Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện bình sơn, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ĐỨC BẢO

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ ĐỨC BẢO

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Võ Đức Bảo


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt bài luận văn nghiên cứu với đề tài: “Thực hiện pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình Sơn
tỉnh Quảng Ngãi” cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em đã nhận được sự hỗ
trợ, giúp đỡ của nhiều người.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Hữu Nghị đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời, em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Luật, các thầy cô giáo
phụ trách giảng dạy chuyên ngành Luật Hiến pháp và Hành chính, Học viện Khoa
học xã hội; các anh chị đồng nghiệp, gia đình và các bạn đã tận tình giúp đỡ, chỉ
bảo, đóng góp ý kiến quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài
luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn


Võ Đức Bảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT .8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................8
1.2. Nguyên tắc và các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất..........................................................................13
1.3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất .................................................................................................17
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất ........................................................................................................................18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN BÌNH SƠN TỈNH QUẢNG NGÃI ..............................................22
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về bồi thường,hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất ...........................................................................................22
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại huyện
Bình Sơn ....................................................................................................................25
2.3. Những đặc trưng của tỉnh Quảng Ngãi ảnh hưởng đến quá trình thực hiện pháp
luật về thu hồi, hỗ trợ và tái định cư tại huyện Bình Sơn .........................................59
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH
SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI ...................................................................................62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ............................................62


3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ....................................................................65
3.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi .........73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BT

: Bồi thường

CNH – HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

HT


: Hỗ trợ

KN, TC

: Khiếu nại, tố cáo

LĐĐ

: Luật đất đai

NĐT

: Nhà đầu tư

NNTHĐ

: Nhà nước thu hồi đất

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

SDĐ

: Sử dụng đất

TĐC

: Tái định cư


THĐ

: Thu hồi đất

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.
2.2.

2.3.
2.4.
2.5.

Hiện trạng sử dụng đất huyện Bình Sơn năm 2015
Biến động diện tích đất theo mục đích sử dụng năm 2015 so
với 2010

Loại đất, diện tích và đơn giá bồi thường về đất của dự án
1
Tổng hợp về bồi thường thiệt hại về đất của Dự án 1
Loại đất, diện tích và đơn giá bồi thường về đất của dự án
2

Trang
26
28

41
42
43

2.6 .

Tổng hợp về bồi thường thiệt hại về đất của Dự án 2

43

2.7.

Kết quả các gia đình bốc thăm tái định cư

57


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế cho thấy, thực hiện pháp luật về bồi thường (BT), hỗ trợ (HT), tái định

cư (TĐC) khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) đang gặp phải rất nhiều vướng mắc
như: điều kiện được BT, hỗ trợ (HT) về đất, giá trị được BT, HT về đất, nhà ở và
các tài sản trên đất, các vấn đề về tái định cư (TĐC) và điều kiện sinh hoạt của
người dân phải di dời, các vấn đề phát sinh sau khi thực hiện các chính sách HT. Đã
vậy, các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi thực hiện pháp luật về BT, hỗ trợ
(HT), tái định cư (TĐC) khi NNTHĐ vào thực tiễn tại nhiều địa phương trong thời
gian qua vẫn còn cứng nhắc, bị động và thiếu sự linh hoạt, chưa thực sự chú ý lắng
nghe các kiến đóng góp từ phía người dân bị thu hồi đất, thậm chí vi phạm pháp
luật trong quá trình giải quyết việc BT, HT và TĐC. Những tồn tại, vướng mắc nêu
trên là do rất nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan.
Do có vị trí địa lý quan trọng, huyện Bình Sơn có Khu kinh tế Dung Quất phải
chủ động được quỹ đất khá lớn để đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng đất (SDĐ) của các
dự án phát triển hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật. Để đạt được mục
tiêu này, huyện Bình Sơn phải tiến hành THĐ, đồng thời cần thực hiện tốt việc BT,
HT, khi NNTHĐ. Song thời gian vừa qua, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi cũng
đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức kể trên trong quá trình thực hiện việc
BT, HT, TĐC khi NNTHĐ.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về BT, HT, TĐC
khi NNTHĐ trên thực tiễn là cần thiết, nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục
những tồn tại, thiếu sót nói trên và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BT,
HT, TĐC khi NNTHĐ tại địa bàn huyện Bình Sơn nói riêng và các địa phương khác
trong cả nước nói chung. Với ý nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Bình
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học của mình.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi NNTHĐ đã thu hút được

sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Có
thể đề cập đến một số công trình, bài báo tiêu biểu như:
Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Vinh Diện - năm 2006 với đề tại “Pháp
luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất” Nghiên cứu một số vấn đề lý
luận chung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tìm hiểu
khái niệm và chỉ ra những đặc điểm riêng của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
so với trách nhiệm về bồi thường oan sai trong lĩnh vực pháp luật hình sự, trách
nhiệm vật chất trong lĩnh vực pháp luật lao động. Đánh giá thực trạng thi hành pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, chỉ ra những nguyên nhân hạn chế, tồn
tại trong lĩnh vực này. Đưa ra định hướng, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật về bồi thường và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Duy Thạch - năm 2007 về “Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn thi hành
hành tại thành phố Hà Nội” Nghiên cứu thực tế cho thấy, pháp luật về bồi
thường(BT)khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) và thực tiễn áp dụng từ khi có Luật
Đất đai (LĐĐ) năm 2003 đến nay, đang gặp phải rất nhiều vướng mắc như: điều
kiện được BT,hỗ trợ (HT) về đất, giá trị được BT, HT về đất, nhà ở và các tài sản
trên đất, các vấn đề về tái định cư (TĐC) và điều kiện sinh hoạt của người dân phải
di dời, các vấn đề phát sinh sau khi thực hiện các chính sách HT. Đã vậy, các cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật về BT khi NNTHĐ vào thực
tiễn tại nhiều địa phương trong thời gian qua vẫn còn cứng nhắc, bị động và thiếu sự
linh hoạt, chưa thực sự chú ý lắng nghe các kiến đóng góp từ phía người dân bị thu
hồi đất, thậm chí vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết việc BT, HT và TĐC.
Những tồn tại, vướng mắc nêu trên là do rất nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn
chủ quan.
Ngoài ra các bài báo đăng trên các tạ chí bàn về vấn đề thực hiện pháp luật về
2



bồi thường hõ trợ và tái định cư cũng được quan tâm nghiên cứu cụ thể như:
Bài viết: “Vấn đề việc làm cho người bị thu hồi đất ở nông thôn trong quá
trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp” của tác giả Đỗ Đức Quân - Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 8 (412), tháng 8 năm 2007, tr.33-35;
Bài viết “Vì sao dân chưa đồng thuận của tác giả Đức Tâm” - Báo điện tử
Kinh tế và Đô thị, số ra ngày 19/8/2008;
Bài viết “Bức xúc thu hồi đất không chỉ do giá đền bù” của tác giả Lan
Hương - Báo điện tử Dân trí, số ra ngày 03/10/2008;
Bài viết “Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của tác giả” Ths. Lê Ngọc Thạnh - Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số
11 (73), tháng 6 năm 2009, tr.40-43
Bài viết “Dân bức xúc vì sự vô cảm của chính quyền” của nhóm phóng viên
điều tra - Báo điện tử Nhà báo và Công luận, số ra ngày 17/09/2009.
Nói chung, các công trình, bài báo nêu trên đều nghiên cứu về bồi thường khi
NNTHĐ ở mức độ và phạm vi khác nhau. Có công trình, bài báo nghiên cứu đi sâu
phân tích, bình luận một số khía cạnh pháp lý về bồi thường khi NNTHĐ; có công
trình, bài báo nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi rộng nhằm đánh giá khái quát pháp
luật và thực trạng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ. Bên cạnh đó, lại có công
trình nghiên cứu vấn đề này thông qua việc đánh giá thực hiện pháp luật tại địa bàn
cụ thể của một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương… Tuy nhiên, chưa có công
trình nào nghiên cứu vấn đề này nhìn từ góc độ thực hiện pháp luật về BT, HT,
TĐC khi NNTHĐ trên phạm vi địa bàn cấp huyện. Với mong muốn được tiếp cận
vấn đề từ góc độ thực tiễn một cách chi tiết, đồng thời bằng việc tham chiếu giữa
các quy định của pháp luật về BT , HT, TĐC khi NNTHĐ với thực tiễn áp dụng qua
các vụ việc, tình huống cụ thể, một mặt học viên chỉ ra được những quy định phù
hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn cuộc sống, mặt khác cũng đưa ra
những nhận xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,TĐC khi
NNTHĐ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở một địa bàn cụ thể.
Trên cơ sở đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ cho phù hợp với đòi

3


hỏi của thực tiễn hiện nay và trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý thực hiện pháp luật về BT, HT, TĐC
khi NNTHĐ; phân tích đánh giá thực trạng hiện pháp luật về BT,HT, TĐC khi
NNTHĐ tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Từ đó nêu một số giải pháp bảo đảm
thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
chủ yếu sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về BT, HT, TĐC khi
NNTHĐ;
- Phân tích, đánh giá thực hiện pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ từ khi
LĐĐ năm 2013 có hiệu lực đến nay tại địa bàn huyện Bình Sơn. Qua đó, chỉ ra các
quy định phù hợp, chưa phù hợp của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ, cũng như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và nêu
nguyên nhân của tình trạng này;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về BT, HT, TĐC khi NNTHĐ qua
các vụ việc, tình huống cụ thể tại địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi từ khi
Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi đối tượng: luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật về bồi thường khi NNTHĐ mà cụ thể là các quy định về BT, HT về đất và tài

sản, các chính sách HT và các quy định về TĐC cho hộ gia đình (HGĐ), cá nhân
khi NNTHĐ;
4


Về phạm vi không gian và thời gian: luận văn nghiên cứu các quy định về BT,
HT về đất và tài sản, hỗ trợ và TĐC cho HGĐ, cá nhân khi NNTHĐ qua thực tiễn
áp dụng tại địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi từ khi LĐĐ năm 2013 có hiệu
lực đến nay (2017).
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu Luật Đất đai và các văn bản, chính sách có liên quan đến việc thu
hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng ở trong nước và ngoài nước. Phương pháp
điều tra thu thập số liệu tài liệu: sử dụng để thu thập thông tin tư liệu về công tác thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại dự án phục vụ cho mục đích đánh giá.
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu thập chủ yếu là
các quy định của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của UBND tỉnh Quảng Ngãi,
UBND huyện Bình Sơn và các cơ quan liên ngành về BT, HT và TĐC khi NNTHĐ.
Nguồn thông tin này được thu thập chủ yếu qua Công báo, các trang web của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, tôi cũng thông qua các quyết định, báo
cáo, ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Ngãi, các cơ quan liên ngành, Ban chỉ
đạo giải phóng mặt bằng (GPMB) UBND huyện Bình Sơn và thông qua các công
trình, bài viết, tạp chí, internet…để lấy thông tin, số liệu liên quan đến pháp luật và
thực hiện pháp luật về bồi thường,hỗ trợ, TDC khi NNTHĐ tại địa bàn huyện Bình
Sơn, tỉnh Quảng ngãi từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay
5.2. Phương pháp thống kê
Sử dụng để thống kê số liệu về giá đất bồi thường, nhà và tài sản trên đất; số
liệu về hỗ trợ và tái định cư phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

5.3. Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp
Dùng phương pháp này để nhận định thực trạng công tác thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án và đề xuất các giải pháp có tính khoa học và
phù hợp với thực tiễn khi triển khai thi hành.
5


Phương pháp này được được sử dụng để tổng hợp và phân tích các quy định
của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TDC khi NNTHĐ, cũng như các thông tin về
thực tiễn áp dụng. Phương pháp này còn được sử dụng để có được các nhận xét,
đánh giá trình bày trong luận văn.
5.4. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng nhằm xử lý các tài liệu, các số liệu thu thập
trong quá trình khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ.
5.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp này chủ yếu được thực hiện bằng cách phỏng vấn trực tiếp một
số cán bộ lãnh đạo UBND huyện Bình Sơn các cán bộ tham gia trực tiếp lập
phương án BT, HT và TĐC của Trung Tâm Phát triển Quỹ đất huyện Bình Sơn, Hội
Đồng BT, HT và TĐC huyện Bình Sơn, một số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật
về bồi thường khi NNTHĐ, người bị THĐ, nhà đầu tư
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cần
thiết và đáng tin cậy đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động
ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật đất đai liên quan tới lĩnh vực
bồi thường, hỗ trợ, TDC khi NNTHĐ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn còn có giá trị tham khảo hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập
môn học LĐĐ tại các cơ sở đào tạo cũng như trong hoạt động tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thườnghỗ trợ, TDC

khi NNTHĐ nói riêng. Bên cạnh đó, các giải pháp mà học viên đưa ra có thể được
các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tham khảo và ứng dụng vào thực
tiễn công tác bồi thường, GPMB, hỗ trợ và TĐC.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
6


Chương 1. Những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực
hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nhìn từ
thực tiễn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Trước đây, Điều 1, Luật Đất đai năm 1993 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh
tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội (gọi chung
là tổ chức), hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Nhà

nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất. Tổ chức, hộ gia đình và
cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trong Luật này gọi chung là người sử
dụng đất” [2. Điều 1].
Điều 5 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Sở hữu đất đai 1. Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. 2. Nhà nước thực hiện quyền định
đoạt đối với đất đai như sau:a) Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc
quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi
chung là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất); b) Quy định về hạn mức giao đất và
thời hạn sử dụng đất;c) Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất;d) Định giá đất. 3. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết
các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau:a)
Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;b) Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển
quyền sử dụng đất; c) Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư
của người sử dụng đất mang lại. 4. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử
dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất
đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất” [3, Điều 5].
Trên cơ sở Hiến pháp 2013, nay Điều 4, Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất
8


đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho sử dụng đất theo quy định của luật này” [4,
Điều 4].
Do có sự thay đổi trong quy định của pháp luật về đất đai, nên việc thực hiện
các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có khác so với pháp luật đất đai và
các văn bản hướng dẫn ban hành trong thời kỳ trước đó.
1.1.1.1. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong quá trình thực hiện kế hoạch công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước,
chúng ta cần đến một lượng quỹ đất nhất định để xây dựng kết cấu hạ tầng và triển

khai thực hiện các dự án. Hiện tại, huyện Bình Sơn nói riêng và Quảng Ngãi nói
chung đã và đang triển khai nhiều dự án với các mục tiêu phát triển các khu kinh tế,
khu công nghiệp, khu đô thị... một cách đồng bộ. Để thực hiện được các mục tiêu
chiến lược nói trên theo kế hoạch công nghiệp hóa - hiện đại hóa, thì công tác thu
hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng để tạo ra một quỹ đất luôn là khâu tiền đề
quan trọng; có ý nghĩa then chốt để phát triển kinh tế - xã hội theo kế hoạch về các
khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị.
Theo nghĩa thông thường, bồi thường là đền bù những tổn hại do một chủ thể
đã gây ra. Bồi thường có nghĩa là đền bù, trả lại những thiệt hại, tổn thất tương
xứng với giá trị hoặc công lao. Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng những
thiệt hại, tổn thất đúng với giá trị hoặc công lao cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại
vì hành vi của chủ thể khác.
Bồi thường trong quan hệ đất đai chính là đền bù thiệt hại về đất. Từ điển giải
thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội đã định nghĩa: đền bù
thiệt hại về đất là “nghĩa vụ của Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân nhằm bù đắp thiệt
hại về vật chất cho người sử dụng đất trong trường hợp bị thu hồi đất để chuyển
sang sử dụng vào mục đích khác hoặc vì nhu cầu của Nhà nước, xã hội... Tổ chức,
cá nhân được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi
ích công cộng, lợi ích quốc gia phải đền bù cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân bị
thu hồi đất và đủ điều kiện để được đền bù thiệt hại về đất” [21, tr. 29]. Cần lưu ý
9


rằng đền bù thiệt hại về đất trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân khác với
đất đai thời kỳ thuộc sở hữu tư nhân [32, tr. 45].
Luật Đất đai 2013 đã quy định cụ thể về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho
người sử dụng đất hoặc trả bằng tiền theo nguyên tắc sau; “1. Người sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của
Luật này thì được bồi thường;2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất

có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì
được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của từng loại đất do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; 3. Việc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời
và đúng quy định của pháp luật” [4, Điều 74].
1.1.1.2. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, thì: “Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào” [22, tr. 458]; hỗ trợ có tính chất
như tương hỗ: có quan hệ qua lại để giúp đỡ lẫn nhau (thường dùng phụ sau một số
động từ [22, tr. 1060].
Luật Đất đai 2013 đã quy định cụ thể về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất rất cụ
thể như sau:“Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. 1. Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất: a) Người sử đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường
theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ; b) Việc hỗ trợ phải
bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời công khai và đúng quy định của pháp luật.
2. Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: a) Hỗ trợ ổn định đời sống
và sản xuất; b) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với việc
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu
hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển
chỗ ở; c) Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá
nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; d) Hỗ trợ
khác” [4, Điều 83]. Như vậy, với tính chất như là một sự hỗ trợ (trợ giúp) trong việc
10


thu hồi đất chính là việc Nhà nước sẽ hỗ trợ một khoản tiền có giá trị tương xứng
giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi hoặc cấp đổi một mảnh đất khác để người có đất
bị thu hồi tái định cư, ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất. Thực chất là việc Nhà
nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, ổn định sản xuất, kinh
doanh.

Hình thức hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thường là bằng hình thức một
khoản tiền nhất định, có tính chất như một khoản tiền đền bù các thiệt hại mà người
sử dụng đất có đất bị thu hồi phải gánh chịu.Đây là “khoản tiền mà người sử dụng
đất được đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” [21, tr. 70].
Trong thực tế, việc hỗ trợ trong thu hồi đất còn bao hàm cả ý nghĩa tạo điều
kiện người có đất bị thu hồi được trợ giúp để mau chóng ổn định cuộc sống bằng
hình thức tái định cư để có chỗ ở (thành ngữ: an cư mới lạc nghiệp) và có đất canh
tác khác để ổn định cuộc sống. Do có sự thay đổi trong quy định của pháp luật về
đất đai năm 2013, các quy định về hỗ trợ khi thu hồi đất được quy định đầy đủ, chi
tiết và có sự phân loại khá cụ thể. Vì vậy, việc thực hiện các quy định về hỗ trợ
trong các trường hợp thu hồi đất cũng có những khác biệt so với pháp luật đất đai và
các văn bản hướng dẫn ban hành trong thời kỳ trước đó. Về bản chất, “Hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời
sống, sản xuất và phát triển” [14, Điều 3].
1.1.1.3. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh
sống và làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi
Nhà nước thu hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội hoặc vì mục tiêu an ninh, quốc phòng.
Tái định cư được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài sản
gắn liền với đất; di chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại
sản xuất và ổn định cuộc sống tại đó.
Như vậy, tái định cư là hoạt động nhằm giảm các tác động xấu về kinh tế - xã
11


hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung. Hiện nay ở
nước ta khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở, thì người sử dụng đất
được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau:
Bồi thường bằng nhà ở.

Bồi thường bằng giao đất ở mới.
Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở.
Tái định cư là một quy định không thể tách rời và giữ vị trí quan trọng trong
chính sách giải phóng mặt bằng. Các dự án tái định cư cũng được coi là dự án phát
triển và phải được thực hiện như các dự án phát triển khác. Luật Đất đai năm 2013
đã quy định cụ thể điều kiện về khu tái định cư như sau: “...2. Khu tái định cư phải
xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng, phù hợp
với điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền. 3. Việc thu hồi đất ở chỉ
được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu tái
định cư” [4, Điều 85]. Việc bố trí tái định cư cho người có đất ở bị thu hồi mà phải
di chuyển chỗ ở thực hiện theo quy định tại Điều 86 Luật Đất đai năm 2013.
Có thể thấy rằng, với những quy định mới trong Luật Đất đai năm 2013, các
quy định về tái định cư được quy định đầy đủ, chi tiết và có sự phân biệt các vùng,
miền và chú ý tới phong tục tập quán cụ thể. Vì vậy, việc thực hiện các quy định về
tái định cư trong các trường hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở cũng có
những khác biệt so với pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn ban hành trong
thời kỳ trước đây riêng về tái định cư.
Để có được quỹ đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội công tác giải
phóng mặt bằng có ý nghĩa quan trọng. Giải phóng mặt bằng là quá trình thực hiện
các công việc liên quan đến việc di dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và
một bộ phận dân cư trên một phần đất nhất định được quy hoạch cho việc cải tạo, mở
rộng hoặc xây dựng một công trình mới. Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ
khi bắt đầu hình thành hội đồng giải phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao
cho chủ đầu tư mới. Đây là một quá trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau
giữa các dự án và liên quan đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia và cả của xã
12


hội.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật

Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
Học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử đã
lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan
hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội có giai cấp, pháp luật
chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.
Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước
bảo đảm thức hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị [32, tr.139].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui phạm
pháp luật) thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân,
được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [32, tr.143].
Pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là một bộ
phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật BT,HT và TĐC khi nhà nước thu hồi đất trước
hết cần làm rõ một số khái niệm có liên quan đến khái niệm BT,HT và TĐC khi nhà
nước thu hồi đất như: khái niệm bồi thường, khái niệm hỗ trợ, khái niệm tái định cư
và khái niệm thu hồi đất.
1.2. Nguyên tắc và các yếu tố đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
được quy định cụ thể tại điều 74,75,76,77,78,79, 80, 81, 82, 83, 84, 85,86, 87,88,
89, 90 và điều 91 Luật Đất Đai 2013, hướng dẫn thực hiện tại Nghị định
47/2014/NĐ-CP, Sửa đổi bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật
13



Đất Đai tại Nghị định 01/2017/ NĐ-CP
1.2.1. Các thiệt hại cần xem xét, xác định khi Nhà nước thu hồi đất để bồi
thường
Trên phương diện lý luận, thiệt hại về vật chất và tinh thần của người bị THĐ
là hậu quả phát sinh trực tiếp từ việc THĐ của Nhà nước. Trong khi đó, quyền SDĐ
và quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân đã được Hiến pháp,
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Do vậy, chúng ta phải xác định đúng, đầy đủ và khách
quan những thiệt hại xảy ra khi Nhà nước THĐ để xây dựng phương án BT “thỏa
đáng” trên cơ sở đảm bảo hài hòa quyền lợi Nhà nước, của NĐT, nhất là đảm bảo
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ. Với cách tiếp cận nêu trên, các
thiệt hại mà người bị THĐ có thể phải gánh chịu bao gồm:
Thứ nhất, thiệt hại về công sức đầu tư mà người bị THĐ bỏ ra đểlàmtănggiá trị
quyền SDĐ. Không những thế, đây còn là thiệt hại về quyền khai thác và hưởng các
lợi ích từ diện tích đất đai do bị Nhà nước thu hồi.
Thứ hai, thiệt hại về tài sản là thành quả lao động và kết quả đầu tư củangười
bị THĐ được tạo ra trong quá trình SDĐ, gồm: nhà cửa, các công trình kiến trúc,
cây trồng và các tài sản khác gắn liền với đất.
Thứ ba, thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất mà đến thời điểm NNTHĐ cònchưa
thu hồi được. Chi phí đầu tư vào đất còn lại được xác định bằng tổng chi phí hợp lý
tính thành tiền đầu tư vào đất trừ đi số tiền tương ứng với thời gian đã SDĐ. Các
khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm: tiền SDĐ của thời hạn chưa SDĐ trong
trường hợp giao đất có thời hạn, tiền thuê đất đã nộp trước cho thời hạn chưa SDĐ
(có chứng từ hóa đơn nộp tiền), chi phí san lấp mặt bằng, tôn tạo đất theo hiện trạng
khi được giao, được thuê, phù hợp với mục đích SDĐ và các chi phí khác có liên
quan.
Thứ tư, thiệt hại do ngừng việc, ngừng sản xuất kinh doanh khi NNTHĐngười
SDĐ bị mất việc làm hoặc bị ngưng trệ quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, các thiệt hại vô hình mà người bị THĐ phải gánh chịu như: chỗ
ởmới xa hơn, xa trường học và bệnh viện, chi phí sinh hoạt trong thời gian học
14



nghề, thời gian và chi phí để chuyển hộ khẩu về nơi ở mới, thời gian xin chuyển
trường học cho con cái,… Các thiệt hại này, từ trước đến nay chưa được xem xét và
định giá để làm căn cứ BT. Tuy nhiên, Nhà nước cũng chỉ nên đặt ra các tiêu chí và
phương pháp để xác định giá trị của các thiệt hại vô hình, chứ không nên đưa ra một
con số cụ thể. Chính người bị THĐ sẽ là người trực tiếp tính toán những thiệt hại vô
hình của họ, sau đó những giá trị vô hình mà người bị THĐ đã tính toán cần được
thẩm định lại một cách khách quan, toàn diện bởi một cơ quan thẩm định độc lập.
Lý do Nhà nước phải BT cho người bị THĐ là dựa trên căn cứ đất đai là “tài
sản” đặc biệt mang tính tự nhiên. Hơn nữa, trong quá trình sử dụng, sự tác động của
con người đối với đất đai có thể làm tăng giá trị của đất. Phần giá trị tăng thêm này
do người SDĐ tạo ra thì Nhà nước phải có trách nhiệm BT khi NNTHĐ.
Bên cạnh đó, đất đai là tài nguyên có hạn, nó đóng một vai trò vô cùng quan
trọng, không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích của người SDĐ, của cộng đồng xã hội
mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của Nhà nước. Bởi vậy, khi NNTHĐ, tùy
từng trường hợp cụ thể mà người bị thu hồi sẽ được BT về đất, về tài sản gắn liền với
đất, BT các chi phí khác có liên quan, được hưởng các chính sách hỗ trợ (hỗ trợ di
chuyển, đào tạo và chuyển đổi nghề nghiệp…) và bố trí TĐC đối với trường hợp phải
di chuyển chỗ ở. Đây là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp và nhạy cảm. Để giải
quyết vấn đề này một cách “thấu tình, đạt lý” thì cần phải xác định đầy đủ, khách
quan và đúng các thiệt hại mà người bị THĐ phải gánh chịu. Ngược lại, khi xác định
không đúng và giải quyết không thấu đáo các vấn đề nêu trên, một mặt các quyền và
lợi ích của người SDĐ sẽ không được đảm bảo, mặt khác nó còn dẫn đến các hệ lụy
khác gây bất ổn an ninh chính trị cũng như gia tăng sự nghèo đói của một bộ phận
dân cư [34, tr.11].
1.2.2. Giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và
người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất của Nhà nước
Nhằm tạo ra quỹ đất để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế, Nhà nước phải tiến hành THĐ. Điều này

sẽ gây ra những thiệt hại về vật chất, tinh thần cũng như làm ảnh hưởng đến đời
15


sống, sản xuất của người bị THĐ. Bởi vậy, khi tiến hành THĐ, Nhà nước cần có
những biện pháp thỏa đáng để giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước,
người bị THĐ và những người được hưởng lợi từ việc THĐ. Để đảm bảo lợi ích
giữa các chủ thể nêu trên cần cân nhắc và giải quyết theo hướng sau:
Về phía Nhà nước: tiến hành THĐ là nhằm phân phối lại quỹ đất cho phùhợp
với mục tiêu quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế- xã hội. Thêm vào đó, với
chức năng đại diện cho chủ sở hữu, Nhà nước sẽ thực hiện vai trò điều tiết các lợi
ích kinh tế của các chủ thể liên quan đến việc THĐ chủ yếu thông qua các chính
sách tài chính về đất đai nhằm đem lại nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Về phía người được hưởng lợi từ việc THĐ (nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân
khác…): có thể nói những chủ thể này ít nhiều đều được hưởng lợi ích nhấtđịnh từ
hoạt động THĐ của Nhà nước. Do đó, lợi ích này cần phải tính toán và giải quyết
một cách hài hòa, để đảm bảo lợi ích cho NĐT. Mặt khác, Nhà nước phải xác lập
được cơ chế, chế tài ràng buộc trách nhiệm của NĐT để tránh hiện tượng vì lợi ích
của chính NĐT sẵn sàng làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người bị THĐ.
Mặc khác Nhà nước cũng cần phải xem xét và giải quyết mối quan hệ về lợi ích
giữa người bị THĐ với những người được hưởng lợi từ việc THĐ sử dụng vào mục
đích công cộng như xây dựng đường giao thông, công viên, trường học, bệnh
viện…Vì người bị THĐ có thể phải di chuyển chỗ ở hoặc bị mất một phần diện tích
đất nhất định, nhưng có những người SDĐ gần khu vực đó không những không bị
mất đất mà còn được hưởng lợi do việc Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
KT-XH đã làm tăng giá trị quyền SDĐ của các chủ thể này. Hơn nữa, hiện nay Nhà
nước vẫn chưa có cơ chế nhằm điều tiết một phần giá trị tăng thêm từ đất mà không
phải do người SDĐ đầu tư mang lại, do đó đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ
thể sử dụng đất với nhau và hiển nhiên về phần Nhà nước cũng mất đi một nguồn
thu đáng kể cho ngân sách.

Về phía người bị THĐ: cần nhận thức đầy đủ về lợi ích chung mang lại cho
cộng đồng từ việc THĐ của Nhà nước, do đó khi Nhà nước đã thực hiện BT, HT và
TĐC theo đúng quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm bàn giao mặt
16


bằng đúng thời hạn. Song, thực tế vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp người bị THĐ
được BT với mức giá thỏa đáng, nhưng họ vẫn cố tình chậm bàn giao mặt bằng với
suy nghĩ chay ì kéo dài sẽ được nhận mức giá BT cao hơn. Vấn đề này xảy ra một
mặt dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài, vượt cấp, mặt khác kéo dài thời gian
GPMB làm chậm tiến độ triển khai thực hiện dự án, gây lãng phí, thất thoát rất lớn
cho Nhà nước, NĐT và cho xã hội. Như vậy, lợi ích của các chủ thể nêu trên không
phải lúc nào cùng đồng hành sát cánh cùng nhau, nhiều khi các lợi ích đó sẽ xung
đột với nhau. Việc xác định và giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa các bên
không những tạo ra sự đồng thuận trong quá trình thực hiện BT, GPMB, mà còn
góp phần đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc công bằng, công khai trong SDĐ [34,
tr.14].
1.3. Vai trò của việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội và sự ổn định đời sống của người dân. Trong quá trình phát triển đất
nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu,
tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó,
Nhà nước ta đã ban hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho
người bị thu hồi đất, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt
hơn cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất.
Tuy nhiên, đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, trong khi các quy
định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thường xuyên thay đổi dẫn tới tình trạng so
bì, khiếu nại của người có đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng

thực hiện thu hồi đất qua nhiều năm. Mặt khác, Luật đất đai 2003 chưa có cơ chế
bắt buộc để bảo đảm có quỹ đất và nguồn vốn xây dựng khu tái định cư trước khi
thu hồi đất; chất lượng các khu tái định cư được xây dựng cũng chưa đáp ứng yêu
cầu “có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”; chưa chú trọng tạo việc
làm mới, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi; việc lập và tổ chức thực hiện

17


×