Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tác động của chính sách tài chính đến sự tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.41 KB, 31 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trờng, vai trò của
Ngân hàng Nhà Nớc(NHNN)ngày càng đợc khẳng định. Với
những công cụ quản lý vĩ mô trong tay, NHNN đã làm cho
hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng lành mạnh và
có hiệu quả,tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế . Một trong những công cụ quản lý hữu hiệu của
NHNN là công cụ lãi suất. Thông qua công cụ lãi suất, NHNN
tác động lên hoạt động của các Ngân hàng Thơng mại, các
tổ chức tín dụng và từ đó tác động lên lợng cung tiền tệ một chỉ tiêu ảnh hởng mạnh mẽ đến sức khoẻ của nền kinh
tế.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng theo
định hớng XHCN, ngành Ngân hàng đã trải qua 10 năm đổi
mới, đó cũng là 10 năm không ngừng đổi mới chính sách
điều hành lãi suất của NHNN theo hớng từng bớc tiến đến
một chính sách lãi suất thị trờng khi điều kiện kinh tế và
tiền tệ cho phép. Trên cơ sở định hớng đó, ngày 1/10/1998
Luật NHNN Việt Nam ra đời qui định về việc áp dụng một
cơ chế lãi suất mới là lãi suất cơ bản. Với cơ chế này, việc
điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt, bám sát nhu
cầu thị trờng hơn, nhng thực tế còn rất nhiều vớng mắc về
cách vận dụng cũng nh tác dụng của qui định mới này. Nếu
đánh giá một cách khách quan, chính sách lãi suất trong
những năm qua đã thu đợc một số thành tựu nhất định. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều bất cập và hạn chế.
Thực tiễn khách quan đó đòi hỏi phải có một sự đổi mới
sâu rộng trong việc sử dụng công cụ lãi suất trong hệ thống
Ngân hàng Việt nam sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế và
phù hợp với điều kiện thực tiễn của thị trờng tiền tệ trong n-



1


ớc. Chính vì vậy mà em chọn đề tài Tác động của
chính sách tài chính đến sự tăng trởng kinh tế " .
Tuy nhiên, do còn hạn hẹp về trình độ cũng nh kiến thức
thực tiễn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót,em rất
mong sẽ nhận đợc sự chỉ bảo, góp ý kiến của thầy cô và bạn
đọc.
I. Khái niệm và căn cứ xác định lãi xuất cơ bản.
1.1.Khái niệm và bản chất của lãi suất cơ bản.
Trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất của NHNN
đã đợc điều chỉnh theo hớng tích cực , "nới lỏng" từng bớc
theo hớng tự do hoá phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội trong
nớc, mức độ hội nhập quốc tế của nền kinh tế nớc ta. Cơ chế
điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn bám sát
cung-cầu vốn thị trờng, quyền chủ động ấn định lãi suất
kinh doanh của các TCTD đợc mở rộng, nên làm tăng khả năng
cạnh tranh nhng vẫn kiểm soát đợc lãi suất trên thị trờng tiền
tệ, góp phần thúc đẩy thị trờng tài chính trong nớc, thúc
đẩy tâng trởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối
ngoại của đồng Việt Nam. Để thúc đẩy phát triển và hội
nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều
hành lãi suất từng bớc triển khai thực hiện các chủ trơng đổi
mới hoạt động ngân hàng của Đảng Nhà nớc, Quốc hội đề ra.
Trên cơ sở đó, Luật Ngân hàng Nhà nớc và Luật các tổ
chức tín dụng đợc Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998 là một bớc ngoặt
đánh dấu sự trởng thành trong hoạt động ngân hàng nói

chung, việc sử dụng công cụ lãi suất nói riêng.
Điều 18 Luật NHNN ghi" NHNN xác định và công bố lãi
suất cơ bản , lãi suất tái cáp vốn". Khoản 12 điều 9 giải
thích: "Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bô làm cơ
sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh".

2


Nh vậy, theo quy định của Luật NHNN về lãi suất cơ bản
thì đây là một khái niệm rất rộng và rất dễ vận dụng cho
sự điều hành lãi suất của NHNN trong mỗi giai đoạn thích
hợp. Bởi vì theo Luật thì lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN
công bố làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh
thì có ý nghĩa trên cả hai mặt:
-Xác định rất rõ vai trò của Nhà nớc trong việc quản lý
và điều hành bằng lãi suất, không lúc nào buông lỏng sự
quản lý của Nhà nớc mà cơ quan có thẩm quyền trách nhiệm
là NHNNVN. Vai trò quản lý của Nhà nớc về lãi suất phải đợc
thể hiện nhằm đạt dợc mục tiêu bảo đảm an toàn hệ thống
các TCTD, bảo vệ quyền lợi một cách hài hoà giữa các bên:
ngời gửi, ngời vay và TCTD; sử dụng công cụ lãi suất làm đòn
bẩy để kích thích hoạt động vốn và điều hoà vốn từ nơi
thừa đến nơi thiếu, góp phần thúc đẩy sự ổn định và
tăng trởng kinh tế vừa làm công cụ điều hành chính sách
tiền tệ.
- Có rất nhiều loại lãi suất cơ bản mà NHNN công bố vừa
phù hợp với các điều kiện kinh tế, tiền tệ của nớc ta trong
từng thời kỳ vừa đảm bảo linh hoạt theo cung cầu vốn trong
chính sách tiền tệ và tăng tính lành mạnh giữa các tố chức

tín dụng.
Cũng chính vì có nhiều loại lãi suất cơ bản và việc điều
hành bằng lãi suất cơ bản còn là điều mới mẻ với NHNNVN nên
thiết nghĩ, chúng ta nên làm rõ thêm bản chất và chức năng
của lãi suất cơ bản. Từ điều giải thích của Luật NHNN " Lãi
suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các
TCTD ấn định lãi suất kinh doanh " có thể thấy lãi suất cơ
bản có hai chức năng:
- Là công cụ điều hành chính sách tiền tệ: Qua lãi suất
cơ bản NHNN tác động vào thị trờng tiền tệ thúc đẩy mở
rộng hay thu hẹp tín dụng và tổng phơng tiện thanh toán,
3


giữ mức tơng quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu
tiền tệ. đảm bảo ổn định giá cả và tiền tệ.
- Là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ
sở để hình thành lãi suất thị trờng, tức là lãi suất kinh
doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên lợi
ích ngời gửi tiền, ngời vay vốn và các TCTD.
*Đặc thù của lãi suất cơ bản:
-Lãi suất cơ bản là lãi suất đợc điều hành và tác động
trực tiếp lên lãi suất thị trờng.
-Lãi suất cơ bản do NHNN xác định và công bố, không
phải tự hình thành trên thị trờng tiền tệ
-Nó có ý nghĩa bắt buộc các TCTD phải chấp hành vô
điều kiện.
Do vậy, có thể khẳng định ngay rằng, các lãi suất Libor
và Sibor không phải là lãi suất cơ bản vì nó tự hình thành
trên thị trờng.Thực tế, nó chỉ là những thông tin tham khảo.

Lãi suất hình thành trên thị trờng liên ngân hàng ở nớc ta
cũng không là lãi suất cơ bản vì nó tơng tự nh lãi suất Libor
và Sibor.
Nghiên cứu Luật NHTƯ của một số nớc cũng đề cập đến lãi
suất của NHTƯ , tuy về từ ngữ có khác nhau. Luật NHTƯ của
Cộng hoà Liên bang Đức có quy định"Ngân hàng Liên bang
Đức ấn định lãi suất chiết khấu và tỷ lệ chiết khấu đợc áp
dụng cho các hoạt động của Ngân hàng Liên bang". Luật
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc quy định" xác định lãi
suất cơ bản của NHTƯ ", Luật NHTƯ Ba Lan quy định Chủ
tịch NBP quyết định lãi suất tái chiết khấu đối với hối
phiếu, lãi suất tín dụng tái cấp vốn ". Luật NHTƯ Hung-ga-ri
quy định" NBH hoạt động trên cơ sở những lãi suất linh hoạt
đã đợc công bố, trong đó bao gồm tỷ lệ lãi suất cơ bản của
NHTƯ, lãi suất hàng ngày, lãi suất u tiên và lãi suất phạt...".

4


Luật NHTƯ Hàn Quốc quy định "Hội đồng trền tệ quy định
mức lãi suất tối đa mà các tồ chức ngân hàng tính đối với
các loại cho vay".Tại Pháp, lãi suất cơ bản do Ngân hàng ấn
định, trên cơ sở đó tính lãi cho các khoản cho vay khác
nhau. Và về nguyên tắc, mỗi ngân hàng đợc định ra lãi
suất cơ bản của mình trên cơ sở có sự nhất trí nào đó
giữa các ngân hàng. Lãi suất chiết khấu của NHTƯ Pháp hoàn
toàn không phụ thuộc vàơ lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào
lãi suất trên thị trờng tiền tệ. Lãi suất trên thị trờng tiền tệ là
lãi suất đợc thực hiện gĩữa các ngân hàng trên thị trờng
tiền tệ .Nh vậy trên thế giới có khá nhiều nớc áp dụng cơ chế

lãi suất cơ bản và nó đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc điều hành hoạt động của hệ thống ngân hàng ở mỗi nớc nhằm thực hiện cho đợc những mục tiêu của chính sách
tiền tệ.. Việt Nam là nớc mới vận dụng công cụ này nên cần
thiết phải có cách xác định rõ ràng.
1.2 Những căn cứ xác định lãi suất cơ bản.
Mặc dù lãi suất cơ bản là loại lãi suất có tính chất chỉ đạo
và ngay từ khái niệm đã cho thấy rằng có nhiều cách hiểu
khác nhau về lãi suất cơ bản nhng dù đợc hiều theo cách
nào, dựa trên cơ sở nào thì khi xác định và công bố, thay
đổi lãi suất thì NHNN cũng phải căn cứ vào những yếu tố
sau:
- Chỉ tiêu tăng trởng kinh tế hằng năm.
- Chỉ số lạm phát dự kiến hằng năm.
- Lãi thực của ngời gửi tiền đợc hởng nhằm đảm bảo lãi
suất tiền gửi là số dơng dể khuyến khích ngời gửi tiền vào
ngân hàng.
- Chi phí ngân hàng thấp nhất đảm bảo tiền lơng, chi
phí nghiệp vụ, trích quỹ dự phòng rủi ro và lợi nhuận tối
thiểu trong hoạt động ngân hàng-

5


- Tình hình cung cầu vốn tín dụng trên thị trờng.
- Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất
nội tệ và lãi suất ngoại tệ.
- Lãi suất thị trờng đấu thầu trái phiếu Kho bạc Nhà nớc
trong các phiên đấu thầu gần nhất.
- Lãi suất bình quân trên thị trờng nội tệ liên ngân hàng
thời gian gần nhất.

Để xác định biên độ đợc cộng vào lãi suất cơ bản cần
dựa vào:
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ từng thời kỳ ( thắt
chặt hay nới lỏng) .
- Hệ số sử dụng vốn bình quân sau khi đã thực hiện dự
trữ bắt buộc và đảm bảo an toàn trong thanh toán của
TCTD.
- Mức độ rủi ro của loại hình khách hàng.
- Đặc điểm khó khăn, thuận lợi trên những vùng kinh tế
khác nhau
Trên cơ sở lãi suất cơ bản đợc tính theo những căn cứ nh
vậy, các ngân hàng thơng mại sẽ niêm yết để công bố mức
lãi suất của mình. Mức lãi suất cho vay thực tế của các ngân
hàng sẽ là lãi suất cơ bản cộng với tỷ lệ % theo biên độ giao
động do NHTƯ quy định đợc áp dụng linh hoạt cho từng món
vay. Làm nh vậy NHNN Việt Nam sẽ quản lý đợc lãi suất cho
vay cao nhất, lãi suất cho vay thấp nhất, đảm bảo đợc quyền
lợi của ngời vay trong khung lãi suất ấn định, giúp cho các
TCTD đợc tự quyết định lãi suất huy động và tự do cạnh
tranh trong khuôn khổ quản lý của NHNN Việt Nam Nh vậy,
lãi suất đã đợc điều hành theo hớng có chỉ đạo của NHNN,
nhng đồng thời các NHTM vẫn duy trì đợc quyền tự chủ
trong quy định lãi suất. Lãi suất đã đợc quản lý linh hoạt theo

6


diễn biến thay đổi của thị trờng và dựa trên cơ sở đảm
bảo an toàn hệ thống.
Công thức chung để tính lãi suất cơ bản nh sau:

LSTG có
đảm
=
+
bảo
quyền
lợi của
khách
hàng
Theo cách tính lãi suất
cơ bản
Lãi xuất
cơ bản
do
NHNN
công bố

Chi
Biên
phí
+ độ
NH
dao
đảm
độn
bảo có
g
lãi tối
thiểu
nh

trên, các NHTM đã đợc

phép tính đến một tỷ lệ lợi nhuận trong kinh doanh, mà vẫn
tính đến cả mức độ rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, chi
phí huy động đợc tính phù hợp trên cơ sở đảm bảo lãi suất
thực dơng cho ngời gửi tiền.
II.Một số cách hiểu về lãi suất cơ bản.
Nghị quyết Trung ơng lần thứ 4, khoá VIII Thông báo số
144/TB-TƯ ngày 3/6/1998 của Bộ Chính trị nêu rõ: " Xây
dựng và thực hiện cơ chế mới phù hợp về tỷ giá và lãi suất, với
bớc đi thích hợp, không để xảy ra biến động xấuvề kinh tế,
xã hội ...Cụ thể là thực hiện lãi suất thực dơng linh hoạt, phản
ánh đúng cung cầu vốn trên thị trờng, từng bớc áp dụng lãi
suất cơ bản thay dần cho việc ấn định trần lãi suât." Tuy
nhiên với cách giải thích mà NHNN đa ra trong luật đã nảy
sinh khá nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản. Vấn
đề đặt ra trong điều kiện hiện nay là lựa chọn loại lãi suất
cơ bản nào phù hợp với yêu cầu thực tiễn dặt ra. ở đây, em
xin đợc nêu ra một vài cách hiểu phổ biến nhất.
2.1 Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn
Đây là biện pháp phổ biến đợc NHTƯ các nớc áp dụng.
Lãi suất này do NHTƯ chủ động công bố và đợc xem xét tính
toán tơng đối thờng xuyên( hàng tháng hoặc 2 tuần một lần
) nên thực sự đóng vai trò quyết định đối với các mức lãi
7


suất kinh doanh cũng nh cung, cầu vốn của các TCTD. Hơn
nữa ở Việt nam, do nghiệp vụ chiết khấu của NHNN cha phát
triển, việc tái cấp vốn thực hiện tơng đối trực tiếp vì vậy

lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN để điều hành lãi suất sẽ
thích hợp hơn là lãi suất tái chiết khấu. NHNN chỉ cần xác
định và công bố một mức lãi suất chỉ đạo đối với các TCTD,
do vậy thuận tiện cho việc điều hành quản lý chính sách lãi
suất của NHNN và tạo điều kiện chủ động trong kinh doanh
của các TCTD.
Nhng trong điều 18 Luật NHNN Việt nam quy định:"
NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp
vốn". Vì vậy không thể lấy lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất
cơ bản mà phải công bố một mức lãi suất khác với tên gọi là lãi
suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn là công cụ điều hành chính
sách tiền tệ, trực tiếp để điều hành lợng tiền cung ứng của
NHTƯ và khối lợng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng đối
với nền kinh tế và gián tiếp tác động vào lãi suất cho vay và
huy động vốn ( thông qua tác động đến cung cầu về vốn).
Tuy nhiên, do cơ chế tái cấp vốn vận hành cha thông suốt
theo cơ chế thị trờng, các TCTD cha đợc tự do tiếp cận
nguồn vốn của NHNN ( theo cả hai chiều nhận vốn khi thiếu
và đầu t trở lại khi thừa), nên mức độ tác động của lãi suất
tái cấp vốn đến mặt bằng lãi suất chung còn rất nhiều hạn
chế. Do vậy, nếu lấy lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản
thì có thể NHNN sẽ không đạt đợc mục tiêu tác động vào lãi
suất của NHTM , kể cả khi quy dịnh một biên độ so với lãi
suất cho vay.
2.2. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa.
Theo phơng án này, NHNN công bố trần lãi suất cho vay
nh hiện nay làm lãi suất cơ bản, các TCTD căn cứ vào trần lãi
suất của NHNNđể ấn định các mức lãi suất cho vay và lãi

8



suất tiền gửi cụ thể theo từng thời kỳ và từng vùng khác
nhau.
Quy định nh phơng án này về nguyên tắc là phù hợp với
Luật NHNN, vì ở đây lựa chọn trần lãi suất cho vay là lãi
suất cơ bản để làm cơ sở cho các TCTD ấn định các mức lãi
suất cho vay và huy động vốn. NHNN công bố một mức lãi
suất trần nhng có thể quy định một số mức biên độ so với
trần lãi suất phù hợp với đặc thù các loại hình TCTD , các vùng
khác nhau và các loại cho vay ngắn, trung và dài hạn nh hiện
nay.
Ưu điểm:
- Tạo ra một bớc tiến mới trong chính sách lãi suất, tạo chủ
động, linh hoạt cho các TCTD trong kinh doanh và điều tiết
quan hệ cung cầu về vốn, đồng thời tạo môi trờng cạnh
tranh lành mạnh giữa các TCTD trong khuôn khổ lãi suất. Các
TCTD đợc tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay trong phạm vi
trần tối đa. Tuỳ theo đặc điểm, điều kiện của các loại
hình TCTD về quy mô, chi phí khác nhau mà NHNN có thể
quy định nhiều mức trần lãi suất cho phù hợp với điều kiện
riêng có của loại hình tổ chức tín dụng và của các vùng khác
nhau.Các TCTD căn cứ vào trần lãi suất của NHNN để ấn
dịnh các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù
hợp cung cầu về vốn, các vùng khác nhau, mức chi phí vốn
và lợi nhuận.
- Việc quy định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt
bằng chung về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nớc, nên tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra , giám
sát về lãi suất của NHNN.

- Là cơ chế lãi suất linh hoạt theoquan hệ cung cầu vốn,
phù hợp hơn với cơ chế thị trờng và thông lệ quốc tế, tạo ra
khả năng cạnh tranh lớn hơn giữa các TCTD, giảm thiểu sự
quản lý của Nhà nớc bằng mệnh lệnh hành chính
9


- Việc xác định, công bố, điều hành chính sách lãi suất
của NHNN theo trần lãi suất dễ dàng, linh hoạt, thuận tiện.
Nhợc điểm:
- Việc quy định trần lãi suât cho vay làm lãi suất cơ bản
còn mang nặng tính hành chính trong điều hành chính
sách tiền tệ. Do tính chất điều hành trực tiếp nhiều hơn
gián tiếp có thể sẽ cản trở quá trình tự do hoá lãi suất cũng
nh định hớng chuyền dần từ công cụ điều hành từ trực tiếp
sang gián tiếp của NHTƯ.
- Tiếp tục còn tình trạng nhiều trần lãi suất nh đã từng
có trong những năm trớc do tính chất kinh doanh, địa bàn
hoạt động của các TCTD khác nhau.
- Trong điều kiện các TCTD đang ứ đọng vốn, không cho
vay đợc do nền kinh tế đang trong trạng thái thiểu phát nh
hiện nay, việc quy định lãi suât cho vay tối đa là lãi suât
cơ bản không thích hợp vì có thể dẫn đến tình trạng các
TCTD cạnh tranh nhau giảm lãi suất cho vay để thu hút khách
hàng gây nguy hại cho sự an toàn của hệ thống ngân hàng,
tức là trần lãi suất không còn phát huy tác dụng.
2.3. Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Các TCTD ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong
phạm vi mức khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định
các mức lãi suất tiền vay cụ thể phù hợp với cung cầu vốn.

Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHNN chỉ công bố
và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho
vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua
điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp
của chính sách tiền tệ. Điều này sẽ không cho phép các TCTD
huy động vốn với bất kỳ lãi suất nào, bảo đảm an toàn hệ
thống và lợi ích ngời gửi tiền; đồng thời giúp cho các TCTD
chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và
cho vay phù hợp với biến động của thị trơng tiên tệ và đặc
10


điểm hoạt động của từng loại hình TCTD và giữa các vùng
khác nhau.Quy định lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa
làm việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN mang tính
chất quy định, về nguyên tẵc chung không can thiệp trực
tiếp vào lãi suất kinh doanh của TCTD.
Tuy nhiên, muốn điều hành lãi suát cho vay có hiệu
quả thông qua việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì
phải sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ
nh nghiệp vụ thị trờng mở, cửa sổ chiết khấu và thị trờng
liên ngân hànghoạt động co hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ
là ngời cho vay cuối cùng. Nhng các điều kiện trên ở nớc ta
cha hội tụ đủ, Vì vậy, khả năng điều tiết và quản lý lãi suất
sẽ rất hạn chế vì chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp mà
NHNN có thể thực hiện là nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối
đa để theo đó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Nếu thực
hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì có thể dẫn
đến tình trạng:
+ Các TCTD sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt đợc lợi nhuận cao vì bản chất của cơ chế thị trờng là lợi nhuận

tối đa. Khi đó, nếu NHNN dùng biện pháp hạ lãi suất tiền gửi
tối đa thì sẽ kém hiệu quả và có thể lãi suất cho vay co thể
không hạ xuống đợc.Bài học về lãi suất cho vay thoả thuận trớc đây (1993-1995) đã minh chứng điều đó, lãi suất cho
vay thoả thuận lên đến 0,35%/ tháng trong khi lãi suất cụ thể
quy định là 1,8%-2,1%/ tháng, các TCTD có lãi lớn trong khi
các doanh nghiệp gặp khó khăn nên Quốc hội đã yêu cầu
Chính phủ và ngành Ngân hàng và chính sách trần lãi suất
ra đời từ đó để khống chế lãi suất cho vay quá cao.
+ Lãi suất cho vay cao nhng các doanh nghiệp và hộ
sản xuất vấn phải vay vì thiếu vốn sản xuất và vay để bù
đắp các khoản nợ cũ đến hạn do cung về vốn ở nớc ta luôn
nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp hơn chi phí trả lãi ngân hàng
11


dẫn đến nguy cơ cả doanh nghiệp và Ngân hàng đều khó
khăn và dẫn cả 2 đến chỗ mất khả năng thanh toán.
+ Nếu thực hiện lãi suất này chắc chắn sẽ hình thành
nhiều khu vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân
hàng khác nhau nh: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu
vực thành thị, lãi suất cho vay các TCTD cổ phần sẽ cao hơn
các TCTD có quy mô và sức cạnh tranh lớn hơn nh NHTM quốc
doanh, Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nớc
ngoài, Và nh vậy sé giảm tính lành mạnh của cạnh tranh và
trong sự cạnh tranh này các TCTD lớn sẽ có u thế hơn..
Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trờng tiền
tệ chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ bằng các công
cụ trực tiếp sang kết hợp điều hành bằng công cụ trực tiếp
với công cụ gián tiếp cần thực hiện một cơ chế lãi suất cơ
bản linh hoạt hon là công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi

tối đa.
Tóm lại, về nguyên tắc, sử dụng theo một trong các phơng thức nêu trên đều đúng cả. Nhng do điều kiện kinh tê,
tiền tệ ở Việt nam hiện nay việc lựa chọn một phơng thức
thích hợp nhất còn phải cân nhắc nhiều.
III. Yêu cầu đối với lãi suất cơ bản.
Kinh tế Việt nam vừa qua giai đoạn từ một nền kinh tê
kế hoạch hoá đậm nét tính quan liêu bao cấp để hớng tới
phát triển theo hớng kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc. Nền thị trờng tiền
tệ cha ổn định vững vàng, hệ thống các NHTM còn nhỏ
bé, cha đủ sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
trong đó thị phần chủ yếu là các NHTM quốc doanh. Với
tình hình nh vậy, việc điều hành lãi suất cơ bản phải chú ý
đến các yêu cầu sau:

12


* Lãi suất cơ bản trớc hết phải đợc xác định đúng
chuẩn mực để đúng với vai trò lãi suất chỉ đạo, các căn cứ
để xác định lãi suất cơ bản phải dựa trên các chỉ tiêu kinh
tế cũng phải đợc tính toán chính xác nh: các chỉ tiêu dự
kiến về chỉ số lạm phát, chỉ tiêu về tăng trởng kinh tế, mối
quan hệ cung cầu về vốn và yêu cầu của việc điều hành
chính tiền tệ quốc gia, mối quan hệ giữa tỷ giá ngoại tệ với
đồng Việt nam.
* Vai trò quản lý Nhà nớc của NHNN thể hiện trong việc
điều hành lãi suất cơ bản phải đợc đề cao. NHNN có thể
giám sát kiểm sát các TCTD trong việc quy định và thực
hiện lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay của mình phù hợp

với lãi suất chỉ đạo, phù hợp với lãi suất trên cùng địa bàn, bảo
đảm đợc kinh doanh, ngăn ngừa đợc tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các TCTD.
* Phải thể hiện đợc chính sách của Nhà nớc dùng lãi suất
để tác động tới kinh tế nói chung và tình hình tiền tệ nói
riêng, nhng không phải là chính sách nặng về thắt chặt
tiền tệ nh thời gian vừa qua.
*Phát huy cao độ tính tự chủ trong kinh doanh của các
TCTD, tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng linh hoạt cho
việc tự do định lãi suất, làm quen dần với tính cạnh tranh
lành mạnh trong thị trờng giữa các TCTD nhng vẫn trong
khuôn khổ của lãi suất cơ bản mà NHNN chỉ đạo quản lý.
* Phản ánh đợc cung cầu tín dụng trong toàn bộ nền
kinh tế mà các Ngân hàng (thờng là các Ngân hàng lớn),
trong đó phải phân biệt đợc đâu là nhu cầu thực, đâu là
nhu cầu đầu cơ để có khả năng chống đầu cơ ở thị trờng
tài chính đang là nguy cơ gây ra khủng hoảng tiền tệ kéo
theo khủng hoảng kinh tế.
* Phải tơng thích với lãi suất của các nớc trong khu vực
và rộng ra trên thế giới để vừa thu hút đợc vốn tín dụng từ
13


bên ngoài, vừa không rơi vào những sai lầm chính sách nh
các nớc bị khủng hoảng tiền tệ, vào nanh vuốt của đầu cơ.
IV. Ưu-nhợc điểm của việc quản lý bằng lãi xuất cơ
bản.
Theo báo cáo của chính phủ do Thủ tớng Chính phủ Phan
Văn Khải trình bày tại kỳ họp thứ 6 quốc hội khoá X tháng
11/1999 thì" Ngân hàng cần sớm thay thế việc định lãi

suất trần bằngviệc áp dụng lãi suất cơ bản theo Luật Ngân
hàng đi đôi với việc sử dụng các công cụ điều tiết lu thông
tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trờng...Giải pháp cơ bản và lâu
dài là đổi mới cơ chế lãi suất, đồng thời đòi hỏi các doanh
nghiệp phải làm ăn có lãi, trả đợc nợ".
Cụ thể hoá quy định này, Quyết định 241/2000/QĐNHNN1 ngày 2/8/2000 nêu rõ: Đối với đồng Việt Nam, lãi suất
cơ bản do thống đốc Ngân hàng nhà nớc quy định hàng
tháng, trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thơng mại
đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD đợc lựa chọn
theo quyết định của Thống đốc NHNN trong từng thời kỳ.
Các TCTD ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản
do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vợt
quá lãi suất cơ bản cộng với biên độ nhất định. Đối với đồng
Đôla, Quyết định 243/2000/QĐ-NHNN1 quy định: lãi suất
cho vay của các TCTD đợc xác định căn cứ vào lãi suất Đôla
Mỹ trên thị trờng tiền tệ Ngân hàng Singapore (SIBOR) và
cũng đợc phép dao động với một biên độ nhất định. Cùng
ngày 2/8/2000, Thống đốc NHNN đã công bố chính thức lãi
suất cơ bản và biên độ hiện hành nh sau:
-Đối với đồng Việt Nam, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng,
biên độ giao động là 0,3%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn
và 0,5%/tháng đối với lãi suất cho vay trung, dài hạn. Lãi suất
cho vay và lãi suất huy động của TCTD gắn với lãi suất cơ
14


bản, theo đó lãi suất cho vay của TCTD cao nhất bằng lãi suất
cơ bản cộng(+) tỷ lệ phần trăm.
Lãi suất cơ bản và biên độ đợc công bố định kỳ hàng
tháng, trờng hợp cần thiết NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp

thời.
-Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ:
+ Cho vay bằng đôla Mỹ: bỏ việc quy định trần lãi suất
cho vay của NHTM đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế
lãi suất linh hoạt phù hợp với thị trờng quốc tế nhng vẫn có sự
kiểm soát của NHNN, cụ thể lãi suất cho vay ngắn hạn( từ 1
năm trở xuống) không vợt quá mữc SIBOR ( lãi suất thị tròng
tiền tệ liên ngân hàng Singapore ) kỳ hạn 3 tháng 1,0%
/năm, lãi suất cho vay trung dài hạn không vợt quá mức SIBOR
kỳ hạn 6 tháng+ 0,5% /năm.
+ Cho vay bằng các ngoại tệ khác: Do chiếm tỷ lệ nhỏ
trong hoạt động tiền gửi và tín dụng trên thị trờng, nên cho
phép các NHTM tự xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, cho
vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất quốc tế và
cung cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ đó.
Với quy định về lãi suất cơ bản và biên độ nh trên là phù
hợp với mặt bằng lãi suất đã và đang đợc hình thành trên
thị trờng nông thôn và thành thị hiện nay, không tác động
làm thay đổi lãi suất thị trờng và không tạo tâm lý về việc
NHNN tăng trần lãi suất. Nh vậy, so với cơ chế trần lãi suất
tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản có một số u điềm sau:
- Thứ nhất, nền tảng thị trờng đã đợc đa vào cơ chế
xác định lãi suất cơ bản
- Thứ hai, môi trờng cho việc ấn định lãi suất kinh doanh
của các TCTD đợc mở rộng. Nếu nh trớc đây, các TCTD chỉ
đợc phép ấn định lãi suất kinh doanh thấp hơn trần lãi suất
tín dụng, thì với cơ chế lãi suất mới này, các TCTD đợc phép

15



ấn định lãi suất kinh doanh cả ở trên và dới lãi suất cơ bản,
trong đó giới hạn trên là lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao
động.
- Thứ ba, lãi suất kinh doanh của các TCTD có thể là lãi suất
cơ bản hoặc là lãi suất thả nổi. Việc đa vào cơ chế lãi suất
thả nổi là hoàn toàn hợp lý, nó không chỉ phù hợp với cơ chế
thị trờng, mà còn phù hợp với

cơ chế lãi suất cơ bản mà

NHNN sẽ tiến hành điều chỉnh hàng tháng trên cơ sở tham
khảo lãi suất thị trờng.
- Thứ t, phơng án này một mặt không buông lỏng quản lý
để lãi suât biến động tự do nhng một mặt cũng không
gây áp đặt lãi suất cứng nhắc, bỏ qua những tín hiệu thị
trờng. Sử dụng phơng án này là sự kết hợp hài hoà giữa hai
thái cực, tạo ra một hành lang phù hợp để xây dựng một môi
trờng cạnh tranh lành mạnh. Một số ngân hàng không thể sử
dụng u thế về quy mô, tiềm lực tài chính, địa bàn hoạt
động... của mình để giành khách hàng quá mức cho phép.
Đồng thời quy định này cũng không làm triệt tiêu động lực
cạnh tranh giữa các TCTD . Muốn nâng cao chất lợng phục vụ,
các TCTD vẫn phải không ngừng tìm cách tối thiểu chi phí
hoạt động, hạ mức lãi suất cho vay trong phạm vi quy định
để ngày càng thu hút đợc nhiều khách hàng về phía mình.
- Thứ năm, đã có cơ chế chính thức liên hệ lãi suất đồng
đôla trong nớc và lãi suất đồng đôla trên các thị trờng quốc
tế thông qua lãi suất đồng đôla trên thị tròng tiền tệ
Singapore.

Chủ trơng điều hành lãi suất của NHNN theo Luật NHNN
về cơ bản là đúng, phù hợp với yêu cầu và các điều kiện
hiện nay của các đối tợng hởng lãi suất là ngời cho vay, ngời
vay và các ngân hàng thơng mại, các TCTD.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt u việt trên, việc quản lý
của NHNN bằng lãi suất cơ bản đã bộc lộ một số nhợc điểm
16


không phù hợp với sự phát triển kinh tế, cha tơng xứng với
những đòi hỏi bức xúc trong việc phát triển mạnh mẽ thị trờng tiền tệ
+ Việc quy định lãi suất cơ bản nh vậy sẽ tạo ra sự không
thống nhất về lãi suất cho vay, lãi suất huy động vốn giữa
các TCTD, tạo nên sự cạnh tranh không bình thờng giữa các
tổ chức này trên cùng địa bàn. Mặc dù theo quyết đinh
241/2000/QĐ-NHNN1 thì lãi suất cho vay tối đa là 1,05%
/tháng( ngắn hạn) và 1,25%/ tháng ( trung vàdài hạn) nhng
thực tế cho vay của các Quỹ tín dụng nhân dân và các
NHTMCP nông thôn vãn ở mức 1,5% / tháng, trong khi đó thu
nhập của ngời nông dân thấp hơn dân c thành thị, yêu cầu
phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đòi hỏi phải u
tiên vốn tín dụng cho khu vực này. Giữa các NHTM với nhau,
lãi suất cho vay và lãi suất huy động cũng rất khác nhau,
ngay trong từng địa bàn, Nói chung lãi suất huy động của
các NHTMCP cao hơn các NHTMQD từ 1%-1,5%/tháng trên
cùng một địa bàn. Một số NHTMCP dùng lãi suất làm công
cụđể cạnh tranh khách hàng với các NHTM khác do họ có lợi
thế về tính linh hoạt trong điều hành lãi suất. Nhiều NHTM
còn dùng lãi suất cho vay để thu hút khách hàngm nhất là các
khách hàng lớn nh các Tổng công ty 90-91, trong khi đó, các

NHTMCP vốn ít phải chấp nhận lãi suất cao hơn nên rất khó
khăn trong kinh doanh tiền tệ
+ Lãi suất hiện nay đã vợt quá tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ lạm
phát năm 1998=9,2%, năm 1999 là 0,1% và năm 2000là
-0,1%. Trong khi đó, tỷlệ lãi suất huy động tiền gửi và lãi
suất cho vay của các NHTM và các TCTD ngắn hạn và dài hạn
đều cao hơn mức đó. Sự chênh lệch tỷ lệ lạm phát và lãi
suất huy động, lãi suất cho vay nh trên đã và đang tạo ra
những mâu thuẫn trong hoạt động tín dụng của các NHTM
và các TCTD. Tỷ lệ lạm phát thấp nh ba năm vừa qua, bên cạnh

17


mặt tích cực là ổn định giá trị đồng nội tệ cũng có mặt
đáng quan tâm là thị trờng trầm lắng, sức mua thấp, hàng
hoá ứ đọng, dấu hiệu của những cơn sốt lạnh. Trong khi đó
các doanh nghiệp lại phải vay vốn ngân hàng với lãi suất cao
nên buộc họ phải tính toán và giảm mức vayvốn của ngân
hàng để giảm chi phí do lãi suất cho vay vốn. Không ít
doanh nghiệp thay vì việc vay vốn mở rộng sản xuất kinh
doanh lại gửi tiền vào ngân hàng để đợc hởng lãi suất đỡ rủi
ro hơn so với mở rộng sản xuất kinh doanh trong điều
kiệnthị trờng trầm lắng, hàng hoá tồn kho còn nhiều. Hoạt
động của các doanh nghiệp cũng có xu hớng chững lại rõ nét
và xu hớng này cũng làm cho tình trạng các ngân hàng bị
xấu đi.
+ Lãi suất cơ bản vẫn còn mang tính chất áp đặt hành
chính, mặc dù đã tạo điều kiện cho các ngân hàng phát
huy quyền tự chủ. Bởi vì thực tế thì cung cách điều hành

bằng lãi suất cơ bản nh hiện nay về nguyên tắc không káac
là bao so với cơ ché quy định trần lãi suất cho vay mà chúng
ta vẫn đang ạp dụng trong năm 1999. Mà nh vậy, nó cha thể
giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn tại của cơ chế
lãi suất trần. Có chăng chỉ là " bình cũ rợu mới " mà thôi.
+ Phơng thức này có thể duy trì thói quen của các TCTD
luônluôn chỉ muốn áp dụng lãi suất cho vay sát trần cao nhất
để có lãi cao hoặc tập trung vốn đầu t vào vùng kinh tế
phát triển chấp nhận mức lãi suất cao, mà lơi là trong việc
đầu t vốn u tiên đến các vùng kinh tế khó khăn, kém phát
triển mà yêu cầu phải cho vay với lãi suât thấp.
Nh vậy, chính sách lãi suất cơ bản mặc dù mới đợc vận
dụng nhng đã ít nhiều thể hiện những khiếm khuyết, sự
không phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt nam và đã
bắt đầu có những phản ứng tiêu cực từ phía các TCTD và
khách hàng. Đó là những vấn đề đặt ra cho NHNN có kế
18


hoạch chỉ đạo khắc phục và bằng các chính sách đồng bộ
hơn, tin rằng có thể giải quyết đợc .
Nhng trớc khi đi tìm một chính sách lãi suất mới chúng ta
hãy cùng nhau đánh giá thực trạng điều hành lãi suất ở Việt
nam thời gian qua.
V.Tác động của chính sách lãi xuất ở VN đến sự
tăng trởng kinh tế
Sau 10 năm đổi mới cả tổ chức và cơ chế chính sách
hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trờng cĩng là 10 năm
đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất. Chính sách lãi
suất của Nhà nớc ta trong 10 năm qua phải nói là đã đổi mới

rất mạnh mẽ nhng cũng rất thận trọng, đi dần từng bớc phù
hợp với từng giai đoạn trên con đờng tiến đến một chính
sách lãi suất thị trờng theo hớng tự do hoá lãi suất. Em xin
đánh giá lại các bớc đổi mới chính sách lãi suất trong giai
đoạn vừa qua, đặc biệt là thời kỳ từ 1996 đến nay để
chúng ta có thể hình dung một cách rõ nét hơn các bớc đi
về lãi suất, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc đề
xuất một định hớng lãi suất kịp thời.
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trớc năm 1988, lãi suất của
Việt Nam không theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do
NHNN áp đặt là một trong những nguyên nhân gây và
kéo dài lạm phát phi mã. NHNN lúc này qui định cụ thể các
loại lãi suất tiền gửi và tiền vay để các NHTM thực hiện.
Thực tế chính sách lãi suất trong giai đoạn này lâm vào một
tình trạng chung là: ngời gửi tiền lỗ, ngân hàng lỗ và doanh
nghiệp lỗ. Những khoản lỗ này đợc Nhà nớc bù đắp cho
ngành Ngân hàng và các doanh nghiệp quốc doanh bằng 2
cách: Phát hành tiền và vay nợ nớc ngoài làm cho tình trạng
càng khó khăn hơn. Mặc dù từ tháng 10/1986 đén 7/1987,
NHNN đã 3 lần điều chỉnh lãi suất nhng chính sách lãi suất
19


trong thời kỳ này còn bộc lộ nhiều yếu điểm , cha thực sự là
công cụ tốt của chính sách tiền tệ, điều này thể hiện rõ
nết qua việc Nhà nớc còn phải bao cấp về tín dụng.
Trớc tình thế này, đến tháng 3/1989, với quyết định
39/HĐBT. qui luật lãi suất thực mới đợc công nhận, nhng t tởng" Lãi suất ngân hàng phải áp sát lãi suất thị trờng " ( lãi
suất của nớc hoa Thanh Hơng đã bị ngộ nhận là lãi suất thị
trờng) đã dẫn đến lãi suất tiết kiệm cực kỳ cao 12% tháng dù

tỷ lệ lạm phát nửa cuối năm 1988 chỉ còn 7%/tháng. Dù tháng
7/1989, NHNN đã hạ xuống 7% nhng lãi suất cực kỳ cao vẫn
còn ảnh hởng đến tâm lý ngày nay: ngời đã gửi tiền luôn
đòi hỏi lãi suất cao.
Năm 1994, NHNN đã công bố chủ trơng hạ lãi suất trong
các cuộc họp Giám đốc đầu năm nhng chủ trơng này vẫn
không thực hiện đợc với lý do tỉ lệ lạm phát bị đẩy lên cao
gấp đôi năm 1993 mặc dù lạm phát vẫn gần với một con số.
Trong giai đoạn này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho
vay), vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. Cụ thể là trần cho vay
doanh nghiệp Nhà nớc là 1,8%/tháng, kinh tế ngoài quốc
doanh là 2,1%/tháng. Trờng hợp Ngân hàng không huy động
đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành
kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì đợc áp dụng lãi suất thoả
thuận: lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm
cùng kỳ hạn là 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần
2,1%/ tháng. Trong 3 năm chậm hạ lãi suất, tiền gửi của các
NHTM chỉ sử dụng hết 1/2, cụ thể các NHTMCP từ chỗ sử
dụng tiền gửi để cho vay tới 87,02% năm 1993, tụt xuống
chỉ còn 74,75% năm94, 71,75% năm 95 và 58,98% vào
giữa năm 96. Trong lãi suất thoả thuận, mức chênh lệch giữa
sàn( tiền gửi) và trần ( cho vay) rất lớn, khoảng từ 0,7-1%/
tháng làm cho các NHTM có mức lợi nhuận quá cao, trong khi
doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn Các

20


doanh nghiệp vay vốn đã è cổ ra gánh một lãi suất cao để
trả lẫi cho ngời nớc ngoài dem ngoại tệ vào đồi lấy VND để

gửi tiết kiệm với lãi suất cao gấp 4-5 lần lãi suất thế giới.
Từ thực tế này, Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng
8/95 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động
tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu Ngân hàng tiết kiệm chi
phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy
động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng. Đây là duyên
cớ để ra đời cơ chế trần lãi suất hoàn toànvà bãi bỏ lãi suất
cho vay thoả thuận từ 01/01/1996. Theo quyết định số
381/QĐ-NH1 về việc điều chỉnh lãi suất tiền gửi, cho vay
đối với các tổ chức kinh tế- xã hội dân c, gồm có:
- Lãi suất vay ngắn hạn tối đa: 1,75%/ tháng ( 21%/năm)
-

Lãi

suất

trung



dài

hạn

tối

đa:

1,70%


/tháng( 20,6%/năm)
- Tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất huy động bình quân và
lãi suất cho vay bình quân tối đa là 0,35%. Tổng giám đốc
TCTD căn cứ vào trần lãi suất cho vay tối đa và tỷ lệ chênh
lệch lãi suất bình quân trên để qui định các mức lãi suất
tiền gửi và cho vay nhằm phù hợp với đặc điểm sản xuất
kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp, điều kiện kinh
doanh của từng ngân hàng,
Quyết đình này đã đạt đợc một bớc tiến về lãi suất, giao
quyền chủ động cho các NHTM

trong việc điều hành lãi

suất theo tín hiệu thị trờng, quan hệ cung-cầu vốn tín
dụng, phù hợp với từng đặc điểm riêng của từng ngân hàng,
từng khu vực kinh tế. Tuy vậy,nguồn vốn của các NHTM tăng
chủ yếu là gia tăng nguồn vốn ngắn hạnvà đã dẫn tới hiện tợng một số NHTMQD thừa vốn ngắn hạn trong khi đó nhu
cầu vốn trung và dài hạn cuả nền kinh tế còn thiếu nghiêm
trọng. Đặc biệt việc giảm lãi suất cho vay ngắn hạn xuống
1,25%/ thángvà khống chế chênh lệch tối đa là 0,35%/ tháng
21


thì Ngân hàng nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn vì họ
không có đợc những lợi thế kinh doanh nh các ngân hàng
khác
Năm 1996, NHNN tiếp tục ba lần điều chỉnh lãi suất và
đến tháng 4/1998 NHNNđã diều chỉnh thêm hai lần lãi suất
nữa.

Nh vậy, lãi suất cho vay trong năm 1996 đã đợc điều
chỉnh giảm mạnh giúp cho các doanh nghiệp giảm đợc chi
phí và giá thành trong việc vay vốn để sản xuất kinh doanh
đồng thời mạnh dạn hơn trong việc thực hiện các dự án cho
vay, đầu t phát triển và đổi mới công nghệ.
Thực ra, trớc khi NHNN chính thức công bố lãi suất trần,
các NHTM đã tiến hành điều chỉnh hạ thấp lãi suất cho vay
để tăng cờng thu hút khách hàng. Hiện tợng này diễn ra âm
thầm, tự phát nhng không kém phần quyết liệt và hầu hết
tập trung ở các thành phố đô thị lớn nơi có nhiều hệ thống
ngân hàng cạnh tranh, Vì vây, đã dẫn đến một nghịch lý:
cờng độ cạnh tranh cao thờng hội tụ ở những nơi phồn hoa
đô hội, ngời đi vay đợc hởng rất nhiều từ sự cạnh tranh
giảm giá lãi suất, Trong khi đó, khu vực nông thôn đang cần
đến sự nâng đỡ lại phải chấp nhận mức lãi suất cao hơn(?)
Đặc trng lớn nhất của thị trờng tín dụng Việt Nam lúc này là
tính không hoàn hảo của nó: Phần lớn những địa bàn độc
quyền lãi suất cho vay luôn đội "trần" , đan xen với những
điaj bàn cạnh ttranh lãi suất cho vay có hiện tợng đạp " sàn".
Năm 1997, với mức lạm phát thấp nhất từ trớc đến nay,
NHNN đẫ không bỏ qua cơ hội này liên tục điều chỉnh
giảm

lãi

suất

xuống

đến


mức

thấp

nhất

vào

tháng7/1997( trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1%, trung và dài
hạn 1,1% đồng thời cũng hạ các mức trần lãi suất cho vay u
đãi khác) để kích thích kinh tế phát triển, nhng các ngân
hàng không tán thành vì họ cho rằng lúc này các nớc phải
22


nâng lãi suất tiền gửi để chống làn sóng rút tiền gửi ra mua
USD. Để phòng ngừa cơn bão tiền tê có thể lớt qua, các ngân
hàng trong nớc cũng phải giữ lãi suất gần nh cũ,đến mức lãi
suất tiền gỉ có kỳ hạn chỉ chênh với lãi suất cho vay từ 0,05%
đến 0,1%/tháng gây lỗ về tín dụng.
Vào năm1998, khu vực tiền tệ ngân hàng phải đối mặt
với những hệ quả nghiêm trọng của khủng hoảng Châu á, áp
lực giảm giá VND xuất hiện không chỉ bắt nguồn từ các hoạt
động hữu hình, cụ thể là tình trạng xấu đi nhanh chóng
của hoạt động đối ngoại ( năm1997, giá trị kim ngạch xuất
khầu chỉ tăng 22% so với mức tăng 34,4% năm1995) mà hiệu
ứng tâm lý lan truyền về sự phá giá của đồng VND tiếp
theo làn sóng phá gía mạnh của hầu hết các đồng tiền
Châu ấ đã gây ra những bất ổn trên thị trờng ngoại hối. Tỷ

giá liên ngan hàng luôn ở mức trần cho phép và tỷ giá thị trờng tự do còn biến động cao hơn mức trần. Cộng thêm vào
đó, tin tức các vụ Epco Minh phụng làm cho một số ngời đổ
xô vào rút tiền gửi ở các ngân hàng mà họ nghi là có cho hai
công ty này vay. Các ngân hàng này bị một phen hú vía,
phải vay cào,vay cấu bên ngoài để đối phó kịp thời và khi
đã giải thích làm dịu cơn sốt rút tiền thì đã phải tăng chi
phí đến mức tỷ suất lợi nhuận giảm hẳn. NHNN Việt nam
không có loại tín dụng điều chỉnh nh ở Mỹ để ứng phó cho
vay tiếp quỹ kịp thời vào những lúc khó khăn nh vậy, lại thờ
ơ với tình trạng phải giảm mạnh lợi nhuận nên các NHTM đã
phản ứng khá mạnh với những câu đại loại nh Ngân hàng mẹ
mà không giúp đỡ Ngân hàng con.
Trong bối cảnh nh vậy,việc còn duy trì kiểm soát lãi suất
là rất thiết thực, vì NHNN có thể ngay lập tức tăng giá trị tơng đối của việc nắm giữ đồng nội tệ bằng cách tăng lãi
suất các tài sản chính của hệ thống ngân hàng. Thực tế,

23


NHNN đã phải sử dụng chính những công cụ này để hạn
chế các dòng dịch chuyển nguồn tiền tệ, cụ thể là :
- Tăng trần lãi suất tín dụng từ 1,1%/tháng lên 1,2%/tháng
đối với tín dụng ngắn hạn và tử 1,2% lên 1,25%/ tháng đối
với tín dụng trung và dài hạn.
Nâng lãi suất tái cấp vốn của NHNN cho các TCTD từ
0,9% /tháng lên 1,1%/tháng theo quyết định số 40/1998/QĐ
ngày 17/1/1998.
- Giảm lãi suất ngoại tệ theo quyết định 309/1998/QĐNHNN1 ngày 10/9/1998. Theo quyết định này, trần lãi suất
tiền gửi ngoại tẹ áp dụng đối với các loại hình không kỳ hạn,
kỳ hạn 6 tháng và trên 6 tháng giảm xuống các mức tơng ứng

là 0,5%/năm, 3%/năm và 3,5%/năm .
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều
hành chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần
và lãi suất tái cấp vốn đối với các TCTD. Trần lãi suất trong
năm 1999 đợc NHNN điều chỉnh liên tục phù hợp với chỉ số
lạm phát, quan hệ cung cầu vốn tín dụng tại từng thời điểm
và góp phần thực hiện giải pháp kích cầu đầu t của Chính
phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng, Có thể nói,
đâylà năm NHNN điều chỉnh lãi suất tín dụng nhiều nhất
từ trớc đến nay, lãi suất năm 1999 luôn có xu hớng giảm sau
các lần điều chỉnh, cụ thể nh sau:
Lạm phát âm xuất hiện và kéo dài liên tục trong nhiều
tháng của năm1999, 2000, do đó đã phải giảm liên tục trần
lãi suất tín dụng. Có đợt giảm lãi suất, NHNN còn qui định
buộc các NHTM giảm ngay cả lãi suất d nợ cho vay; trong khi
đó, vốn huy động thời kỳ trớc vẫn giữ nguyên cho đến lúc
đáo hạn. Tình hình này làm các NHTM rơi vào tình trạng
rủi ro lãi suất. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy
động vốn rất nhỏ, có khi không chênh lệch, thậm chí

lãi

suất cho thời kỳ hiện tại thấp hơn lãi suất huy động vốn của
24


thời kỳ trớc đó đang còn số d có. Trờng hợp khi NHNN qui
định không giảm lãi suất đối với các khoản cho vay trớc
đây, ngời vay lập tức đến vay ở một ngân hàng khác có lãi
suất thấp hơn để trả nợ cũ với lãi suất cao . Kết cục là rủi ro lãi

suát luôn đắt gánh nặng lên các NHTM. Thêm vào đó, do
mức độ điều chỉnh lãi suất từng lần của NHNN tơng đối
lớn và tần suất điều tiết của NHNN lớn nên thị trờng , d nợ
tín dụng không có động cơ tăng( mặc dù lãi suất đã giảm
mạnh) vì khách hàngvay hy vọng lãi suất sẽ tiếp tục giảm, và
chính các TCTD cũng tạm ngừng huy động vốn có kỳ hạn ( 6
tháng và 9 tháng)với lý do tơng tự làm tình trạng ứ đọng vốn
vẫn còn rất gay gắt.
Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục rơi vào tình trạng trì
trệ, đặc biệt là nền kinh tế thiếu các dự án khả thi, giảm
phát kéo dài, thì việc hạ lãi suất là hoàn toàn đúng đắn.
Vấn đề lại nằm ở chỗ các TCTD không chủ động giảm lãi suất
nh một biện pháp để cứu cánh cho chính họ ( trừ một vài
ngân hàng) mà lại coi đó chỉ đơn thuần là biện pháp hỗ trợ
nền kinh tế. Chính vì thế nên mặc dù trần lãi suất tín dụng
đã đợc điều chỉnh giảm liên tục vào năm 1999, nhng các
TCTD hầu nh không có phản ứng lãi suất đầu vào mặc dù ứ
đọng vốn đã phổ biến. Phải đến lần điều chỉnh thứ ba
của NHNN, các TCTD mới thực sự hạ lãi suất Điều này đẫ làm
xấu thêm tình trạng tài chính của các TCTD. Không dừng lại ở
đó, nguồn vốn huy động đã tăng mạnh nh là kết quả của
việc duy trì mức lãi suất tiền gửi trong khi lạm phát liên tục
âm, làm trầm trọng hơn tình trạng ứ đọng vốn của hệ
thống ngân hàng và chủ trơng kích cầu cũng bị hạn chế.
Nh vậy, cơ chê trần lãi suất tín dụng dờng nh không thích
hợp với môi trờng kinh tế vĩ mô thay đổi thờng xuyên nh ở
Việt nam. Nền kinh tê vĩ mô mặc dù đã có những cải thiện
đáng ghi nhận nhng vẫn cha thực sự đi vào ổn định. Giảm

25



×