Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong trong khi thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH LIÊN

TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI
THI HÀNH CÔNG VỤ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH LIÊN

TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI
THI HÀNH CÔNG VỤ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS: PHẠM MINH TUYÊN



HÀ NỘI – năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ BÍCH LIÊN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ .......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ... 7
1.2. Khái quát pháp luật hình sự Việt Nam quy định về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ từ năm 1945 đến năm 2017 ................ 11
1.3. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạnh trong khi
thi hành công vụ .............................................................................................. 19
1.4. Phân biệt tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với
một số tội phạm khác ...................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG KHI
THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI TỪ
NĂM 2013 – 2017 .......................................................................................... 32
2.1. Thực trạng tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013-2017............................................ 32
2.2. Định tội và áp dụng hình phạt đối với các trường hợp phạm tội cụ thể của
tội phạm lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo quy
định Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) ........................................ 37
2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ . 58
2.4. Nguyên nhân số lượng vụ án bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có chiều hướng giảm ........ 60


CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN
HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI
HIỆN NAY ..................................................................................................... 62
3.1. Quan điểm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ngãi ............................ 62
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ ............................................................. 65
3.3. Các giải pháp khác ................................................................................... 71
3.4. Nhiệm vụ cụ thể trong tâm trong thời gian tới của ngành kiểm sát Quảng
Ngãi ................................................................................................................. 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCT

: Bộ Chính trị


BLHS
BLTTHS
CP

: Bộ luật Hình sự
: Bộ luật Tố tụng hình sự
: Chính phủ

CTTP
ĐCS

: Cấu thành tội phạm
: Đảng cộng sản

ĐTV
HĐXX

: Điều tra viên
: Hội đồng xét xử

KL
KSĐT
KSV

: Kết luận
: Kiểm sát điều tra
: Kiểm sát viên

KSXX


: Kiểm sát xét xử

LCBCC
LĐ,TB&XH
LHS
LTTHS
NN
NQ
PL

:
:
:
:
:
:
:

Luật cán bộ công chức
Lao động, thương binh và xã hội
Luật hình sự
Luật tố tụng hình sự
Nhà Nước
Nghị quyết
Pháp luật

PLHS
TAND
THQCT

TNHS
TP
UBND
VAHS
VKSND

:
:
:
:
:
:
:
:

Pháp luật hình sự
Toà án nhân dân
Thực hành quyền công tố
Trách nhiệm hình sự
Thẩm phán
Ủy ban nhân dân
Vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân

XHCN
XXST

: Xã hội chủ nghĩa
: Xét xử sơ thẩm



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ và các vụ án hình sự khác được xét xử trong giai đoạn từ 2013
– 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Biểu đồ 2.1: Số vụ án về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạnh trong khi thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013 – 2017.
Bảng 2.2: Bảng thống kê về hình phạt tội lợi dụng chức vụ, quyền hạnh trong
khi thi hành công vụ được xét xử sơ thẩm trong giai đoạn từ 2013 – 2017 trên địa
bàn tỉnhQuảng Ngãi.
Bảng 2.3. Thống kê các vụ án hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ và các tội phạm về chức vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2013 – 2017.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục khẳng
định: “tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là
trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản NN, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm
sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của NN, tiềm ẩn
các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo.
Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức
chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”, khi nhắc đến “tham nhũng”,
người ta thường nhắc đến hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng nhiệm
vụ, công việc được phân công, được giao thực hiện để vụ lợi, gây thiệt hại cho nhà
nước, lợi ích của người dân. Đây là một hành vi nguy hiểm cho xã hội, là một vấn
nạn cần phải lên án và trừng trị trước PL.
Theo số liệu thống kê án hình sự liên quan đến tội phạm về tham nhũng, “Lợi

dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là tội có số vụ án chiếm tỷ lệ
khá cao trong 07 loại tội danh về tham nhũng và ngày càng có diễn biến phức tạp.
Thống kê cho thấy, địa phương nào có nền kinh tế phát triển, thì số vụ án về “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” càng nhiều, mức độ thiệt hại
gây ra càng lớn.
Quảng Ngãi, là một tỉnh thuộc Duyên hải Nam trung bộ, với vị trí nằm giữa
hai đầu đất nước, đang ngày được biết đến nhiều hơn nhờ có khu kinh tế Dung Quất
và nhà máy Lọc hóa dầu số 1 Việt Nam. Những năm gần đây, tỉnh Quảng Ngãi đã
đóng góp cho ngân sách NN trên dưới 30.000 tỷ đồng mỗi năm, đứng trong tốp 5
địa phương có đóng góp nhiều nhất cho ngân sách NN. Tuy nhiên, bên cạnh những
mặt tích cực của sự phát triển kinh tế, tình hình tội phạm liên quan đến tham nhũng,
đặc biệt liên quan đến chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ngày càng có
diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng. Trước diễn biến tội phạm xảy ra như vậy,
các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều cố gắng trong việc áp
dụng pháp luật một cách đúng đắn, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng

1


chống tội phạm. Việc xác định đúng tội danh và quyết định hình phạt đúng với tội
“Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là một trong những điều
kiện đảm bảo tính pháp chế XHCN, ổn định kỷ cương xã hội và góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến chức vụ, quyền
hạn trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong trong
khi thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”
sẽ góp phần làm rõ thêm về lý luận, những hạn chế trong quá trình định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ”. Ngoài ra, trong một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu đề tài góp
phần vào việc hoàn thiện các quy định của PL về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn

trong khi thi hành công vụ”, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội
phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác THQCT - KSĐT - KSXX các vụ án tham nhũng của VKSND nói chung và
THQCT - KSĐT - KSXX đối với tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ” nói riêng luôn là đề tài thu hút được sự quan tâm không chỉ của nhiều nhà khoa
học pháp lý mà còn của các nhà hoạt động thực tiễn bảo vệ PL. Bởi vậy đã có rất nhiều công
trình tiêu biểu nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau loại tội phạm này, cụ thể như sau:
* Các sách chuyên khảo:
- “Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ”, của GS.TS
Võ Khánh Vinh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994 [75].
- “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”, GS. TSKH. Lê
Cảm chủ biên, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 [5].
- Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II)”,
NXB. CAND, Hà Nội, 2009 [66].
- “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II)”, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, năm 2009; “Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm)”, Nxb.
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010 [65].
- “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm)”, tập V “Các tội phạm về chức vụ”, của ThS.Đinh Văn Quế, Nxb. TP.HCM, năm 2002, tái
bản năm 2010 [38].

2


- Bình luận khoa học “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của GS.TS
Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014 [74].
* Dưới góc độ đề tài Luận án tiến sỹ và Luận văn thạc sỹ:
- Luận án tiến sỹ luật học: “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu
tranh phòng, chống các tội tham nhũng” của tác giả Trần Công Phàn (hiện nay đang
là vụ Phó Viện trưởng VKSND tối cao), năm 2004 [34].

- Luận án tiến sỹ luật học: “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Đăng Ninh, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội, năm 2012 [30].
- Luận án tiến sỹ luật học “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Trần Văn Đạt, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2012[19];
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Tạ Thu Thủy, Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2009 [62].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
trong luật hình sự Việt Nam”, của tác giả Đinh Thị Kiều My, Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2012 [29].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ theo luật Hình sự Viêt Nam - trên cơ sở nghiên cứu địa bàn thành
phố Hà Nội” của tác giả Tạ Quốc Tuấn, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
năm 2016[67];
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Nguyễn
Thị Mai Chi, năm 2016;
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”
của tác giả Nguyễn Mạnh Tường, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện
khoa học xã hội, năm 2017 [68].
* Đề tài nghiên cứu và bài viết trên các tạp chí chuyên ngành
- “Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ

3


trong luật hình sự Việt Nam và Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng”,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17, 18 (tháng 8,9)/2011 “Tội đưa hối lộ trong bộ luật

hình sự năm 1999”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2006 của TS. Trịnh Tiến Việt [73];
- “Hoàn thiện quy định về các tội phạm về hối lộ”, Tạp chí Luật học, số
3/2009 của TS. Trần Hữu Tráng [63];
- “Các tội phạm hối lộ từ góc độ luật pháp quốc tế”, Tạp chí Luật học, số
2/2011 của TS. Đào Lệ Thu [61];
- “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong cơ chế thị
trường”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2006 của ThS. Đinh Văn Quế [39];
- “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2006 của ThS. Nguyễn Duy Giảng
(hiện là Viện trưởng VKSND thành phố Hà Nội) [21].
Các đề tài, công trình nghiên cứu trên cơ bản đã có nhiều đóng góp quan trọng
trong việc nghiên cứu, đánh giá tình hình tội phạm “Lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi hành công vụ”; Các kết quả nghiên cứu về lí luận của các công trình
nêu trên sẽ được tác giả tiếp thu, phát triển trong Luận văn của mình. Tuy nhiên,
những công trình trên đều đã được thực hiện cách đây vài năm, có đề tài nghiên cứu
từ thực tiễn ở một địa phương nhất định, nhưng các địa phương có tính đặc thù, đặc
điểm khác nhau nên có những cách áp dụng PL, xử lý có nét khác biệt và chưa có
đề tài nghiên cứu nào về “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”. Do vậy, học viên đã chọn đề tài này làm đề tài
nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và các quy định của PLHS Việt Nam, từ thực
tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ” trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất các giải pháp bảo
đảm việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội “Lợi dụng chức vụ
quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo PL Việt Nam và đề suất sửa đổi, bổ
sung chế định liên quan đến tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ” trong BLHS Việt Nam.


4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội “Lợi dụng chức
vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, phân biệt tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn khi thi hành công vụ với một số tội phạm khác.
- Nghiên cứu và phân tích về sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt
Nam về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
- Phân tích và đánh giá hoạt động xét xử các vụ án hình sự về tội “Lợi dụng
chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” ở tỉnh Quảng Ngãi, trong đó tập
trung nghiên cứu, phân tích việc định tội danh và hình phạt trong các vụ án về tội
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
- Đưa ra các giải pháp đảm bảo việc định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và đề xuất, kiến
nghị sửa đổi, bổ sung một số chế định liên quan đến tội “Lợi dụng chức vụ quyền
hạn trong khi thi hành công vụ”.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Do vậy, đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tội “Lợi dụng chức vụ
quyền hạn trong khi thi hành công vụ” trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009),
so sánh với quy định về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công
vụ” trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Đồng thời, tìm hiểu thực tiễn áp
dụng PL quy định về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
ở tỉnh Quảng Ngãi 2013 -2017.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi những lý luận về tội “Lợi dụng chức
vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” dưới góc độ LHS và LTTHS gắn với thực
tiễn tại tỉnh Quảng Ngãi. Các số liệu thu thập được tại Cục thống kê, VKSNDTC,

TANDTC, các báo cáo Đoàn giám sát của QH, TAND tỉnh Quảng Ngãi và VKSND
tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 - 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

5


Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về NN và PL, về đấu tranh,
phòng chống tội phạm về chức vụ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên đã trực tiếp tổng hợp các tài liệu liên quan đến tội “Lợi dụng chức vụ
quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, nghiên cứu, phân tích các vụ án về “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” ở tỉnh Quảng Ngãi và nghiên
cứu, đánh giá, phân tích một số vụ án cụ thể để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu
trong Luận văn. Những phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận, góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ” . Ngoài ra, Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu học tập và
nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu trong Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả xử lý các vụ
án hình sự về “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, đồng thời
làm cơ sở để trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung một số chế định của pháp
luật liên quan đến tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
trong BLHS và BLTTHS Việt Nam.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương
như sau:
Chương 1: Khái quát chung về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi
hành công vụ
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ngãi từ 2013-2017
Chương 3: Quan điểm và những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về
tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Như chúng ta đã biết theo quy định của BLHS Việt Nam, các tội phạm do
người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không chỉ bao gồm các tội phạm về chức vụ
mà còn bao gồm các tội phạm được quy định ở các chương khác. Mặt khác, công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện cho
thấy còn gặp những khó khăn vướng mắc nhất định; một số quy định của PL về vấn
đề này còn trừu tượng, chung chung, khó giải thích, khó áp dụng nhất là trong tình
hình xã hội hiện nay đã có nhiều sự chuyển biến, thay đổi trên các phương diện
khác nhau, nhiều lĩnh vực đã được xã hội hóa (những công việc trước đây chỉ có
NN đảm trách giờ đã được giao cho nhân dân cùng làm)… Để hiểu rõ khái niệm về
“Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, trước hết cần làm rõ một
số thuật ngữ như: “lợi dụng”, “chức vụ”, “quyền hạn”, “công vụ” và cần làm rõ khái
niệm “người có chức vụ”, “lợi dụng chức vụ để phạm tội”.

Theo Từ điển Hán Việt thì thuật ngữ “lợi dụng” được hiểu là dựa vào điều
kiện thuận lợi nào đó để làm việc gì (sẽ dễ thành công); “chức vụ: việc trong chức
phận mình phải làm”; “quyền hạn: giới hạn của quyền lực hoặc quyền lợi” và “công
vụ: chức việc của nhà quan” [74]. Trong các thuật ngữ này thì thuật ngữ “công vụ”
chính là thuật ngữ khó đạt được sự đồng thuận nhất. Tuy nhiên, về cơ bản thì đa số
các quan điểm khoa học đều thống nhất rằng công vụ là hoạt động mang tính quyền
lực - pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức hoặc những người được
NN trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của NN, phục vụ nhân dân.
Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực NN.
Nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Do đó, khái

7


niệm chuẩn xác nhất trong trường hợp này cần phải được hiểu và được xây dựng
trên nền tảng khoa học pháp lý. Hoạt động công vụ theo Điều 2 LCBCC 2008 “là
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật
này và các quy định khác có liên quan”[49]. Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt
động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền
hạn được giao. Thông thường thì nghĩa vụ và quyền hạn này được quy định trong
các văn bản PL. Trong lĩnh vực hình sự thì PL quy định chỉ có những hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong LHS đang có hiệu lực tại thời điểm xảy ra
hành vi và thời điểm xem xét, xử lý hành vi đó mới được coi là tội phạm.
“Người có chức vụ”, theo Điều 277 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) quy
định: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện
một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”[43]
và theo khoản 2 Điều 352 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), có hiệu lực từ
ngày 01.01.2018 thì: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp

đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được
giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực
hiện công vụ, nhiệm vụ”,[44].Theo khái niệm này, có rất nhiều căn cứ khác nhau để
xác định một người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác… Hình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức
nào mà gắn những quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có. Như
vậy, trong khái niệm này theo học viên “Người có chức vụ” có thể được hiểu một
cách ngắn gọn là “người được giao thực hiện công vụ (mang tính chất hợp pháp) và
có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó”. Chẳng hạn như: Cán bộ địa
chính UBND phường được giao khảo sát quỹ đất của phường; kế toán và thủ quỹ
được giao nhiệm vụ theo dõi lập hồ sơ quyết toán các khoản ngân sách, làm thủ tục
rút dự toán ngân sách tại kho bạc NN để chi trả lương cho cán bộ, công chức, viên
chức và cho các hoạt động khác của cơ quan, đơn vị; bác sĩ được giao nhiệm vụ
khám sức khoẻ để tuyển dụng cán bộ, viên chức; thủ kho được giao nhiệm vụ quản
lý kho hàng của công ty… Tất cả những người này đều được coi là người có chức

8


vụ bởi vì họ được giao thực hiện công vụ vì lợi ích chung của toàn xã hội và có
những quyền năng nhất định trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ được giao.
“Lợi dụng chức vụ để phạm tội”: Người có chức vụ chỉ trở thành chủ thể của
tội phạm khi họ đã lợi dụng chức vụ được giao để phạm tội. Chức vụ luôn gắn với
những quyền năng nhất định, người có chức vụ có quyền được quyết định những
công việc có liên quan đến lợi ích chung của xã hội. Chính vì vậy, chỉ có thể coi
một người lợi dụng chức vụ để phạm tội khi họ cố ý gây thiệt hại đến lợi ích chung
của cộng đồng…; Còn trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao, nếu người đó không
gây thiệt hại đến lợi ích chung của cộng đồng mà lại gây thiệt hại đến lợi ích của
chính bản thân mình thì không được coi là lợi dụng chức vụ để phạm tội không. Ví
dụ như thủ quỹ và kế toán của công ty cấu kết với nhau dùng công quỹ để mua hàng

hóa nhằm bán kiếm lời nhưng bị lỗ và thâm hụt quỹ của công ty thì họ bị coi là đã
lợi dụng chức vụ để phạm tội. Nhưng nếu thủ quỹ và kế toán cùng nhau hùn vốn
của riêng họ để mua hàng hóa bán kiếm lời nhưng bị lỗ thì những thiệt hại xảy ra họ
phải gánh chịu và hành vi của họ không bị coi là tội phạm.
Xác định thế nào là người có chức vụ và việc lợi dụng chức vụ để phạm tội là
một vấn đề quan trọng, có ý nghĩa trong việc xác định tội danh và truy cứu TNHS
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Có thể nói, việc lợi dụng chức vụ để phạm tội là
một tình tiết định khung tăng nặng đồng thời còn được xác định là tình tiết tăng
nặng TNHS vì nó đã làm tăng tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi
phạm tội. Đây là loại tội phạm dễ dàng gây hậu quả thiệt hại cho xã hội do những
người có chức vụ thực hiện nên có điều kiện để thực hiện tội phạm mà những người
khác không thể thực hiện được. Mặt khác, việc thực hiện tội phạm của những người
có chức vụ có thể gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội, làm giảm uy tín của NN,
của tổ chức… đối với các tầng lớp nhân dân, loại tội phạm này thông thường khó
phát hiện, xử lý, tỷ lệ tội phạm ẩn là khá cao.
Với vai trò là công cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, BLHS Việt Nam đã xây dựng được những quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý
cho việc xác định tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Trong số hơn
30 tội danh có yếu tố lợi dụng chức vụ để phạm tội, có những tội phạm mà trong
CTTP của nó đã chỉ rõ ở mặt khách quan của tội phạm về chức vụ như tội tham ô

9


tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài … Còn các tội
phạm khác tuy không chỉ rõ hành vi phạm tội do người có chức vụ, quyền hạn thực
hiện trong cấu thành tội phạm cơ bản nhưng khi phân tích bản chất của hành vi
phạm tội qua các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể thì dấu hiệu này được xác định
trong yếu tố chủ thể của tội phạm như hành vi buộc người lao động, cán bộ, công
chức thôi việc trái PL, làm sai lệch kết quả bầu cử, tội đăng ký kết hôn trái PL. Mặt

khác, trong cấu thành tăng nặng của tội phạm của một số tội danh cũng quy định
tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” được coi là tình tiết định khung
tăng nặng như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản; tội vu khống; tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật…
Tuy nhiên, cần lưu ý ở một số tội phạm cụ thể, tình tiết định khung “lợi dụng
nghề nghiệp để phạm tội” dễ bị gây hiểu lầm cũng là “lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội” bởi vì chức vụ, quyền hạn bao giờ cũng gắn với một công việc cụ thể,
một nghề nghiệp nhất định. Nhưng cần phải lưu ý rằng, người lợi dụng nghề nghiệp
để phạm tội chưa chắc đã là người có chức vụ mà việc phạm tội này chỉ gắn với
công việc mang tính chất chuyên môn của họ như bác sỹ cố tình không cứu chữa
bệnh nhân dẫn đến hậu quả nạn nhân chết (điểm k, khoản 1, Điều 93 BLHS 1999),
hay bác sỹ lợi dụng nghề nghiệp cố ý truyền HIV cho người khác (điểm d, khoản 2,
Điều 118 BLHS 1999). Như vậy, người lợi dụng chức vụ để phạm tội phải là người
có chức vụ, họ được giao thực hiện một công việc liên quan đến lợi ích của cộng
đồng và đã sử dụng chức vụ được giao để thực hiện tội phạm. Cùng là người bác sỹ
nêu trên, nếu họ chỉ đơn thuần thực hiện chức năng khám chữa bệnh cho mọi người
thì họ không được coi là người có chức vụ mà chỉ được coi là người có nghề
nghiệp, nhưng nếu họ được trưng dụng để thực hiện nhiệm vụ khám sức khoẻ tuyển
dụng vào biên chế cho cán bộ nhân viên một công ty nào đó thì họ lại trở thành
người có chức vụ, người có quyền quyết định một vấn đề nào đó liên quan đến lợi
ích chung của cộng đồng.
Theo khoản 1 Điều 281 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), quy định về tội
“Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, thì: “Người nào vì vụ lợi
hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây
thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công

10


dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến

năm năm …” [43]. Còn khoản 1 Điều 356 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), có
hiệu lực từ ngày 01.01.2018 quy định về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi
thi hành công vụ” thì: “Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng
chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến
dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm …”. [44]
Từ những sự phân tích nêu trên và theo quy định của 02 BLHS hiện hành, học
viên có thể đưa ra khái niệm về tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ” như sau: “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là
hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ
quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được
pháp luật hình sự bảo vệ; do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý
lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao nhằm mục đích vụ lợi hoặc động cơ cá nhân
khác mà gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân”.
1.2. Khái quát pháp luật hình sự Việt Nam quy định về tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ từ năm 1945 đến năm 2017
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình
sự năm 1985
Như chúng ta đã biết ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, ngày 10
tháng 10 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 47 về việc
"giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam Bộ cho đến khi ban hành
những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc". Trong đó đối với lĩnh vực hình sự, Sắc
lệnh 47 quy định tạm thời giữ lại “Bộ Luật Hình An Nam", ban hành năm 1921
được thi hành ở Bắc Bộ; “Bộ luật Hoàng Việt Hình Luật", ban hành năm 1933 được
thi hành ở Trung Bộ và “Bộ luật Hình pháp tu chỉnh", ban hành năm 1912 được thi
hành ở Nam Bộ [8]. Để đảm bảo uy tín của cán bộ, công chức NN và cơ quan NN,
bảo vệ các lợi ích của NN, lợi ích chính đáng của tập thể và công dân, bảo đảm cho


11


các cơ quan NN hoạt động đúng đắn và chống tội phạm trong lĩnh vực này, NN ta
đã ban hành nhiều văn bản PLHS về các tội phạm chức vụ, như:
Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đó quy
định: Tội đưa hối lộ cho công chức; tội công chức nhận hối lộ, hoặc phù lạm hoặc
biển thủ công quỹ đều bị phạt khổ sai từ 05 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi
tang vật hối lộ, phù lạm hay biển thủ. Tang vật hối lộ bị tịch thu sung công. Người
phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản… [9]. Trong
sắc lệnh này cũng đã đưa ra khái niệm về người có chức vụ. Điều 3 của sắc lệnh
quy định: "Công chức gồm nhân viên trong Chính phủ, trong các Ủy ban hành
chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, trong bộ đội và tất cả các người
phụ trách một công vụ" [9, Điều 3].
Ngày 30/10/1967 Đảng và NN ký ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội phản
cách mạng, có quy định: "lợi dụng chức quyền để hoạt động phản cách mạng là
trường hợp cần xử phạt nặng"; ngày 10/8/1970 TAND tối cao tổng kết về thực tiễn
xét xử loại tội giết người có nêu: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giết người là tình
tiết tăng nặng.
Tại Sắc luật số 03/SL/1976 được Hội đồng CP cách mạng lâm thời ban hành
ngày 15.3.1976 quy định tội phạm và hình phạt trong đó quy định tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn và quy định tội đưa và nhận hối lộ, tuy nhiên Sắc luật không mô
tả dấu hiệu pháp lý của tội phạm, không quy định tình tiết tăng nặng và không quy
định hình phạt bổ sung
Đến ngày 23.5.1981, Ủy ban Thường vụ QH ban hành Pháp lệnh trừng trị tội
hối lộ gồm 13 điều luật, trong đó quy định tương đối cụ thể về dấu hiệu đặc trưng
của các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ và lợi dụng ảnh hưởng đối với
người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi, quy định về các trường hợp tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt, quy định về hình phạt, về việc xử lý của

hối lộ, xử lý hành vi trả thù người tố giác… Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ là công cụ
pháp lý quan trọng góp phần đấu tranh có hiệu quả với tội hối lộ trong thời gian đó.
Qua việc NN ban hành một số các sắc lệnh như trên có thể thấy ngay từ những
năm đầu của chính quyền cách mạng, NN ta đã thể hiện thái độ đấu tranh không
khoan nhượng đối với các tội phạm về chức vụ. Nhưng ở thời kỳ này PLHS về cơ

12


bản nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức có hiệu quả. Nên việc quy định về tội “Lợi dụng chức vụ quyền
hạn trong khi thi hành công vụ” còn có nhiều hạn chế. Tội “Lợi dụng chức vụ quyền
hạn trong khi thi hành công vụ” không được quy định trong bất cứ văn bản PL nào;
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ chỉ được coi là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; các tội phạm về chức vụ nói chung nếu có được
quy định thì cũng nằm trong nhiều văn bản PL luật đơn hành khác nhau, các dấu
hiệu pháp lí; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chưa được quy định cụ thể, chưa quy
định về khái niệm "tội phạm chức vụ", còn khái niệm người có chức vụ mặc dù đã
được quy định cho một số tội phạm cụ thể như nhận hối lộ, biển thủ công quỹ…
nhưng nhìn chung chưa cụ thể.
1.2.2. Những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 về Tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Ngày 27.6.1985 tại kỳ họp thứ 9 QH khóa XII của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam đã thông qua BLHS 1985 (có hiệu lực kể từ ngày 01.01.1986), là BLHS đầu
tiên, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng về sự phát triển của PLHS nước ta và là
cơ sở pháp lý để thực hiện việc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả.
BLHS 1985 ra đời trên cơ sở tổng kết, kế thừa kinh nghiệm lập pháp hình sự và
kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm trước đây và dự
kiến tình hình diễn biến của tội phạm trong thời gian tới. Đây là văn bản quy phạm

PL đầu tiên mà trong đó các tội phạm về chức vụ được phân loại thành một nhóm
tội phạm và được quy định thành một chương riêng: Chương IX và khái niệm "tội
phạm chức vụ" cũng đã được chính thức ghi nhận, đồng thời đây cũng là lần đầu
tiên tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, được quy định là
một tội danh, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công cuộc đấu tranh chống loại tội
phạm này. Theo quy định của Điều 219 BLHS 1985 thì "các tội phạm về chức vụ là
những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan NN hoặc tổ chức xã hội
do người có chức vụ thực hiện trong khi thi hành nhiệm vụ" [41], đồng thời luật
cũng xác định "người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do dân cử, do hợp đồng
hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao

13


thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện
công vụ" [41, Điều 219].
Trong BLHS 1985, tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công
vụ” được quy định tại Điều 221 thuộc phần các tội phạm về chức vụ (bộ luật này
chưa có sự phân biệt tội phạm nào là tội phạm về tham nhũng, tội phạm nào là tội
phạm về chức vụ khác). Điều 221 quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc
lạm quyền trong khi thi hành công vụ như sau: Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá
nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vượt quá quyền hạn làm trái công
vụ gây thiệt hại cho lợi ích của NN, của tổ chức xã hội hoặc lợi ích hợp pháp của
công dân, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 156, 238 và 239, thì bị
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến
năm năm [41]. Theo đó, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn và hành vi lạm quyền
trong khi thi hành công vụ đều được quy định chung trong một điều luật - Điều 221,
tuy nhiên do chưa có nhiều thực tiễn xét xử đối với tội phạm này, nên lúc đầu Điều
221 chỉ quy định một khung hình phạt, không quy định các tình tiết là yếu tố định
khung hình phạt.

Trong quá trình thực hiện BLHS 1985 cũng là những năm thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước với nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN đã nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp trong xã hội. Tệ tham nhũng, lãng phí là vấn đề được cả
xã hội quan tâm, lên án. Do yêu cầu của thực tiến đấu tranh chống tội phạm nên từ
năm 1989 đến năm 1997, QH đã bốn lần sửa đổi, bổ sung BLHS vào các ngày:
28.2.1989; ngày 12.8.1991, ngày 22.12.1992 và ngày 10.5/1997, trong đó quy định
tại Điều 221 được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các ngày: 12.8.1991, ngày
22.12.1992 và ngày 10.5.1997 theo hướng tách hành vi lạm quyền trong khi thi
hành công vụ ra thành điều luật riêng - Điều 221a; khi này Điều 221 được quy định
như sau: "Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của xã hội, quyền
hoặc lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm…".
Như vậy, tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” được cấu
tạo lại thành nhiều khoản khác nhau, mức hình phạt cũng nghiêm khắc hơn nhiều so
với Điều 221 chưa sửa đổi bổ sung: Điều 221 ban đầu quy định mức hình phạt cao

14


nhất là 05 năm tù, sau khi được sửa đổi bổ sung lần thứ 3 vào ngày 10/5/1997 thì
mức cao nhất đối với tội phạm này lên tới 20 năm tù. Việc tăng mức hình phạt từ 05
năm tới 20 năm tù thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc của Đảng và NN ta đối
với loại tội phạm này, góp phần làm trong sạch bộ máy NN, đồng thời giáo dục đạo
đức cách mạng cho đội ngũ công chức, qua đó góp phần tạo niềm tin trong nhân dân
với sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Ngoài ra, trong giai đoạn này các cơ quan bảo vệ PL ở Trung ương đã có một
số văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất PL trong cả nước, trong đó có Thông tư
liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993 của TANDTC, VKSNDTC, BNV (nay là
BCA), BTP hướng dẫn một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS 1985. Cụ thể trong mục b phần 2 về đường lối xử lý thì các tội có tính chất

tham nhũng cần phải bị xử lý nghiêm khắc, một trong số các tội được Thông tư này
liệt kê có "Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lạm quyền trong khi thi hành công
vụ (Điều 221)".
Tóm lại, tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, là tội
phạm chỉ được quy định từ khi BLHS 1985 được ban hành. Việc quy định tội này
tại một điều luật cụ thể trong bộ luật tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc đấu
tranh chống loại tội phạm này. Ban đầu BLHS quy định hành vi lợi dụng chức vụ
quyền hạn và hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ chung trong một điều
luật và chỉ quy định một khung hình phạt, không quy định các tình tiết là yếu tố
định khung hình phạt. Nhưng sau ba lần BLHS được sửa đổi, bổ sung thì hành vi
lạm quyền trong khi thi hành công vụ đã được tách ra thành điều luật riêng, Điều
221 quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn cũng được chia thành nhiều khoản
khác nhau, mức hình phạt cũng nghiêm khắc hơn so với Điều 221 chưa sửa đổi bổ
sung: mức chênh lệch lên tới 20 năm tù. Điều này phần nào thể hiện chính sách hình
sự nghiêm khắc, không khoan nhượng của Đảng và NN trước việc đấu tranh phòng
và chống tội phạm lợi dụng chức vụ quyền hạn, đồng thời củng cố lòng tin của nhân
dân đối với chế độ ta và từng bước làm trong sạch bộ máy của Đảng và NN.

15


1.2.3. Những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ
sung năm 2009) về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, trước yêu cầu của tình hình mới trong công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm tham nhũng, chức vụ
nói riêng. Ngày 21.12.1999 QH khóa X đã thông qua BLHS 1999 (có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01.7.2000) để thay thế BLHS 1985 (sửa đổi, bổ sung 1989), trong
đó tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” được quy
định tại Điều 281 mục A - các tội phạm về tham nhũng, thuộc chương XXI - các tội
phạm về chức vụ. Cũng như BLHS 1985, BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) đều

xếp tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” vào nhóm tội
phạm về chức vụ, tuy nhiên trong phần tội phạm về chức vụ của BLHS 1985 chưa
có sự phân nhóm thành các tội phạm về tham nhũng và các tội phạm khác về chức
vụ như ở BLHS 1999. Sự phân hóa thành các tội phạm về tham nhũng và các tội
phạm khác về chức vụ trong BLHS 1999 xuất phát từ yêu cầu của thực tế đấu tranh
phòng, chống nhóm tội phạm này và sự thống nhất với Pháp lệnh chống tham nhũng
đã được QH thông qua ngày 26.02.1998. Trong Pháp lệnh chống tham nhũng đã liệt
kê 11 hành vi tham nhũng được xây dựng trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của BLHS ngày 10.5.1997 về các tội tham nhũng, ma túy và các tội phạm tình
dục đối với trẻ em, trong đó có hành vi "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi ".
Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo BLHS 1999 ban soạn thảo đã xem xét lại
07 hành vi đích thực là tham nhũng thì được quy định trong mục A chương XXI,
còn lại thì chuyển sang chương khác cho phù hợp với tính chất của hành vi phạm
tội, một trong 07 hành vi đó có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi
hành công vụ. Để phù hợp với quy định tại BLHS 1999, ngày 28.4.2000, Ủy ban
Thường vụ QH ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh
chống tham nhũng, trong đó chỉ còn quy định 07 hành vi được coi là tham nhũng.
Một trong 07 hành vi đó là lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
vì vụ lợi. Trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2009, tội lợi dụng

16


chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ được giữ nguyên như quy định tại
BLHS 1999. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, ngày 29.11.2005,
QH nước ta đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng và sau đó là Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng ngày 23.11.2012.
Tại Điều 3 của Luật này đã liệt kê 12 nhóm hành vi tham nhũng, gồm:
- Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt

tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ
lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; Nhũng
nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can
thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án vì vụ lợi [50].
Có thể khẳng định, BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) đã quy định tội “Lợi
dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” đầy đủ hơn, chi tiết hơn, phản
ánh được thực tế công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian
qua, giúp cho công tác điều tra, truy tố, đặc biệt là công tác xét xử loại tội phạm này
thuận lợi hơn trước đây, cụ thể như sau:
Điều 281 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009). Tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ đã quy định:
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm
năm đến mười năm:

17


a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị
phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến
năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”. [43]
1.2.4. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Bộ luật
hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của BCT và Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của BCT về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
và qua thực tiễn thi hành BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), nảy sinh nhiều
vướng mắc, bất cập. Ngày 27/11/2015, QH khóa XIII và ngày 20/6/2017 QH khóa
XIV của nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam đã thông qua BLHS 2015 (sửa đổi, bổ
sung 2017) thay thế cho BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01.01.2018. Trong đó, tội “Lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ”
vẫn được qui định trong BLHS 2015 nhưng đã thay đổi thành Điều 356 với một số
bổ sung chi tiết hơn về định lượng so với trước:
Điều 356 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ quy định:
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ,
quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;

18



×