu nguyên vật liệu.
2.1. Chứng từ sử dụng.
Trong công tác hạch toán chi tiết nguyên vật liệu, Bộ tài chính ban hành
quyết định số 1141TC/QĐ/CĐKT ngày 01/01/1995 và các văn bản pháp quy khác
có liên quan quy định danh mục chứng từ kế toán bao gồm:
Chứng từ bắt buộc:


-

Hoá đơn GTGT

mẫu 01 - GTGT


-

Phiếu nhập kho

01 – VT

-

Phiếu xuất kho

02 – VT

-

Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ

03 – VT

-

Thẻ kho

06 – VT

-

Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hoá

08 – VT


Ngoài ra cỏn tuỳ vào đặc điểm và yêu cầu quản lý nguyên vật liệu mà
doanh nghiệp có thể sử dụng các chứng từ theo hướng dẫn sau:
-

Phiếu xuất vật tư theo hạn mức

mẫu 04 – VT

-

Biên bản kiểm nghiệm

05 – VT

-

Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ

07 – VT

2.2. Trình tự luân chuyển chứng từ.
2.2.1. Trình tự luân chuyển chứng từ nhập kho
Bộ phận cung ứng dựa trên kế hoạch sản xuất của bộ phận sản xuất để lập
kế hoạch cung ứng. Nhân viên bộ phận cung ứng lên danh sách các loại vật liệu
cần mua, liên hệ với nhà cung cấp, mua hàng về nhập kho.
Chứng từ ban đầu của quá trình nhập kho là hoá đơn bán hàng mà nhà cung
cấp lập. Số liệu trên hoá đơn bán hàng là cơ sở để vào phiếu nhập và các sổ sách
có liên quan.



Bộ phận cung ứng cùng với cán bộ kỹ thuật tiến hành kiểm nghiệm vật tư.
Nếu vật tư đạt được những tiêu chuẩn kỹ thuật và đúng với các số liệu ghi trên
hoá đơn thì được nhập kho.
Phiếu nhập kho xác nhận số lượng, giá trị vật tư, sản phẩm hàng hoá
thực tế nhập kho làm căn cứ ghi thẻ kho, thanh toán tiền hàng và kế toán ghi
sổ. Phiếu nhập kho do bộ phận mua hàng lập 3 liên. Sau khi nhập kho thủ kho
ghi số lượng nhập, ngày, tháng, năm nhập kho và cùng người giao hàng ký tên
vào phiếu.
Căn cứ vào phiếu nhâp kho, thủ kho ghi thẻ kho và sau đó chuyển phiếu
nhập cho phòng kế toán để ghi sổ kế toán. Chứng từ kế toán sau đó được lưu tại
phòng kế toán.
2.2.2. Trình tự luân chuyển chứng từ xuất kho.
Bộ phận có nhu cầu sử dụng vật liệu viết giấy đề nghị lĩnh vật tư, hoặc
phòng kế toán viết lệnh sản xuẩttên đó ghi rõ mức tiêu hao vật liệu. Trên cơ sở đó
bộ phận cung ứng lập phiếu xuất kho.
Phiếu xuất kho theo dõi chặt chẽ số luợng vật tư xuất kho cho các bộ phận
trong đơn vị sử dụng. Nó làm căn cứ để ghi thẻ kho và hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm. Phiếu xuất kho lập cho một hoặc nhiều thứ vật tư
cùng một kho dùng cho một đối tượng hạch toán chi phí hoặc cùng mục đích sử
dụng. Phiếu xuất kho được lập thành 3 liên.
Người lĩnh vật tư cầm phiếu xuất kho xuống kho để lĩnh. Sau khi xuất kho
thủ kho ghi lượng xuất vào phiếu xuất kho, căn cứ vào đó ghi thẻ kho và chuyển
phiếu xuất kho lên phòng kế toán. Phòng kế toán nhận phiếu xuất kho để ghi sổ kế
toán sau đó lưu chứng từ.
III. Kế toán chi tiết nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp thường có nhiều chủng loại
khác nhau, thiếu một loại nào đó có thể gây ra ngừng sản xuất, vì vậy hạch
toán nguyên vật liệu phải đảm bảo theo dõi được tình hình biến động của từng
danh điểm nguyên vật liệu. Hạch toán chi tiết là một phần hành song song với



20

hạch toán tổng hợp, mang tính đối chiếu với hạch toán tổng hợp nhằm quản lý
chặt chẽ hơn tình hình biến động tài sản của doanh nghiệp. Dựa trên đặc
điểm, tính chất nguyên vật liệu tại đơn vị mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn
một trong các phương pháp hạch toán chi tiết hàng tồn kho sau:
3.1. Phương pháp thẻ song song.
Theo phương pháp này thủ kho căn cứ vào các chứng từ nhập, xuất nguyên
vật liệu để ghi thẻ kho. Kế toán nguyên vật liệu cũng dựa trên các chứng từ này để
ghi số lượng và tính thành tiền nguyên vật liệu nhập, xuất vào “Thẻ kế toán chi
tiết nguyên vật liệu”. Cuối kỳ đối chiếu số liệu trên “Thẻ kế toán chi tiết nguyên
vật liệu” với “Thẻ kho” tương ứng do thủ kho chuyển đến, đồng thời từ “Thẻ kế
toán chi tiết nguyên vật liệu” kế toán lấy số liệu để ghi vào bảng tổng hợp Nhập,
Xuất, Tồn để đối chiếu với số liệu kế toán tổng hợp Nhập, Xuất vật liệu.
Phương pháp này đơn giản trong khâu ghi chép, đối chiếu số liệu và phát
hiện sai sót, đồng thời cung cấp thông tin nhâp, xuất ,tồn của từng danh điểm
nguyên vật liệu kịp thời, chính xác. Tuy nhiên phương pháp này chỉ sử dụng được
khi doanh nghiệp có ít danh điểm nguyên vật liệu. Không những vậy phương pháp
này sử dụng các chỉ tiêu trùng lắp giữa thủ kho và kế toán.

Phiếu nhập kho,
phiếu xuất kho

Thẻ kho
Ghi chú:

Sổ KT tổng hợp về VL
(bảng kê tính giá)


Sổ kế toán
chi tiết VL

Bảng tổng hợp Nhập,
Xuất, Tồn kho NVL

Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu

Sơ đồ 1.1: Trình tự hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp thẻ
song song


3.2. Phương pháp đối chiếu luân chuyển.
Theo phương pháp này kế toná chỉ mở “Sổ đối chiếu luân chuyển nguyên
vật liệu” theo từng kho, cuối kỳ trên cơ sở phân loại chứng từ nhập, xuất theo
từng danh điểm nguyên vật liệu và theo từng kho, kế toán lập “bảng kê nhập vật
liệu”, “Bảng kê xuất vật liệu” và dựa trên các bảng kê này để ghi vào “sổ luân
chuyển nguyên vật liệu”. Khi nhận được “Thẻ kho”, kế toán tiến hành đối chiếu
tổng hợp Nhập, Xuất của từng thẻ kho với “Sổ luân chuyển nguyên vật liệu”,
đồng thời từ sổ “đối chiếu luân chuyển nguyên vật liệu” để đối chiếu với số
liệu kế toán tổng hợp vật liệu. Như vậy phương pháp này giảm nhẹ khối lượng
công việc ghi chép của kế toán, nhưng vì dồn công việc ghi sổ, kiểm tra, đối
chiếu vào cuối kỳ nên trong trường hợp số lượng chứng từ nhập, xuất của
từng danh điểm nguyên vật liệu khá nhiều thì công việc kiểm tra, đối chiếu sẽ
gặp nhiều khó khăn, hơn thế nữa là ảnh hưởng tiến độ thực hiện các khâu kế
toán khác. Nó thích hợp với doanh nghiệp có nhiều danh điểm nguyên vật liệu
và số lượng nhập, xuất nguyên vật liệu không nhiều.
Phiếu

nhập kho

Bảng kê nhập
vật liệu

Thẻ kho

Sổ chiếu luân
chuyển

Phiếu
xuất kho

Bảng kê xuất
vật liệu

Ghi chú:

Bảng
tổng
hợp
Nhập,
Xuất,
Tồn
kho
vật
liệu

Sổ
kế

toán
tổng
hợp
về
vật
liệu

Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Sơ đồ 1.2: Hạch toán chi tiết nguyên vật liệu theo phương pháp đối
chiếu luân chuyển.


3.3. Phương pháp số dư.
Với những doanh nghiệp có nhiều danh điểm nguyên vật liệu và số lượng
chứng từ nhập, xuất của mỗi loại khá nhiều thì phương pháp số dư là thích hợp
nhất để hạch toán chi tiết nguyên vật liệu.
Theo phương pháp này thủ kho ngoài việc ghi “Thẻ kho” như các phương
pháp trên thì cuối kỳ còn phải ghi lượng nguyên vật liệu tồn kho từ thẻ kho vào
“sổ số dư”. Kế toán dựa vào số lượng nhập xuất của từng danh điểm nguyên vật
liệu được tổng hợp từ các chứng từ nhập xuất mà kế toán nhận được khi kiểm tra
các kho theo định kỳ 3, 5 hoặc 10 ngày một lần (kèm theo “Phiếu giao nhận
chứng từ”) và giá hạch toán để tính trị giá thành tiền nguyên vật liệu nhập, xuất
theo từng danh điểm từ đó ghi vào “Bảng luỹ kế nhập, xuất, tồn”. Cuối kỳ tiến
hành tính tiền trên “Sổ số dư” do thủ kho chuyển đến và đối chiếu tồn kho từng
danh điểm nguyên vật liệu trên “Sổ số dư” với tồn kho trên “Bảng luỹ kế nhập,
xuất ,tồn”. Từ “Bảng luỹ kế nhập, xuất, tồn” kế toán lập “Bảng tổng hợp nhập,
xuất, tồn” để đối chiếu với sổ kế toán tổng hợp về vật liệu. Phương pháp này tránh
được việc ghi chép trùng lắp và dàn đều công việc ghi sổ trong kỳ, nhưng việc

kiểm tra, đối chiếu, phát hiện sai sót gặp nhiều khó khăn đồi hỏi nhân viên kế toán
và thủ kho phải có trình độ chuyên môn cao.
Phiếu giao nhận
chứng từ nhập

Phiếu
nhập kho

Thẻ kho

Sổ số dư

Phiếu giao nhận
chứng từ xuất

Phiếu
xuất kho
Ghi chú:

Bảng luỹ kế nhập,
xuất, tồn kho vật liệu

Ghi hàng ngày

Sổ
kế
toán
tổng
hợp
về

vật
liệu


Ghi cuối tháng
Đối chiếu
Sơ đồ1.3: Hạch toán chi tiết ngên vật liệu theo phương pháp số dư.
IV. Kế toán toán tổng hợp nguyên vật liệu.
Nếu hạch toán chi tiết theo dõi cụ thể tình hình biến đọng của từng danh
điểm nguyên vật liệu về cả hiện vật và giá trị thì hạch toán tổng hợp theo dõi
chung về giá trị của nguyên vật liệu nhập, xuất, tồn trong kỳ. Trên cơ sở đặc điểm
và quy mô nguyên vật liệu, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai phương
pháp hạch toán tổng hợp sau:
4.1. Phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX).
Phương pháp KKTX là phương pháp theo dõi và phản ánh tình hình hiện
có, biến động tăng, giảm hàng tồn kho một cách thường xuyên, liên tục trên các
tài khoản hàng tồn kho. Theo phương pháp này trên các tài khoản hàng tồn kho
không chỉ theo dõi số hiện có mà cả tình hình biến động tăng, giảm vật tư trong
kỳ. Với độ chính xác cao, cung cấp thông tin một cách kịp thời, cập nhật nên
phương pháp này được sử dụng phổ biến ở nước ta. Tuy nhiên với những doanh
nghiệp có nhiều chủng loại vật tư, hàng hoá có giá trị thấp, thường xuyên xuất
dùng, xuất bán mà áp dụng phương pháp này sẽ tốn rất nhiều công sức.
4.1.1. Tài khoản sử dụng.
Tương ứng với nội dung của phương pháp này để hạch toán nguyên vật liệu
kế toán sử dụng các tài khoản sau:
TK 152: Nguyên vật liệu: Tài khoản này được dùng để theo dõi giá trị hiện
có, tình hình tăng, giảm, của các nguyên vật liệu theo giá thực tế, có thể mở chi
tiết theo từng loại nhóm...tuỳ theo yêu cầu quản lý và phương tiện tính toán.
TK 151: Hàng mua đang đi đường: Tài khoản này dùng để theo dõi các
loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá... mà doanh nghiệp đã mua hay

chấp nhận mua, đã thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng cuối tháng chưa
về nhập kho.


Ngoài ra việc hạch toán nguyên vật liệu còn liên quan đến các tài khoản
như: TK 331, TK 111, TK 112, TK 133, TK 141....
4.1.2. Phương pháp hạch toán.
Đối với các doanh nghiệp tính VAT theo phương pháp khấu trừ thuế, giá
thực tế của nguyên vật liệu nhập kho là giá sau khi đã loại trừ phần thuế, VAT
được theo dõi riêng trên TK 133, cuối kỳ doanh nghiệp tiến hành khấu trừ thuế
đầu vào và thuế đầu ra để xác định số VAT phải nập.
Đối với các doanh nghiệp tính VAT theo phương pháp trực tiếp, Giá thực tế
nguyên vật liệu nhập kho là giá ghi trên hoá đơn bao gồm cả VAT cộng với chi
phí mua.
Khi xuất kho nguyên vật liệu, kế toán tiến hành ghi nhận giá trị xuất của
nguyên vật liệu dựa trên cơ sở phương pháp tính giá NVL đã chọn. Doanh nghiệp
thực hiện đánh giá lại nguyên vật liệu cuối kỳ khi có quyết định của Nhà nước
hoặc cơ quan có thẩm quyền về việc đánh giá lại tài sản.
4.2. Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu theo phương pháp kiểm kê định kỳ
(KKĐK).
Phương pháp KKĐK là phương pháp hạch toán căn cứ vào kết quả kiểm kê
thực tế để xác định giá trị vật tư, hàng hoá tồn kho cuối kỳ, tưd đó xác định trị giá
vật tư, hàng hoá xuất dùng trong kỳ theo công thức sau:
Giá trị NVL
xuất trong kỳ

= Trị giá NVL
tồn đầu kỳ

+


Trị giá NVL
nhập trong kỳ

-

Trị giá NVL
tồn cuối kỳ.

Trị giá nguyên vật liệu tồn đầu kỳ và cuối kỳ được xác định bằng kết quả
kiểm kê tiến hành vào đầu và cuối kỳ kế toán. Theo phương pháp này trên các tài
khoản hàng tồn kho chỉ theo dõi số tồn đầu kỳ và cuối kỳ. Tình hình biến động
nhập, xuất vật liệu trong kỳ được theo dõi trên tài khoản 611 “Mua hàng”.
Phương pháp này áp dụng cho các đơn vị có nhiều chủng loại vật tư, hàng
hoá có giá trị nhỏ, xuất dùng, xuất bán thường xuyên.
4.2.1. Tài khoản sử dụng.


Kế toán sử dụng TK 611 “Mua hàng” để phản ánh các nghiệp vụ kết
chuyển hàng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ, xuất dùng trong kỳ.
TK 6111: Mua NVL, CCDC.
TK 6112: Mua hàng hoá (Đối với các đơn vị thương mại).
4.3. Kế toán dự phòng giảm giá nguyên vật liệu.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, giá cả thường xuyên biến động, do vậy
hàng hoá nói chung hay nguyên vật liệu nói riêng nếu mua ngoài về chưa tiêu
dùng ngay sẽ mang giá trị lạc hậu so với giá thị trường hiện tại. Việc lập dự phòng
nhằm chủ động bù đắp phần giá trị bị tổn thất do giảm giá vật tư tồn kho có thể
xảy ra trong kỳ kế hoạch.
Thông tư số 107/2001/TT/BTC do Bộ tài chính ban hành ngày 31/12/2001
hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn

kho, giảm giá chứng khoán đầu tư, dự phòng nợ khó đòi của doanh nghiệp, nhấn
mạnh các vấn đề sau:
+ Thời điểm lập và hoàn nhập các khoản dự phòng là thời điểm cuối, khoá
sổ kế toán để lập Báo cáo tài chính.
+ Khoản dự phòng giảm giá nguyên vật liệu tồn kho được trích trước vào
chi phí hoạt động kinh doanh năm báo cáo của doanh nghiệp, giúp cho doanh
nghiệp có nguồn tài chính bù đắp khoản tổn thất có thể xảy ra trong năm kế
hoạch, nhằm bảo toàn vốn kinh doanh, đảm bảo cho doanh nghiệp phản ánh giá trị
vật tư tồn kho không cao hơn giá cả trên thị trường hoặc giá trị có thể thu hồi
được tại thời điểm lập Báo cáo tài chính.
+ Căn cứ vào biến động thực tế về giá trị nguyên vật liệu tồn kho, DN chủ
động xác định mức trích lập. sử dụng khoản dự phòng đúng mục đích theo nguyên
tắc mức dự phòng không vượt quá số lợi nhuận của doanh nghiệp (Sau khi hoàn
nhập khoản dự phòng trích lập năm trước) và đảm bảo các điều kiện sau:
- Có hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của Bộ tài chính hoặc
các bằng chứng khác chứng minh giá vốn vật tư tồn kho.


×