Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Truyện Xuân Diệu Tổng Hợp Bản cáo trạng cuối cùng trong truyện kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.53 KB, 11 trang )

Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều
Xuân Diệu
LTS. Bài viết sau đây của Xuân Diệu là một trong những văn bản then
chốt của lịch sử tiếp nhận và nghiên cứu Truyện Kiều. Được công bố vào năm
1965 nhân dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du, với cách “giải mã”
phần kết thúc tưởng chừng có hậu của Truyện Kiều như một “bản cáo trạng cuối
cùng”, bài viết này đã mở ra một hướng nhìn mới, gây ảnh hưởng lớn đến các
tác giả nghiên cứu Truyện Kiều ở các giai đoạn sau đó như Lê Đình Kỵ,
Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê v.v. Trong bài “Ý niệm đoàn viên trong Truyện
Kiều” vừa công bố mới đây, tác giả Thái Kim Lan đã đánh giá lại các quan điểm
nghiên cứu trong quá khứ về phần kết thúc của Truyện Kiều, đặc biệt đã đề cập
một cách chi tiết đến bài của Xuân Diệu, và đưa ra một cách kiến giải khác từ
giác độ triết lý Phật giáo. Để giúp bạn đọc có điều kiện tìm hiểu kỹ các lập luận
của Xuân Diệu, chúng tôi đăng lại dưới đây toàn văn bài viết của ông.
talawas
***
Không ít người cho rằng đoạn Kim Kiều tái hợp là gượng gạo. Cũng có
ý kiến cho rằng cứ để Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường xong thì cũng là kết
thúc Truyện Kiều ở đấy, chẳng cần phải viết thêm những đoạn về sau. Theo tôi,
các nhân vật sống hay chết không phải hoàn toàn do tác giả cầm quyền sinh sát
ở tay, mà do sức nội tại, thế nội tại của nhân vật và sự việc, do tương quan và
mâu thuẫn trong xã hội v.v. Mặt khác, cũng không nên coi thường cái nguyện
vọng chính đáng của đại chúng muốn thấy công được thưởng, tội bị trừng;
người hiền, người tốt cuối cùng thắng bọn xấu, bọn ác, dù là dưới chế độ phong
kiến.
Cái gượng gạo, theo tôi, nó nằm chính cống keo đặc lại ở đoạn này:
Một nhà phúc lộc gồm hai,
Nghìn năm dằng dặc, quan giai lần lần.
Thừa gia chẳng hết nàng Vân,
Một cây cù mộc, một sân quế hòe.
Phong lưu phú quý ai bì,


Vườn xuân một cửa, để bia muôn đời.


Đây là cái văn của đối liễn chúc tụng nhau, sáo một trăm phần trăm.
Tôi thiết nghĩ Nguyễn Du chẳng lý thú gì khi viết những câu này. Nguyễn Du là
người đã viết:
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm sá gì!
là người đã viết:
Áo xiêm ràng buộc lẫn nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!
Nguyễn Du đã từng khinh bỉ Tô Tần đâm dùi vào vế để cố học, là cốt
mưu quyền lợi riêng; Nguyễn Du chẳng phải quý trọng gì cái thứ làm quan
“phúc lộc thọ”, cái thứ nghìn năm dằng dặc vinh hoa, cái thứ tuần tự nhi tiến,
bước lên từng bậc một từ quan bé lên quan lớn, một cây cù mộc, con cái đề huề,
“phong lưu phú quý ai bì”, thật là một thứ thoả mãn rất “buốc – gioa” (tư sản) ở
trong xã hội phong kiến. Dường như cây bút của Nguyễn Du đến đó cái thế
chẳng lẽ lại không viết như vậy, là vì gia đình nhà Kim Trọng đáng vui sướng
kia mà! Nhưng viết lấy lệ, theo thói tục thông thường trong giai cấp phong kiến
ước mong cho mình và chúc tụng cho nhau. Đúng đấy, gượng gạo.
Mặt khác, cái việc Thuý Kiều tái ngộ Kim Trọng rồi thực chất ở vậy
làm bạn cầm cờ của Kim Trọng, việc ấy nếu không phải là gượng gạo thì cũng
bất ổn, thì cũng chẳng phải là tự nhiên. Nhưng ta thử nghĩ xem: Tác giả còn có
cách nào khác? Tác giả (thực tế là Thanh Tâm tài nhân và Nguyễn Du) đã
không để cho Kiều chết ở sông Tiền Đường, chết như vậy thì toàn thể người đọc
trong xã hội về trước ở Trung Quốc và Việt Nam không chấp nhận – Kiều phải
cần sống, mà đã phải sống thì phải gặp lại cha mẹ, chàng Kim và hai em. Gặp
lại Kim Trọng thì thế nào? Chỗ này chúng ta phải khen Thanh Tâm tài nhân đã
giải quyết như ta thấy trong cốt truyện mà Nguyễn Du dùng: “Đem tình cầm sắt
đổi ra cầm cờ”. Nhưng ta lại phải muôn vàn khen Nguyễn Du: trên cốt nguyên

truyện, Nguyễn Du đã sáng tạo thêm rất lớn, đã làm thành bản cáo trạng cuối
cùng của Truyện Kiều, nằm ngay trong lúc vui vẻ nhất, Kim Kiều tái hợp.
Nguyễn Du không bằng lòng nói vài nét như Thanh Tâm tài nhân, mà
mỗi đoạn, Nguyễn Du đem trái tim nghệ sĩ lớn, đau đớn xót xa da diết, mỗi lời
là mỗi thương yêu Thuý Kiều, thương yêu số phận con người trong Thuý Kiều.
Thanh Tâm tài nhân:


“Vương ông liền bảo người gọi kiệu đến, để đưa Thuý Kiều về nhà trọ.
Vương bà nói: - Hãy khoan! Con nó mặc toàn đồ nhà chùa, sợ làm cho người ta
ngờ vực. – Liền bảo Thuý Vân đưa áo quần mang theo cho Thuý Kiều thay”.
Chỗ này, Nguyễn Du viết cũng tương tự như thế: Vương ông dạy rước
cùng về một nơi.
Thanh Tâm tài nhân:
“Nhưng Thuý Kiều vội từ chối nói:
- Thưa cha mẹ. Con trải nhiều cảnh khổ, ngày nay được gặp cha mẹ, đã
là may mắn muôn phần, nhưng thân này bây giờ là người ngoài vòng thế tục,
chỉ nên theo hầu sư huynh ở đây tu hành là đủ”.
Trái tim Nguyễn Du không bằng lòng chỉ có chừng ấy, mà mỗi ý run
bần bật lên, trong mỗi lời là có mười lăm năm đau khổ; trong cả chương Kim
Kiều tái hợp, trong lời, ngoài lời, đâu đâu cũng có cái khối đau đớn mười lăm
năm ấy:
Nàng rằng: “Chút phận hoa rơi,
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng,
Khát khao đã thoả tấm lòng bấy nay.
Nguyên truyện chỉ nói: “Thân này bây giờ đã là người ngoài vòng thế
tục” mà Nguyễn Du nói (tiếp theo):

Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì?
Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi…”
Rõ ràng là Nguyễn Du không những đã để trái tim mình vào trong nhân
vật, mà Nguyễn Du chính là nhân vật; Nguyễn Du tự nói nỗi đau khổ, nỗi giày


vò của mình qua Thuý Kiều, thì mới có một giọng thơ như thế. Tản Đà viết:
“Cũng vì văn chương bởi tâm sự như thế, cho nên như có một sức thiêng liêng
khiến cho người ta dễ cảm động, ấy quyển Kiều mà hay, chỗ gốc thực ở đó, mà
văn tài của tác giả lại là phần thứ hai”. Tản Đà để văn tài xuống thứ hai để chữ
tâm lên thứ nhất, là chí lý; đó cũng là một chỗ sâu sắc của Tản Đà. Ngay lời đầu
tiên khi gặp nhau như chết sống lại, Kiều đã cho thấy rằng đời mình tan nát,
lòng mình tan nát, bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều bắt đầu.
Đã tu – tu trót – qua thì – thì thôi.
Nguyễn Du đã sử dụng triệt để cuộc đoàn viên để tính sổ một lần cuối
cùng. Bản cáo trạng bất ngờ thật ra nằm rõ mồn một trong chương đoàn viên
này! Tại ta đọc nhiều lần mà vẫn vô ý, nên không thấy hết. Nguyễn Du không
đọc cáo trạng bằng thuyết lý, bình luận, mà đưa ra một cáo trạng bằng xương
thịt, bằng máu của tâm hồn: Đây là nạn nhân còn sống sót của mười lăm năm
chúng bay!
Trong tiệc hoa đoàn viên vui vầy, Thuý Vân uống chén rượu tàng tàng
dở say, đứng lên đặt vấn đề Thuý Kiều nên thành hôn với Kim Trọng… “Bây
giờ gương vỡ lại lành”… Lời lẽ Thuý Vân dừng lại ở hai câu của Nguyễn Du:
“…Quả mai ba, bảy đang vừa,

Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì”.
“Quả mai ba, bảy” là lấy ý trong thơ “Xiếu mai” (Kinh Thi) nói quả mơ
ở trên cành còn bảy quả, ba quả, là tiết cuối xuân, tuy là kỳ hôn giá có muộn,
mà lấy nhau cũng vừai. Tản Đà lại khen: “Câu này ngẫm thật buồn cười như cô
Kiều lúc đó còn có thể nói “đào non”, thời tác giả thật cũng tài tình vậy!”. Thật
là học trò biết khen thầy.
Tài tình thật đi chứ! Nguyễn Du rút Thuý Kiều từ trong trái tim mình
ra, không yêu mến sao được! Kiều ba mươi tuổi vẫn là “đào non”, sau đây,
Nguyễn Du mới giải thích bởi vì: “Hoa tàn mà lại thêm tươi - Trăng tàn mà lại
hơn mười rằm xưa”.
Kiều tưởng rời nơi tu hành về nhà là về nhà, không ngờ cuộc đời lại đòi
hỏi nàng một mức nữa, qua lời Thuý Vân. Ôi cái con em gái “khuôn trăng đầy
đặn, nét ngài nở nang” kia, mày phúc hậu lắm, mày đâu có biết ý tứ gì. Sao em
đã khêu vết thương tưởng đã lành của chị:
Dứt lời nàng vội gạt đi:
“Sự muộn năm cũ, kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,


Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều.
Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thuỷ triều chảy xuôi!”
Nhưng Thuý Kiều có gạt đi cũng không được nữa. Kim Trọng đã bắt
lấy lời Thuý Vân. Theo tôi, tất cả cái giá trị của Kim Trọng là lời nói chí tình ở
phía sau, mà tôi dẫn trước lên đây:
Bấy lâu đáy biển mò kim,
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa!
Bấy lâu anh lặn lội tìm em, là vì yêu em, nhớ em, chứ đâu có phải vì…
chuyện ấy:
Chàng rằng: “Nói cũng lạ đời

Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao?
(…)
Duyên kia, có phụ chi tình.
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?”
Kim Trọng không biết nói gì hơn là nhắc lại lời thề, sống chết với lời
thề ấy và dùng cách trách yêu.
Kiều bấy giờ mới nói đến cái thân thể của mình, trong đó có cái thân
của mình rất là quan trọng. Nguyễn Du cho Kiều nói đến chữ “Trinh”, đặng sau
đó mượn lời Kim Trọng nói đến một điều làm hả dạ hả lòng người đọc, chiêu
tuyết cho Kiều:
Như nàng lấy Hiếu làm Trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay!ii
Trong lời nói của Kiều là gì, nếu không phải là bản cáo trạng xã hội, do
chính nạn nhân lập nên? Trong quyển truyện, đã bao lần Kiều trách phận thương
thân, ví dụ khi phải làm đĩ lần thứ nhất: “Mặt sao dày gió dạn sương - Thân sao
bướm chán ong chường bấy thân”; nhưng đến đây, nhớ lại cả mười lăm năm
luân lạc, Kiều như đã nát hết cả tấm thân; lúc tái hợp này rõ ràng là khi Nguyễn
Du uất ức lên cao độ nhất.
...Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa;
Bấy chầy gió táp mưa sa!


Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn!
Còn chi là cái hồng nhan?
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?”
Ta thử đọc lại đoạn này mà vận vào thân, xem thử có tủi nhục đến tận
trong xương thịt mình hay không? – giày vò đến thế thì đến bao nhiêu thân cũng
phải nát, huống chi là một cái thân em! “Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?”.
Câu thơ hành văn bỏ lửng: “Cái thân thế của em đã xong hay chưa, còn muốn gì

nữa hở anh?” - Nỗi ê chề tủi cực theo mạch văn còn tiếp:
“Nghĩ mình, chẳng hổ mình sao?
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!iii
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ rày khép cửa phòng thu
Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.
Nói chi kết tóc xe tơ,
Đã buồn cả ruột, mà dơ cả đời!”
Kiều lại nhắc lại sự đi tu, vì nạn nhân ê chề quá; sự từ chối ở hai câu
cuối vẫn là cái giọng tố cáo của một nạn nhân.
Tác giả, trong lời Kiều, đã mượn hình tượng “hoa thơm phong nhị,
trăng vòng tròn gương”, “mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn”, dùng lời
Kim, tác giả cãi lại: “Tan sương đầu ngõ” để thấy hoa, “vén mây giữa trời” để tỏ
trăng, và “Hoa tàn mà lại… trăng tàn mà lại” (trên tôi đã dẫn). Đó chẳng qua là
một bút pháp thông thường. Như ta đã biết, Kim Trọng lập luận rằng không nên
cố chấp trong việc hiểu chữ “Trinh”, đáp lại Kiều lần thứ hai này, Kim Trọng
cũng lại kết ý bằng cách trách yêu, nhưng lần này tiêu hao hơn, tự tủi thân là
một người bị ruồng bỏ (như Tiêu lang mất vợ):
Còn điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu?
Lẽ của Kim Trọng cũng cứng, cha mẹ lại cũng quyết như thế, Kiều phải
nhận lời. Nhưng tại sao lại:


Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than?
Nguyễn Du viết văn rất ý tứ, chuẩn bị cho lần thứ ba Kim Kiều đối đáp.
Lễ thành hôn, và đêm động phòng:

Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa.
Văn hay trước hết chưa phải ở hình tượng, âm thanh, sáng kiến…là
những điều quan trọng lắm lắm, mà văn hay trước hết ở cái thế, ở sự phân tích
được tâm lý của hoàn cảnh. Đọc văn cũng vậy, như xem người, chưa nên lác
mắt vì quần áo, trang sức, mà cho đến mặt đẹp cũng chưa đáng sợ! Hãy xem
vầng trán suy nghĩ gì, và hai con mắt nó là gương của tâm hồn:
Những từ sen ngó đào tơ
Mười lăm năm ấy bây giờ là đây!
Cái tâm lý của tình yêu như thế đó, yêu con sông muốn yêu từ suối, yêu
con suối muốn yêu từ nguồn, đi về tận cái thuở “má hồng”. “Sen ngó đào tơ”
chẳng qua là những chữ có sẵn, bảo là sáo cũng được; nhưng đặt vào đây…
thương biết bao từ khi em còn non, từ lúc em cần được anh bảo vệ giữ gìn… Ấy
thế mà Kim xa bắng Kiều mười lăm năm, mất biệt Kiều đi mười lăm năm. “Bây
giờ là đây”, thế mới sáng bốn chữ “ngậm ngùi tình xưa” ở trên.
Kiều đẹp hơn bao giờ hết và Nguyễn Du viết như là Kim Kiều yêu
nhau rất tự nhiên, đầy đủ lắm:
Canh khuya bức gấm rủ thao
Dưới đèn tỏ dạng má đào thêm xuân
Tình nhân lại gặp tình nhân
Hoa xưa ong cũ, mấy phân chung tình!
Nhưng đâu có hoàn toàn như thế. Nàng Kiều của Nguyễn Du lại đặt
vấn đề trở lại một lần nữa và lần này là quyết liệt. Và lần này bản cáo trạng cuối
cùng lại cất tiếng của nạn nhân lên. Ba mươi tuổi chính là lúc người đàn bà đầy
đặn trong tình yêu, sinh đẻ những đứa con đẹp đẽ khỏe mạnh nhất; ở ba mươi
tuổi ấy, nàng Kiều mang mãi trong mình một vết thương đau. Nàng Kiều không
thể bước qua được tâm hồn của mình, nó rất thanh tú, tư cách của mình, nó rất
tự trọng. “Chữ Trinh còn một chút này”. “Trinh” đây không còn chỉ là cái nghĩa
vật chất, “Trinh” đây vốn do sự tế nhị, sự sòng phẳng của tâm hồn. Một lần, ở
Hồng Gai tôi nói đùa với những người thợ mỏ: “Ví dụ như các đồng chí đi làm
từ dưới hầm mỏ về, chưa kịp tắm rửa, không nỡ hôn vợ, sợ lây bụi bậm sang

người yêu. Đó là vật chất. Còn đây lại còn có nghĩa cao hơn nữa”. Tôi lại ví


von: -Ví dụ như con để dành hồng cho bố, vợ để dành hồng cho chồng. Thiếu
cẩn thận, không may “hồng ngâm chuột vọc, mình ngọc trâu vầy”, chẳng lẽ đưa
quả hồng chuột ăn dở cho bố, cho chồng ăn nốt hay sao? Em trọng anh, em
trọng em! Em còn một chút đó là trọng anh, em còn một chút đó là tự trọng. –
Nghĩ như vậy, ta sẽ thương Kiều đến thấy tê ở dưới chân tóc và mỗi lời nói của
Kiều hoá ra vang vang đau xót, ức lắm lâm ly. Đọc kỹ lại mà xem, lần trước,
nàng chỉ xót xa, lần này trong đêm động phòng nàng uất ức gay gắt:
Nàng rằng: «Phận thiếp đã đành.
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may.
Riêng lòng đã thẹn lắm thay
Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi ».
Bản cáo trạng Nguyễn Du viết đến đây không thể bình tĩnh được nữa,
mà trong thơ văn có cái gì xỉa xói – xỉa xói cái xã hội tàn ác, nó là tội phạm:
Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua.
Nàng như lay Kim Trọng mà hỏi:
Lại như những thói người ta,
Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa
Khéo là dơ duốc bày trò,
Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi!
Người yêu ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
Nếu nói chuyện nối dõi tông đường:
Cửa nhà dù tính về sau
Thì thà em đó, lọ cầu chị đây?

Chữ Trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững, lại dày cho tan.
Còn nhiều ân ái chan chan,
Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi!


Yêu nhau cách ấy chính là thù nhau gay gắt vô cùng; đến câu sau cùng
vẫn còn gay gắt. Lời Kiều dùng một lối văn thắt buộc: “gọi đó, có chiều lòng,
riêng lòng, cũng đà, dù tính, thì đà…”. Những từ dùng để cãi cọ: “còn toan,
những như, lại như, khéo là, đâu nữa, đấy thôi, hay gì…”. Nếu không phải là tố
cáo xã hội, thì sao Nguyễn Du lại viết hơi văn ấy?
Tiếp theo lời Kiều, đoạn sau đây là hay nhất của lời Kim Trọng; chí
tính, chí nghĩa, có thuỷ có chung:
Chàng rằng: “Gắn bó một lời
Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
Xót người lưu lạc bấy lâu,
Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều
Thương nhau sinh tử đã liều,
Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình”.
Trong lời chàng Kim, Nguyễn Du nói rất trang nhã, nhưng cứ nói:
Chừng xuân tơ liễu còn xanh
Nghĩ sao cho thoát khỏi vành ái ân.
Câu thơ tám chữ, có bản cũng chép: “Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái
ân”. Trước đây, trong mười mấy năm, tôi nhiều lần đọc Kiều đến đoạn này, vẫn
cứ lướt qua, không hiểu gì sất! Mấy năm gần đây, đọc kỹ lại, thấy rõ mồn một.
Tôi thích lấy câu “Nghĩ sao”, theo tôi hay hơn câu “Nghĩ rằng” lộ liễu, hở
hương. Nhưng trước, tôi lại hiểu chủ từ của “nghĩ” là Thuý Kiều, và hiểu là:
“Em nghĩ làm thế nào cho thoát khỏi vành ái ân”, thành ra rối lung tung, không
mò ra được nghĩa làm sao. Nay tôi thấy rõ: “nghĩ” đây là Kim Trọng nghĩ, và
Kim Trọng nghĩ rằng:

Nghĩ: “Sao cho thoát khỏi vòng ái ân!”
Anh thấy em hãy còn trẻ lắm (tơ liễu còn xanh) nên anh cứ nghĩ: em
đang chừng xuân như thế, thì em thoát sao cho khỏi sự đòi hỏi ân ái.
Có phải là Nguyễn Du hiện thực hay không? Và như thế là sâu sắc:
Gương trong chẳng chút bụi trần
Một lời quyết hẳn, muôn phần kính thêm.
Nay em nói rõ như thế, em không màng ân ái, anh càng kính trọng em
(chỗ này Thanh Tâm tài nhân viết: “Kim Trọng nghe xong, bất giác kinh ngạc


nói: - Té ra hiền thê không phải là con gái đàn bà, mà chính là một bậc hào
kiệt…” Đoạn văn đáng khen). Anh đây cũng thế:
“Bấy lâu đáy biển mò kim
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa?
Ai ngờ lại họp một nhà
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!”
Hôm sau, Kim Trọng nói lại cho cả gia đình biết tâm sự đặc biệt của
đêm qua, cái đêm Kim Kiều tái hợp. Cả nhà ai cũng
lạ lùng khen lao
Cho hay thục nữ chí cao
Phải người sớm mận tối đào như ai?”
Cảm ơn Nguyễn Du biết thương người, biết vì nể gượng nhẹ cho những
trái tim, nên cố đem tài mình tả tình yêu của hai người ấy. Tuy nhiên, người ta
vẫn cứ phải nghĩ một thực tế: Như vậy nàng Kiều ba mươi tuổi sẽ sống như thế
nào, thực chất là không chồng không con cho đến hết đời… Và, mỗi lần đọc tới
đây, chúng ta không thể không căm giận cái xã hội phong kiễn suy tàn tàn ác,
mỗi lần đọc tới những lời Kiều nói, ba đợt, trong cuộc đoàn viên, chúng ta lại
xót xa tức tối không chịu nổi, mặc dù chúng ta vẫn cần phải nghiêm khắc phê
phán tư tưởng định mệnh đã làm cho tác giả có một thái độ tiêu cực trong việc
giải quyết bản cáo trạng cuối cùng này. Trong dịp kỷ niệm 200 năm nhà thơ

Nguyễn Du, thiên tài văn học của dân tộc, ta hãy đem cái bản cáo trạng cuối
cùng ở trong Truyện Kiều ấy mà đổ lên đầu tất cả những xã hội bóc lột áp bức,
và tuyên bố: - Chúng ta là kẻ tử thù của những xã hội ấy. Trước mắt, nó hãy còn
ở trong những vùng Mỹ tạm chiếm tại miền Nam nước ta! Trên đầu lưỡi lê, mũi
chông, trong súng đạn của anh du kích và anh giải phóng quân miền Nam đang
tiến tới diệt hàng dãy đồn địch, trong viên đạn súng trường và súng cao xạ của
dân quân và bộ đội miền Bắc bắn rơi gần 600 máy bay Mỹ, chúng ta thấy có cái
phần đóng góp căm giận của Nguyễn Du.
Nguồn: Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1765-1965), In lần
thứ hai, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1971, đã đăng báo Văn nghệ số
135, 26.11.1965
______________________


i

Chú thích của Tản Đà.

ii

Vay, chữ cổ: hay sao, ru.

iii

Trần cấu: bụi nhơ; bố: vải (quấn vải); kính: (gai thoa bằng gai). Ý nói
người vợ đứng đắn, có cưới xin hẳn hoi.




×