Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

luan van thac si van hoc anh huong cua van hoa dan gian doi voi truyen ngan nguy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.28 KB, 126 trang )



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Đoàn Trọng Thiều, người đã

tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luậ
văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn
học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học, ban quản lí Thư viện –

trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tô
học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường Trung học phổ
thông Dĩ An – Bình Dương, tới gia đình và những người bạn thân thiết đã khuyến
khích, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khoá học cũng như
trong quá trình thực hiện luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010.
Học viên

Vương Thị Thanh Hiền


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa tồn tại song song với con người. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Là một bộ phận
không thể tách rời của văn hóa, văn học là một hình thái đặc biệt, thuộc về văn hóa
tinh thần. Vì vậy, việc vận dụng các quan điểm và thành tựu của văn hóa để nghiên
cứu, lí giải văn học là một hướng tiếp cận được vận dụng khá phổ biến hiện nay.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tác giả xuất sắc, tiêu biểu của cao trào đổi


mới văn học Việt Nam từ sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực như kịch, tiểu
thuyết, phê bình văn học, tiểu luận,... nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, trước hết
phải với tư cách là một cây bút viết truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi vừa xuất
hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một “hiện tượng” văn học, có khả
năng khuấy động đời sống văn học vốn đang khá yên ắng ở nước ta sau năm 1975.
Không những thế, văn của Nguyễn Huy Thiệp như có “ma lực” thu hút rất nhiều độc
giả với những ý kiến đánh giá, phê bình rất khác nhau, có ý kiến ca ngợi nức lời nhưng
cũng có không ít ý kiến bài bác thẳng thừng. Tuy nhiên, sau hơn hai mươi năm kể từ
ngày ra mắt độc giả, Nguyễn Huy Thiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên
văn đàn. Những ý kiến đánh giá về truyện ngắn của ông đã phần nào ổn định. Quả
thật, Nguyễn Huy Thiệp đang có một vị trí vinh dự trong dòng chảy cuồn cuộn không
ngừng của biển cả văn học Việt Nam.
Đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp. Trong quá trình thu thập và tìm hiểu một số tài liệu ấy, chúng tôi nhận thấy
đa phần các ý kiến tập trung đánh giá, khẳng định những đóng góp mới mẻ của ông
trên phương diện nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên
theo chúng tôi, một trong những đặc điểm tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ cho văn
Nguyễn Huy Thiệp chính là yếu tố văn hóa dân gian trong truyện ngắn của ông. Qua
tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy đặc điểm này cũng đã có những bài viết đề cập đến
song mới chỉ trong những hiện tượng đơn lẻ, chưa thành một hệ thống trọn vẹn.


Đó cũng là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa dân gian
đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Đầu năm 1987, tập truyện ngắn đầu tay Những truyện kể bất tận của thung lũng
Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng trên báo Văn nghệ, nhưng chưa tạo
được tiếng vang. Phải đến tháng 6 năm ấy, với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về
hưu, dư luận mới bắt đầu có những đánh giá luận bàn sôi nổi. Đặc biệt không lâu sau
đó, bộ ba truyện ngắn “lịch sử giả” (chữ dùng của Đặng Anh Đào): Kiếm sắc – Vàng

lửa – Phẩm tiết ra mắt độc giả đã thực sự tạo nên bầu không khí phê bình tranh luận
văn học với nhiều ý kiến đối lập gay gắt, cực đoan hơn cả so các cuộc tranh luận văn
học từ sau năm 1975. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên quả quyết: “Tôi dám chắc
chưa có nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây được dư luận, càng viết dư luận càng mạnh”
khiến cho “văn đàn đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc hẳn” [59, tr.6] như Nguyễn
Huy Thiệp. Trong những cuộc tranh luận văn học ấy, người khen nhiều mà người chê
cũng không ít. Nhìn chung các ý kiến tạo nên hai xu hướng chính: khẳng định và phủ
định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo. Các bài viết này được giới
thiệu trên các tạp chí nghiên cứu văn học khoảng những năm cuối thập niên 80 của thế
kỉ trước, hiện nay đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên sưu tầm khá đầy
đủ trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, và một số bài viết được đăng tải trên các
trang mạng Internet khoảng mười năm trở lại đây.
Xoay quanh vấn đề về Nguyễn Huy Thiệp và các sáng tác của ông, chủ yếu tập
trung ở mảng truyện ngắn, đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu phê bình của các tác
giả như: Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Lê Đình Kỵ,
Philimonova, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Đăng Điệp,…Mỗi bài viết là một cách
nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một cảm nhận riêng. Trong giới hạn nhất định,
người viết tập trung vào các ý kiến nổi bật trong bài viết có liên quan đến mục đích và
phạm vi nghiên cứu của đề tài đã chọn.
Trước hết, tiêu biểu cho những nhận xét cho rằng truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp có sự ảnh hưởng sâu sắc, đậm đà các yếu tố văn hóa dân gian, đặc biệt là từ cảm


hứng huyền thoại, truyền thuyết là ý kiến đánh giá của nhà nghiên cứu văn học
Philimonova. Nhà nghiên cứu người Nga này rất hứng thú khi nghiên cứu chất dân
gian trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong bài viết “Những ngọn gió Hua Tát”
của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu của các truyền thuyết văn học, Philimonova đã
có những nhận xét mang ý nghĩa khái quát: “Yếu tố dân gian chiếm một vị trí to lớn
trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp […]. Ngay lần đọc đầu tiên các tác phẩm của
anh, đó thường là truyện ngắn, có một điểm khiến chúng ta chú ý ngay là việc anh rất

hay sử dụng các tư liệu dân gian. Hầu như trong mỗi truyện ngắn của anh đều hiện
diện vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ” [59, tr.59]. Do đó có
thể nói rằng: “Yếu tố dân gian trong các tác phẩm của anh là một đề tài độc lập rộng
lớn” [59, tr.59-60]. Tuy nhiên trong bài viết này, Philimonova chỉ mới tập trung nghiên
cứu sự ảnh hưởng của truyền thuyết trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát. Tác
giả cho rằng những câu chuyện nhỏ trong Những ngọn gió Hua Tát là những “truyền
thuyết văn học; một mặt, chúng lưu giữ được những đặc điểm thể loại của các truyền
thuyết dân gian, mặt khác, chúng có sự xử lí văn học rõ ràng của tác giả” [59, tr.61].
Trong bài viết Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình Nguyễn
Đăng Điệp nhận xét: Nguyễn Huy Thiệp đã “vận dụng rất khéo các yếu tố folklore vào
văn học”. Tác giả bài viết nhận thấy rằng để phản ánh chiều sâu của hiện thực, Nguyễn
Huy Thiệp “luôn luôn lật ngược vấn đề, thoát ra ngoài những chuẩn mực thông thường
và xác định giá trị nhân thế bằng những tưởng tượng phong phú ken dày các huyền
thoại, các biểu tượng, các yếu tố dân gian” [20].
Cùng với các ý kiến trên, Văn Tâm cũng đưa ra nhận định rằng một trong những
nét phong cách đặc thù nhất của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng huyền
thoại mạnh: “sương mù huyền thoại bao phủ hầu hết những trang sách Nguyễn Huy
Thiệp, không những bao phủ dày đặc trong hai loại truyện huyền thoại (Con gái thủy
thần) và cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát) mà còn bập bềnh mờ mịt giữa khá nhiều
dòng truyện lịch sử (Kiếm sắc, Phẩm tiết) và thế sự (Chảy đi sông ơi)” [59, tr.288].
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào cũng khẳng định cảm hứng huyền thoại thể hiện
rõ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là khi nhà văn này xây dựng các


nhân vật ngốc nghếch, mồ côi,…rất gần với nhân vật trong cổ tích và “đó là điểm gần
gụi của truyện Nguyễn Huy Thiệp với cổ tích và một số truyện phổ cập ở dân gian”
[59, tr.389]. Cảm hứng ấy một phần “nằm trong dòng chảy ngầm của tinh thần phạm
thượng bắt nguồn từ dân gian. Những kẻ dị dạng này nhiều khi làm nên điểm sáng
nhân hậu, trí tuệ anh minh của câu chuyện” [59, tr.391]. Song bên cạnh đó, tác giả bài
viết Biển không có thủy thần lại thừa nhận ở các nhân vật kể trên luôn ẩn chứa một

“nghịch lí phản cổ tích” [59, tr.390], đó là điểm sáng tạo mới mẻ trong nhiều thiên
truyện của Nguyễn Huy Thiệp.
Cùng với quan điểm của Đặng Anh Đào, trong bài viết Ảnh hưởng thần thoại và
cổ tích trong cách xây dựng nhân vật văn xuôi hôm nay, Bùi Thanh Truyền nêu vấn đề:
“Xây dựng nhân vật thần thoại, cổ tích, hầu hết các cây bút văn xuôi hôm nay đều lồng
vào đó thế giới quan mới mẻ, cái nhìn ‘lạ hóa” của người hiện đai. Vì thế có thể xem
đây là những truyện cổ tích, thần thoại đời mới” [104, tr.45]. Để làm rõ nhận định, tác
giả bài viết đã đi sâu tìm hiểu nhân vật Trương Chi trong truyện ngắn cùng tên của
Nguyễn Huy Thiệp. Từ đó, Bùi Thanh Truyền khẳng định: lấy cảm hứng từ nhân vật
trong cổ tích dân gian nhưng Nguyễn Huy Thiệp không có cái nhìn nhất phiến về giai
thoại cổ. Cho nên “nếu bi kịch của Trương Chi “bốn ngàn năm trước” là bi kịch tình
yêu xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa tài năng thiên phú và nhân diện xấu xí thì bi kịch
của chàng Trương bốn ngàn năm sau chủ yếu là xung đột giữa hoàn cảnh xã hội và
thân phận con sâu cái kiến của kiếp người” [104, tr.46].
Bài viết Đối thoại với văn học dân gian và bản lĩnh của người viết của Lê Đình
Kỵ cũng đi sâu vào nghiên cứu sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa tiếp nối truyện cổ dân
gian trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là về phương diện xây dựng nhân vật.
Trong truyện Trương Chi, Lê Đình Kỵ đánh giá Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp
“không còn là một
Trương Chi cam chịu, âm thầm nhận lấy số phận của mình” [44, tr.30]. Mặc dầu vậy:
“Dù là Trương Chi truyền thống hay Trương Chi “hiện đại” thì đó cũng đều là lời nhắn
gởi, là tiếng kêu khắc khoải sao cho nghệ thuật, cho tiếng hát và tình yêu không bị
cách lìa, mà được hòa giải, hòa diệu vào nhau” [44, tr.31].


Bàn về thế giới nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, nhiều nhà
nghiên cứu nhận thấy những nhân vật này thường toát lên vẻ đẹp trong trẻo, hồn hậu,
mang vẻ đẹp mẫu tính vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Nhà phê bình Hoàng Ngọc
Hiến tỏ ra là người có những phát hiện trước nhất và mới mẻ hơn cả. Trong bài viết
Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió, Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “Những người

đàn ông trong tập truyện của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết là đốn mạt, chí ít là những kẻ
bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì. Ngược lại, trong các nhân vật nữ có
những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ. Nó là sự hiện thân của nguyên
tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả, có thể gọi đó là nguyên tắc tính nữ
hay thiên tính nữ” [59, tr.15-16]. Theo nhà nghiên cứu này thì “thiên tính nữ” trong tác
phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất cả
những nhân vật này đều đẹp, mỗi người một vẻ” [59, tr.16], không chỉ thế nó còn là
“tinh thần vị tha và đức tính hi sinh” [59, tr.17]. Vẻ đẹp ấy tỏa ra ánh sáng dịu dàng,
huyền diệu, lung linh trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Thiên tính nữ là điểm
tựa quan trọng của tác giả. Thiếu nó, văn ông sẽ mất đi chiều sâu và chất trữ tình.
Cũng cùng với quan điểm trên là ý kiến đánh giá sắc sảo của nhà nghiên cứu
Văn Tâm: Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều về cái xấu xa, cái ác nhưng “cảm hứng tích
cực, tinh thần nhân bản… cũng bất giác được mã hóa qua một hiện tượng nổi bật:
tuyệt đại đa số những nhân vật nữ đều có phẩm chất ưu mĩ tuyệt vời” [59, tr.301–302).
Qủa thực, trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn luôn dành giọng điệu ngợi ca
vẻ đẹp nữ tính của những nhân vật nữ.
Những nhận xét, đánh giá trên phần nào đã cho ta thấy các nhà nghiên cứu có
những phát hiện, khẳng định yếu tố trọng âm, trọng nữ trong tín ngưỡng của người
Việt trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Tuy nhiên, các đánh giá này chỉ nêu vấn đề có tính chất gợi mở chứ chưa minh định cụ
thể trên cả bề rộng lẫn bề sâu.
Bàn về chất thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trong bài viết có nhan đề Thơ
trong văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Philimonova cho rằng một trong những
đặc điểm nổi bật của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là việc thường xuyên sử dụng thơ.


Đặc biệt hơn hết là trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường xuất hiện các
đoạn kể bằng văn vần là các bài ca dao, đồng dao xen kẽ lời kể bằng văn xuôi.
Philimonova lí giải sở dĩ có hiện tượng này là do Nguyễn Huy Thiệp “chịu ảnh hưởng
văn xuôi cổ điển vùng Viễn Đông” và việc vận dụng thủ pháp cũ này khiến văn ông

trở nên “rất đặc biệt, rất dễ nhận ra” [59, tr.168]. Nguyễn Vy Khanh cũng có cùng ý
kiến trên khi cho rằng: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có những đoạn
truyện như là thơ, một thứ thơ dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá” [59, tr.
380].
Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nguyễn Huy Thiệp đã đưa vào truyện ngắn các hình
thức khác như đồng dao (Huyền thoại phố phường), hát dỗ em (Những người thợ xẻ),
thơ dịch (Nguyễn Thị Lộ), thơ trữ tình (Những bài học nông thôn), chuyện thơ
(Thương nhớ đồng quê)”. Từ đó, nhà nghiên cứu cho rằng: “việc đưa thơ vào truyện
ngắn làm cho “sự kể chuyện” thêm linh hoạt, phong phú” [75, tr.386] này vốn đã có
truyền thống trong văn học. Thành công của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là sự vận
dụng, kế thừa văn học truyền thống, từ đó có những cách tân, sáng tạo nhưng vẫn
không xa rời với truyền thống.
Về nét mới trong cách dựng truyện, nhà thơ Diệp Minh Tuyền đánh giá: Nguyễn
Huy Thiệp đã “kết hợp giữa hiện thực và huyền thoại” […]. Rõ ràng ở đây ta thấy dấu
ấn của văn học hiện đại châu Mỹ la – tinh. Nhưng sự tiếp thu này ở Nguyễn Huy
Thiệp không sống sượng bởi nhờ trước đó anh đã vốn có lối tư duy huyền thoại thuần
thục biểu hiện trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát”, [59, tr.399]. Chính sự kết
hợp này đã khiến cho văn ông vừa mới mẻ, hiện đại lại vừa gần gũi bởi chúng được
bắt nguồn từ bề sâu truyền thống thẩm mĩ của người đọc Việt Nam.
Về cách kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Đoàn Hương ví von ông là “Người
kể chuyện cổ tích hiện đại”. Đoàn Hương nhận định truyện của Nguyễn Huy Thiệp
hấp dẫn độc giả chính là ở “cái cách kể chuyện đơn giản bằng chính ngôn ngữ của
nhân dân là một thi pháp đã có từ trong truyền thống như đã từng có trong truyện cổ
tích Việt Nam” [33, tr.621].


Cũng theo nhà nghiên cứu Đoàn Hương, dấu ấn của truyện cổ dân gian trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp còn biểu hiện rõ qua cách thức mở đầu và kết thúc
truyện. Đoàn Hương nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “vốn ưa cấu trúc một
cốt truyện đơn giản như chẳng có gì”. Bởi thế mà truyện của ông có những “cái kết

thúc đẹp đẽ mang tính biểu tượng của một kết thúc có hậu của truyện cổ tích” [33,
tr.622].
Còn theo Nguyễn Vy Khanh thì chính bởi một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp
sáng tạo từ thể huyền thoại dân gian nên nhà văn hay “úp mở, gợi tưởng tượng. Hay
không thật sự kết thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu
và thân truyện” [59, tr.386]. Từ đó, tác giả đi đến nhận xét truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp thường có những đoạn kết rất đặc biệt, tạo được sự hấp dẫn riêng.
Bằng nhãn quan tinh tế và tấm lòng trân trọng, thấu hiểu tài năng của Nguyễn
Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến đã có nhận xét rất sâu sắc: “Dẫu kể chuyện cổ tích,
Nguyễn Huy Thiệp trước sau viết về cuộc sống ngày hôm nay. Và tác giả đã nhìn
thẳng vào sự thật của đời sống thực tại. Tác giả đã không ngần ngại nêu lên những sự
bê tha, nhếch nhác trong cuộc sống, kể cả những sự thật rùng rợn, khủng khiếp” [59,
tr.9-10].
Đoàn Hương cũng cho rằng một số truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có thể gọi
truyện cổ tích hiện đại vì cái chất “hiện đại” của nó. Nhưng, nhà nghiên cứu này khẳng
định: “nó vẫn là cổ tích vì cái đẹp nhân bản của nó” [33, tr.626].
Nhà nghiên cứu văn học người Úc, Greg Lockhart, lí giải lí do vì sao ông đã
chọn dịch tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh. Ông ca ngợi: tác phẩm
của Nguyễn Huy Thiệp là “một đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam” và cũng
là “đóng góp cho văn học thế giới hiện đại” vì tính chất nhân bản mà nhà văn nêu lên
trong truyện là vấn đề lớn mang tầm nhân loại [59, tr.110-111].
Mở rộng hơn, một số nhà nghiên cứu còn nhận thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu
hiện đại trong những tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả La Khắc Hòa
khẳng định rằng có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những câu
chuyện thể hiện tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của


Nguyễn Huy Thiệp là “câu chuyện về một thế giới vô nghĩa, vô hồn”. Đọc truyện ngắn
của ông, ta thấy “có những dấu hiệu về một cuộc chia tay với nguyên tắc dụ ngôn cùng
với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó […]. Khi sự hồ nghi tồn tại đã thấm sâu

vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến nguyên tắc lạ hoá làm nền
tảng cấu trúc hình tượng”. Tuy nhiên, dù đổi mới sáng tạo đến đâu đi nữa thì “loại
hình tư duy ấy gắn với những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản của
đồng dao, câu đố có nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian” [29].
Thêm vào đó, La Khắc Hòa còn nhận xét rất xác đáng rằng sự xuất hiện của chủ nghĩa
hậu hiện đại trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
nói riêng “chắc chắn không phải là hiện tượng vay mượn, ngoại nhập”, mà do những
điều kiện lịch sử, xã hội trong vòng 30 năm nay đã làm nảy sinh tâm trạng, cảm quan
và loại hình văn hoá hậu hiện đại trong văn học Việt Nam.
Như vậy, theo các nhà nghiên cứu, mặc dù là nhà văn luôn có những cách tân
táo bạo trong nghệ thuật xây dựng truyện ngắn trong giai đoạn văn học thời Đổi mới,
nhưng sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp vẫn bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn
học dân gian đa dạng và phong phú của dân tộc.
Tóm lại, từ trước đến nay, vấn đề về: Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và yếu tố
văn hóa dân gian trong truyện ngắn của nhà văn vẫn luôn là vấn đề lý thú, không
ngừng thu hút được sự quan tâm, tìm hiểu của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu,
các giới phê bình văn học, độc giả trong và ngoài nước. Các bài nghiên cứu, phê bình
mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu ở trên phần nào đã phân tích, đánh giá, khẳng định
sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
và có tính chất gợi mở cho người viết tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Tuy nhiên, do
tính chất về đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự quan tâm ở
những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở đôi lời nhận xét, nhận định khái quát; hoặc thu
hẹp khi khảo sát trong một vài tác phẩm cụ thể hoặc khái quát khi tiến hành khảo sát
trên toàn bộ sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn phong cách học. Vì thế như một lẽ tất
yếu, các bài viết chưa có điều kiện tập trung một cách sâu sắc và toàn diện về sự ảnh
hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua luận văn


này, người viết sẽ cố gắng đưa đến một cách hiểu, một cách nhìn nhận, đánh giá mang
tính hệ thống và đầy đủ hơn về sự ảnh hưởng này trong truyện ngắn của nhà văn

Nguyễn Huy Thiệp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, bao gồm 42 truyện. Người viết sử dụng văn bản sau
để tiến hành nghiên cứu:
Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và
hiệu đính, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
Về ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có
nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên trong phạm vi điều kiện cho phép, luận văn
chỉ đi vào khảo sát, phân tích, nhận định một số yếu tố của văn hóa dân gian như văn
học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn ngữ dân gian ảnh hưởng đến việc xây dựng
cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Người viết rất hi vọng kết quả mà luận văn gặt hái được có thể là những đóng
góp hữu ích như sau:
- Góp phần khảo sát và lí giải một cách có hệ thống, khách quan, mới mẻ về sự
ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Qua
đó góp phần khẳng định cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa dân gian là
một trong những hướng nghiên cứu cần thiết trong nghiên cứu văn học hiện
nay.
- Luận văn này cũng có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về tác giả Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, và văn học Việt Nam hiện
đại nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Ảnh hưởng của văn hóa dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
5.1. Phương pháp văn hóa học:


Người viết sử dụng phương pháp này khi nghiên cứu luận văn nhằm vận dụng

các quan điểm và thành tựu văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa dân gian để tìm
hiểu, lí giải truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên một số phương diện như cốt truyện,
nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
5.2. Phương pháp hệ thống:
Người viết sử dụng phương pháp này nhằm xem xét các yếu tố văn hóa dân gian
biểu hiện qua nội dung và nghệ thuật làm nên diện mạo chung cho truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp trên tinh thần hệ thống. Từ đó phân tích sự kế thừa, sáng tạo các
yếu tố ấy tạo nên sức hấp dẫn thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp:
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tiếp cận và khảo sát trực tiếp văn
bản, từ đó phân tích để đưa ra những luận điểm tổng hợp, khái quát của luận văn về sự
ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp trên các
phương diện như cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
Những phương pháp nghiên cứu này sẽ được người viết vận dụng một cách linh
hoạt trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện, khách quan khi
đánh giá vấn đề, người viết còn sử dụng phối hợp các phương pháp khác như: phương
pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê,…với chừng mực nhất định mà mục
đích cuối cùng là làm rõ sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 138 trang. Ngoài phần Mở đầu (12 trang), phần Kết luận (4
trang), phần Nội dung của luận văn (122 trang) được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lí luận và thực tiễn
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.


Chương 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ LÍ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
làm tiền đề lí luận cho việc nghiên cứu đề tài của luận văn, chúng ta cần tìm hiểu hai
khái niệm văn hóa và văn hóa dân gian . 1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những quan hệ tốt đẹp
nhất giữa người với người, với xã hội và với tự nhiên. Văn hóa là cái phân biệt con
người với động vật, là đặc trưng của xã hội loài người nhưng không phải do sự kế thừa
về mặt sinh học mà có được nhờ học tập, tích lũy. Nói một cách dễ hiểu nhất: văn hóa
là tất cả những gì do con người sáng tạo ra (khu biệt với cái tự nhiên) trong quá trình
ứng xử với tự nhiên và xã hội.
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ rất sớm. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam,
theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng: ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời
sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa: Xem dáng vẻ
con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ).
Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 TCN) với nghĩa
như một phương thức giáo hóa con người “văn trị giáo hóa” [107, tr.17-18]. 6
Ở phương Tây, vào thế kỉ thứ III – TCN, người La Mã được ghi nhận là người
đầu tiên nói đến thuật ngữ văn hóa. Họ dùng từ “cultura” đồng nghĩa với “văn
chương” hay “nhân văn”. Người La Mã sử dụng từ cultura và cultus để chỉ việc gieo
trồng, animi cultura hoặc cultus nghĩa là gieo trồng tinh thần. Trên cơ sở đó, nhà hùng
biện lỗi lạc người La Mã, Siserô Markơt Tuliut (106-43 TCN) đã định nghĩa “Triết học


là sự gieo trồng tinh thần”. Vậy theo người La Mã, cultus là văn hóa với hai khía cạnh:
trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục, đào tạo một cá thể
hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, có phẩm chất tốt đẹp.
Ở Việt Nam, từ văn hóa được hiểu: văn là tốt đẹp, hóa là biến cải. Văn hóa là
biến cải để trở thành tốt đẹp. Văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ
học thức, lối sống; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn;
còn theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại

cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán,…
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã hội
loài người nhưng phải đến những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu
về văn hóa mới được tiến hành một cách nghiêm túc và nhanh chóng thu hút sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu. Từ năm 1952, hai nhà văn hóa học Hoa Kì là A. Kroeber
và C. Kluckholn đã thống kê được 150 định nghĩa, khái niệm khác nhau về văn hóa.
Con số đó hiện nay đã tăng lên khoảng trên 300 định nghĩa [105, tr.11]. Qua đó, ta
thấy quan niệm thế nào là văn hóa không phải là một vấn đề đơn giản và có thể giải
quyết một cách rốt ráo.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm văn hóa, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau về văn hóa. Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ
có điều kiện nêu ra một số định nghĩa sau:
- Nhà nhân học văn hóa người Anh E. B. Taylor (1832-1917) là người đầu tiên đưa ra
một quan niệm khá hoàn chỉnh về văn hóa. Trong công trình Primitive culture (Văn
hóa nguyên thủy), ông viết: văn hóa là “một tổng thể phức hợp bao gồm kiến thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng và thói quen
mà con người đạt được với tư cách là một thành viên trong xã hội” [9, tr.251].
- Trần Quốc Vượng quan niệm: “Văn hóa…là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
[…] để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con
người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó,
với hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm…
tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người” [107, tr.35-36]


- Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [85, tr. 25].
- Cũng cùng với ý kiến trên của Trần Ngọc Thêm, nhưng Phùng Qúi Nhâm chú ý nhấn
mạnh thêm tính dân tộc của văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và mang đậm bản sắc dân

tộc” [65, tr. 249].
Trong quá trình tìm hiểu các khái niệm về văn hóa, chúng tôi nhận thấy quan
niệm chính thức về văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) đưa ra từ năm 1982, trong
Hội nghị quốc tế do Unesco chủ trì diễn ra tại Mexico, là khá bao quát: “Văn hóa hôm
nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem
lại cho con người khả năng suy xét bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một
cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự
biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của
bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công
trình vượt trội lên bản thân” [107, tr.23-24). Từ quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu
văn hóa không phải là lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa chính là nền tảng cho sự phát triển của xã
hội loài người.
Văn hóa là hiện tượng bao trùm mọi phương diện của đời sống con người, vì
thế bất kì khái niệm nào cũng không thể bao quát đầy đủ nội dung của nó. Cũng bởi
vậy mà số lượng các khái niệm về văn hóa mỗi ngày một nhiều song vẫn chưa phải là
đáp án cuối cùng. Mỗi khái niệm chỉ có thể thâu tóm một vài phương diện nào đó của
văn hóa. Sự phong phú của các khái niệm về văn hóa phản ánh những hướng quan tâm


khác nhau. Vì vậy, theo nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên, từ nhiều khái niệm khác nhau
có thể nêu lên bốn nét nghĩa chủ yếu, cơ bản sau:
“* Văn hóa là một hoạt động sáng tạo chỉ riêng con người mới có.
* Hoạt động sáng tạo đó bao trùm lên mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống con người:
đời sống vật chất, đời sống xã hội, đời sống tinh thần.
* Thành tựu của những hoạt động sáng tạo ấy là các giá trị văn hóa; các giá trị văn hóa

được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đường giáo dục.
* Văn hóa mỗi cộng đồng người có những đặc tính riêng hình thành trong lịch sử, phân
biệt cộng đồng người này với cộng đồng người khác” [9, tr.252].
Trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi
những giá trị văn hóa tinh thần, biểu hiện cụ thể trong bộ phận văn hóa dân gian với
những thành tố đặc trưng.
1.1.2. Khái niệm văn hóa dân gian
Văn hóa dân gian là cội nguồn của mọi nền văn hóa trên thế giới. Ở Việt Nam,
văn hóa dân gian là cơ sở rất quan trọng của văn hóa dân tộc, chi phối đời sống trên
mọi phương diện. Do vậy không thể hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, tri thức và tình
cảm con người Việt Nam nếu như không hiểu văn hóa dân gian.
Thuật ngữ dân gian hiểu theo nghĩa chiết tự Hán Việt: gian nghĩa là khoảng, khu
vực rộng lớn, vùng; dân gian là trong khu vực, trong vùng của dân. Vậy, văn hóa dân
gian là sáng tạo của dân, từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống của dân. Văn hóa dân
gian được thể hiện ở mọi lĩnh vực, mọi không gian, mọi thời điểm.
Để chỉ hiện tượng mà tiếng Việt gọi là văn hóa dân gian thì hiện nay trên thế
giới và cả Việt Nam, thuật ngữ folklore (gốc tiếng Anh : folk là nhân dân, lore là trí
tuệ, tri thức) được sử dụng rất phổ biến. Thuật ngữ này do William J.Thoms nêu ra
trong tạp chí The Athemneum, London năm 1846. Dần dần được các nhà văn hóa chấp
nhận và sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Ở nhiều nước phương Tây, khái niệm folklore được hiểu rất rộng. Từ điển bách
khoa của Anh xác định: “Folklore là tên gọi chung, thống nhất của những tín ngưỡng,
truyền thống, thiên kiến, đạo lí, nghi lễ, mê tín của dân gian. Những câu truyện cổ,


những bản tình ca, dân ca và những câu tục ngữ đều nằm trong khái niệm này…, nó
bao gồm cả những yếu tố văn hóa vật chất mà ban đầu nó không tính đến” [88, tr.20].
Ở Liên Xô, nội dung của folklore được hiểu theo hai xu hướng. Xu hướng thứ
nhất hiểu folklore với nội dung rộng theo cách hiểu của đa số học giả phương Tây, xu
hướng còn lại có xu hướng “ngữ văn hóa folklore” khi cho rằng về cơ bản folklore là

“nghệ thuật ngôn từ”, là sáng tác thơ ca truyền miệng của đông đảo quần chúng. Theo
họ, có thể đồng nhất folklore với văn học truyền miệng. Tiêu biểu là những ý kiến của
các nhà folklore sau:
- Xocolov Iu.M.: “Folklore trước hết là sáng tác nghệ thuật thi ca truyền miệng của
quần chúng”, hay “Folklore – phần lớn là thơ ca truyền miệng” [88, tr.85]
- Andreev N.P. : “Dưới tên gọi folklore, chúng ta có thể gọi phần lớn các tác phẩm nghệ
thuật ngôn ngữ đã được phổ biến bằng truyền miệng” [88, tr.85].
- Kravtxov N.I. : “Khoa học Xô Viết hiểu thuật ngữ “folklore” không phải là biểu thị
toàn bộ nền nghệ thuật dân gian mà chỉ là văn học dân gian truyền miệng” [88, tr.93]
Trong những thập niên gần đây ngày càng có nhiều người vượt qua được quan
niệm bó hẹp folklore trong nghệ thuật ngôn từ. Họ thấy rằng folklore bao gồm những
yếu tố ngôn từ, diễn xướng, tạo hình, tín ngưỡng, phong tục,…và các yếu tố ấy gắn kết
với nhau trong một chỉnh thể nguyên hợp. Tổng bách khoa toàn thư Xô Viết xuất bản
năm 1974 quan niệm rằng: “Folklore là sáng tác dân gian, hoạt động nghệ thuật của
nhân dân lao động. Đó là thơ ca, âm nhạc, sân khấu, múa dân tộc, kiến trúc, nghệ thuật
trang trí thực hành, hội họa được nhân dân sáng tạo ra và sống trong nhân dân.” [88,
tr.95].
Ở Việt Nam, thuật ngữ folklore được dùng tương đối muộn và thường được hiểu
với những nội dung rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống
nhất về nội dung khái niệm văn hóa dân gian. Nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã nêu
nhận xét khái quát: “Trong ba quan niệm chính thống về folklore hiện lưu hành trong
folklore học thế giới thì định nghĩa folklore là văn học dân gian, từ lâu đã đi vào sách
giáo khoa ở Liên Xô và nhiều nước khác, trong khi đó ở một số nước khác (có cả các
nước xã hội chủ nghĩa) người ta vẫn thừa nhận một cách phổ biến folklore là văn nghệ


dân gian. Còn một số nước khác nữa, thuật ngữ folklore được gắn với một ý nghĩa rất
rộng – folklore là văn hóa dân gian bao gồm không chỉ riêng nghệ thuật dân gian mà
cả truyền thống dân gian” [88, tr.113-114]. Cả ba cách hiểu ấy đều tồn tại ở folklore
Việt Nam.

Đinh Gia Khánh, chuyên gia hàng đầu của folklore Việt Nam thì nêu quan niệm:
văn hóa dân gian “bao gồm văn nghệ dân gian (ngữ văn, âm nhạc, vũ đạo, hội họa,
điêu khắc, nghệ thuật trang trí,.v…v) và những hiện tượng cũng như vật phẩm mang
tính chất thẩm mĩ nảy sinh từ sản xuất và chiến đấu”. Quan niệm trên đã được tóm gọn
trong công thức : “folklore là folk culture được tiếp cận từ giác độ thẩm mĩ” [9,
tr.220].
Tiếp đó, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh đề xuất cách tiếp cận văn hóa dân gian như
sau:
văn hóa dân gian “là một loại “văn hóa nghệ thuật” biểu hiện chủ yếu thông qua các
các hình tượng và các biểu tượng, thể hiện trình độ thẩm mĩ của con người ở mỗi thời
kì lịch sử nhất định. Do vậy, góc độ tiếp cận loại hình văn hóa này là góc độ tiếp cận
thẩm mĩ” [88, tr.35].
Như vậy, các ý kiến này mặc dù có nới rộng hơn về đối tượng khi cho rằng văn
hóa dân gian bao gồm cả “hiện tượng”, “vật phẩm” nhưng vẫn bó hẹp ở cách tiếp cận
dưới góc độ thẩm mĩ.
Mở rộng cách hiểu về văn hóa dân gian hơn, Phạm Huy Thông cho rằng:
“không phải chỉ làn ca, những điệu múa, mà cả những lễ nghi tôn giáo, những hội hè
truyền thống cũng là những biểu hiện của văn hóa dân gian” [88, tr.119]. Đồng tình
với quan niệm trên, Trần Quốc Vượng phát biểu: folklore Việt Nam là “tổng thể mọi
sáng tạo, mọi thành tựu văn hóa dân gian ở mọi nơi, trong mọi thời và mọi thành phần
dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam”. Ông cũng có xu hướng mở rộng thành
tố của văn hóa dân gian khi cho rằng: “Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh vực đời
sống từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến đời sống vui chơi buông
xả (thể thao dân gian, võ vật, đánh cầu, đánh phết), hát hò (hát đò đưa, hát giã gạo,
đúm, ví, xoan, ghẹo) đến đời sống tâm linh (giỗ, lễ tế, hội)” [88, tr.124].


Còn Chu Xuân Diên thì cho rằng để có thể đánh giá đầy đủ giá trị, đặc trưng của
văn hóa dân gian, chúng ta cần xác định, phân loại những thành tố cơ bản nhất của nó.
Cụ thể, folklore bao gồm những thành tố là những sáng tạo nghệ thuật có ý thức (các

tác phẩm văn học dân gian), âm nhạc và múa dân gian, hội họa dân gian,.v.v…cả
những thành tố là những sản phẩm vừa mang tính ích dụng vừa mang tính thẩm mĩ
(kiếm trúc, đồ thủ công mĩ nghệ,…), và cả những thành tố là những giá trị văn hóa
không bao hàm ý nghĩa thẩm mĩ hiểu theo nghĩa đích thực của nó (văn hóa ẩm thực,
những tri thức về môi trường tự nhiên,…) [9, tr.231].
Như vậy, văn hóa dân gian theo phần đông các nhà nghiên cứu hiện nay bao
gồm rất nhiều thành tố đặc trưng, biểu hiện trong nhiều lĩnh vực và là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên ngành, trong đó đặc biệt là ngành thi pháp
folklore. Chúng tôi tán thành cách hiểu mở rộng của các nhà nghiên cứu này. Trong
các thành tố cơ bản của văn hóa dân gian đã nêu ở trên, chúng tôi chỉ tập trung tìm
hiểu: ảnh hưởng của các thành tố như văn học dân gian, tín ngưỡng dân gian, ngôn
ngữ dân gian đối với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cách thức trình bày của luận
văn là sẽ vận dụng một số tri thức lí luận của các thành tố văn hóa dân gian này vào
phân tích, nhận định, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với văn học viết
Trước khi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết,
chúng tôi xin trình bày vài nét cơ bản về mối quan hệ có tính chất khái quát hơn, đó là
mối quan hệ giữa văn hóa và văn học nói chung. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học không phải là một vấn đề mới, nhưng trong khoa học nói chung và khoa học
văn học nói riêng, thiết nghĩ làm mới một vấn đề cũ cũng là một đóng góp mang tính lí
luận và thực tiễn.
Ở nước ta, trong quá trình vận động và phát triển, văn học luôn được đặt trong
mối quan hệ mật thiết với các hình thái xã hội khác. Văn học lúc thì được so sánh với
đạo đức, khi thì được đối chiếu với triết học, tôn giáo, chính trị,…Gần đây, các nhà
nghiên cứu đã tập trung chú ý đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn học. Mối quan hệ


này ngày càng được quan tâm hơn và văn học thường được nghiên cứu dưới góc độ
văn hóa.
Trước đây, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học được coi là quan hệ tương hỗ,

là mối quan hệ của hai hình thái ý thức xã hội cùng thuộc thượng tầng kiến trúc, cùng
phản ánh một cơ sở hạ tầng. Vì vậy, nghiên cứu văn hóa, người ta có thể lấy tư liệu từ
văn học và ngược lại. Quan hệ này tuy nhiên chỉ là quan hệ bề ngoài, không bộc lộ bản
chất của nhau. Trong những thập niên gần đây, Unesco đã phát động những thập kỉ
phát triển văn hóa. Và cùng với sự thay đổi nhận thức của nhân loại khi cho rằng văn
hóa là động lực của phát triển, quan hệ văn hóa và văn học đã được nhìn nhận ở góc
độ khác hơn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu thiên về xu hướng nhìn nhận văn hóa là
nhân tố chi phối văn học bởi lẽ văn hóa là một tổng thể, bao gồm nhiều hệ thống, trong
đó có văn học. Văn hóa chi phối văn học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn
thể chi phối bộ phận. Như chúng ta đã biết, văn hóa là sản phẩm vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo ra. Những yếu tố nào gắn với giá trị văn hóa đều liên quan đến
con người. Sự sáng tạo của nhà văn chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố trong đó có văn
hóa. Cho nên có thể nói văn hóa chi phối quá trình sáng tạo của nhà văn là một đặc
điểm có tính quy luật.
Một trong những người khởi xướng cho xu hướng tiếp cận văn học từ góc độ
văn hóa là giáo sư văn học người Nga, Mikhail M Bakhtin. M. Bakhtin cho rằng khoa
nghiên cứu văn học phải đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của “lịch sử văn hóa”, đặc
biệt là nghiên cứu thời đại văn hóa mà tác phẩm ra đời, vì văn học là một bộ phận
không thể tách rời văn hóa: “Khoa nghiên cứu văn học phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử
văn hóa. Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó
ngoài cái mạch (kontest) nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại trong đó nó tồn
tại” [2, tr.139]. Không chỉ thế, “Tác phẩm văn học không thể sống trong những thế kỉ
tiếp, nếu nó không biết bằng cách nào đó thu hút vào mình những gì của các thế kỉ đã
qua. Nếu nó chỉ nảy sinh bằng tất cả những yếu tố của ngày nay (tức của xã hội đương
thời với nó) mà không tiếp tục quá khứ và không gắn bó với quá khứ một cách đáng
kể, nó không thể tiếp tục sống trong tương lai” [2, tr.141]. “Quá khứ” trong cách nói


của Bakhtin có thể hiểu một phần là nền văn hóa dân gian. Quả thực, từ lâu các nhà
văn đã tự giác hoặc không tự giác, trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp thu, ảnh hưởng, lí giải

vấn đề này hoặc vấn đề khác của văn hóa dân gian, đặc biệt là văn học dân gian.
Thật vậy, từ bao đời nay văn hóa dân gian đã ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực
của cuộc sống, đặc biệt là đối với văn học. Hòa mình với quy luật bất biến ấy của nhân
loại, trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam, quan hệ tác động, ảnh hưởng
qua lại giữa văn hóa dân gian và văn học viết diễn ra hết sức độc đáo. Đó là mối quan
hệ sáng tạo, có tính quy luật và cũng là cơ sở lí luận cốt yếu cho sự cắt nghĩa một số
quá trình, hiện tượng văn học cụ thể.
Văn học Việt Nam luôn tồn tại một bộ phận văn học chịu ảnh hưởng đậm nét từ
nền văn hóa dân gian. Và như một sự ngẫu nhiên song lại rất hợp lí, trong tiến trình
lịch sử văn học dân tộc, nhà văn, nhà thơ nào chịu ảnh hưởng, tiếp thu, vận dụng chất
liệu dân gian một cách nhuần nhuyễn đều gặt hái được những thành công nhất định.
Những tác phẩm của họ thường có tiếng vang và được lưu truyền theo thời gian. Có
thể kể ra đây một số tác giả tiêu biểu mà những tác phẩm của họ đã được thời gian
thẩm định. Nguyễn Trãi là người mở đầu cho những sáng văn học bằng chữ Nôm. Là
người có bút lực tinh tế, nhà thơ Nguyễn Trãi như con ong cần mẫn bay đi khắp bốn
phương để hút những nhụy hoa về làm mật. Những giọt mật vàng óng, ngọt lịm ấy
được tạo ra từ những bông hoa cội nguồn văn hóa dân gian dân tộc Việt vốn rất giàu
truyền thống thi ca, nghệ thuật. Trong Quốc âm thi tập, chúng ta có thể dễ dàng bắt
gặp những lời ăn tiếng nói hàng ngày, những thành ngữ, tục ngữ, ca dao được tác giả
vận dụng một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên. Đại thi hào Nguyễn Du cũng ảnh hưởng
rất nhiều từ thi liệu văn học dân gian khi sáng tác Truyện Kiều. “Bà chúa thơ Nôm”
Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…sáng tác những bài thơ ken dày thi liệu dân gian.
Sự ảnh hưởng, tác động ấy vẫn diễn ra sâu sắc kể cả khi văn học Việt Nam chịu
ảnh hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Bên
cạnh những nhà văn, nhà thơ có những cách tân táo bạo vẫn có những tác giả chịu ảnh
hưởng sâu đậm từ nền văn hóa, văn học dân gian như Nguyễn Bính, Tố Hữu. Rõ ràng,
tùy theo từng thời điểm, mặc dù phải trải qua nhiều biến cố, nhiều sự tiếp biến văn hóa


ngoại lai do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau thì bộ phận văn

học ảnh hưởng sâu đậm từ nguồn mạch văn hóa dân gian cho đến nay vẫn còn cuồn
cuộn chảy với một sức sống mãnh liệt. Và Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà
văn đã kế thừa, tiếp nối xuất sắc truyền thống văn học đó.
Như trên đã trình bày thì mối quan hệ giữa văn hóa dân gian và văn học viết là
mối quan hệ mang tính chất quy luật, rộng khắp. Tuy nhiên đó không phải chỉ là mối
quan hệ một chiều. Văn học là một thành tố quan trọng của văn hoá , vừa chịu sự tác
động của văn hóa, vừa tác động đến sự phát triển của văn hoá dân tộc. Với tư cách chủ
thể tiếp nhận văn hoá đồng thời là chủ thể sáng tạo, nhà văn chính là người lưu giữ qua
văn chương mình những đặc trưng của văn hoá dân tộc.
Trong bài viết Văn hóa – ngọn nguồn của văn học, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ
Sĩ Vịnh đã nhận định rằng: văn hóa dân gian là ngọn nguồn của tiến trình lịch sử văn
học,“là bầu sữa nuôi dưỡng nhiều tài năng văn học”[29, tr.220]. Song mối quan hệ ấy
không diễn ra một chiều mà văn học luôn có “sự tác động trở lại của văn học đối với
văn hóa” [29, tr.224].
Như chúng ta đã biết, văn hóa là một tổng thể, chi phối văn học với tư cách là hệ
thống chi phối yếu tố. Đây là quan hệ bất khả kháng, tự thân nó, là chuyện hiển nhiên.
Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác trong văn hóa là một yếu tố mạnh và năng
động. Văn học là sản phẩm sáng tạo của chủ quan của nhà văn. Văn học sử dụng ngôn
từ, một phương tiện giao tiếp có tính phổ quát nên có sự ảnh hưởng sâu rộng trong
quần chúng nhân dân.
Văn học không chỉ sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó mà còn cho cả hệ
thống. Hơn thế, văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Trong một bài viết có nhan đề
Văn học góp phần tạo nên những giá trị văn hóa hàng đầu của dân tộc, nhà nghiên cứu
Đinh Gia Khánh đã nói rằng: “một trong những đóng góp quan trọng nhất của văn học
đối với đời sống xã hội là góp phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc” [39].
Đồng thời qua văn học, những phạm trù có giá trị của văn hóa được bảo lưu và phát
triển.


Còn trong bài Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học, theo nhà nghiên cứu Trần

Đình Sử, vai trò sáng tạo ấy thể hiện rõ nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng
tạo, biểu hiện con người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai trò
sáng tạo những mô hình nhân cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”. Văn học
có vẻ thích “nói ngược” nhưng chính nó giữ vai trò điều chỉnh văn hóa, có thể nhận ra
cái cũ, cái thái quá, cái bất cập; 3/ Văn học có vai trò lựa chọn văn hóa. Văn học cung
cấp một sự lựa chọn văn hóa từ phía đời sống từ nhu cầu làm giàu đời sống tâm hồn và
trí tuệ, chứ không phải từ lập trường chính trị cho nên rất gần gũi và thiết thực đối với
con người; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa. Văn học là bộ phận quan trọng của
văn hóa, sự giàu có của nó về nội dung và hình thức trực tiếp làm giàu cho văn hóa.
[76, tr.891-892-893-894].
Quả vậy, thực tế đời sống văn hóa, văn học đã minh chứng rằng nhiều sáng tác
của các nhà văn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa dân gian. Các tác phẩm này đều
hướng tới xây dựng những mô hình nhân cách văn hóa trọn vẹn, từ đó tác động tích
cực đến đời sống văn hóa của xã hội. Trong văn học quá khứ, một số sáng tác là sản
phẩm của văn học thành văn thuộc bộ phận văn hóa bác học, nhưng sự lưu truyền lại
không chỉ trong tầng lớp quí tộc, những người có học thức mà có một số tác phẩm
xuất chúng đã len lỏi đến tận thửa ruộng, luống cày, ăn sâu vào từng tâm hồn những
người nông dân. Để rồi không biết từ bao giờ nó trở thành món ăn tinh thần không thể
thiếu của quần chúng nhân dân. Tiêu biểu cho hiện tượng “dân gian hóa” vừa nêu
không thể không kể đến Truyện Kiều. Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ngoài
những tri thức bác học, ông còn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm tri thức văn hóa dân gian.
Đóng góp lớn nhất của Nguyễn Du qua Truyện Kiều là đã góp phần đưa thể thơ lục bát
của dân tộc đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Truyện Kiều còn được “dân gian hóa” thành
những hiện tượng văn hóa phổ biến như tập Kiều, bói Kiều. Đó là chưa kể đến những
truyện Nôm khuyết danh như Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa,…những tác
phẩm do các nhà nho viết ra, nhưng vì được lưu truyền quá rộng rãi trong nhân dân,
nên không còn có thể phân biệt được đâu là văn chương bình dân, đâu là văn chương
bác học. Hiện tượng “dân gian hóa” ấy còn diễn ra ở nhiều tác phẩm văn học bác học



khác như tác phẩm Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu), thơ lục bát của Tố Hữu, thơ
Tú Mỡ, thơ Bút Tre.
Tóm lại, mối quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa với văn học nói chung, văn hóa
dân gian với văn học viết nói riêng là mối quan hệ mang tính quy luật tất yếu. Văn học
chẳng những là một bộ phận quan trọng của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ
văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa hữu hiệu
nhất. Văn học vốn chịu sự chi phối ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa và môi trường
văn hóa của dân tộc. Là thành viên của cộng đồng văn hóa, như một hệ quả tất yếu,
nhà văn tiếp nhận những giá trị văn hóa truyền thống, những lối tư duy, những mô
thức ứng xử trong cộng đồng. Vì thế, dù nhà văn viết về vấn đề gì, dù sáng tạo đến đâu
thì trong tác phẩm vẫn thể hiện tâm thái văn hóa của dân tộc mình. Bằng không những
gì nhà văn viết ra sẽ hoàn toàn xa lạ với độc giả, với chính mình. Bởi như nhà văn Nga
M. Gorki đã từng nói: “Nhà văn không bao giờ là ngẫu nhiên mà thường là tất yếu lịch
sử, anh ta là một hiện tượng nảy sinh từ sản phẩm tinh thần của dân tộc, biện giải từ
yêu cầu dân tộc để nhìn nhận cuộc sống thể hiện trong nghệ thuật…Anh ta nhiệt thành
với những khát vọng, những lí tưởng và những hình thức mới. Những khát vọng đó
được hình thành và thâm nhập vào thế giới. Bằng cách đó, mỗi tác phẩm nghệ thuật
nảy sinh từ tinh thần và hi vọng của dân tộc, của xã hội. Nhà văn sáng tạo từ tài liệu
vốn có, do lịch sử đưa lại cho anh ta, vì thế những tác phẩm sáng tạo của nhà văn là
chứa đựng bản sắc dân tộc.” [65, tr.253]. Tất cả những gì thật sự mới mẻ trong văn học
nghệ thuật nếu được nảy nở trên miếng đất tốt lành của truyền thống văn hóa thì sẽ
trường tồn theo thời gian. Để từ đó, qua sự thẩm định của thời gian, những tác phẩm
ưu tú lại trở thành những biểu tượng cho văn hóa dân tộc, có tác động mạnh mẽ đến
đời sống văn hóa của dân tộc mình.
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của văn hóa dân gian trong sáng tác của một nhà văn
cụ thể có thể thông qua việc “đo lường” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Hà Công Tài)
ảnh hưởng cụ thể của các thành tố văn hóa dân gian trong sáng tác của nhà văn như:
những yếu tố có nguồn gốc từ văn học dân gian như cốt truyện, nhân vật,…hiện hữu
trong tác phẩm. Tuy nhiên vấn đề ở đây không đơn thuần là việc chúng ta “đo lường”



×