Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

BAI THU HOẠCH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THỰC TIỄN TRIỂN KHAI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.14 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN
TƯ VẤN PHÁP LUẬT VÀ HỢP ĐỒNG

Đề tài: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng bằng Trọng tài thương mại –
thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

Họ và tên:
Sinh ngày:
SBD: 049
Lớp Luật sư

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................2
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tại..............................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.........................................................................4
4. Kết cấu đề tài...................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................5
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI..............................5
1. Lịch sử hình thành và phát triển Trọng tài Thương mại Việt Nam.................................5
2. Khái niệm trọng tài thương mại......................................................................................8
3. Các hình thức Trọng tài thương mại...............................................................................8
4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại...............9
5. Thẩm quyền của trọng tài thương mại..........................................................................10


CHƯƠNG II: THỰC TIỄN THỰC HIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI.............................................................................................................11
1. Ưu điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại...........................................11
2. Nhược điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.....................................12
3. Thực tế tại Việt Nam.....................................................................................................13
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT..................................................16
KẾT THÚC...............................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................18

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Việt Nam đã gia nhập WTO đã đặt ra
những cơ hội và thách thức, thúc đẩy đại đa số các mặt của nền kinh tế quốc nội
phát triển theo thể chế thị trường cả trong lẫn ngoài nước kéo theo sự phát triển
song hành của hoạt động kinh doanh thương mại bắt buộc tạo ra những đòi hỏi
về các quy định, thể chế tiến bộ để điều chỉnh kịp thời các quan hệ tranh chấp
phát sinh trong quá trình này nhằm theo kịp tiến độ tăng trưởng phát triển của
nền kinh tế thị trường.
Thông thường và theo đa số tiền lệ, khi có tranh chấp các bên sẽ lực chọn
hình thức tranh chấp tại Tòa án để chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích của
mình, tuy nhiên đối với hình thức tranh chấp thông qua Tòa án luôn đòi hỏi tuân
thủ chặt chẽ các quy định tố tụng, với tất cả những dự liệu trong Luật Tố tụng
dân sự 2015, Luật Thương Mại, Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ … và rất
nhiều các văn bản pháp luật nội dung khác làm phát sinh rất nhiều tình tiết phức
tạp trong tranh chấp thực tiễn, do đòi hỏi tính khách quan cao cho các bên tham
gia nên các tình tiết dữ kiện phải được chứng minh chặt chẽ. Mặt tiến bộ của
tranh chấp tại Tòa án là quyền và lợi ích được bảo vệ tối đa, được xét xử hai cấp,

được Tái thẩm; Giám đốc thẩm… Tuy nhiên mặt trái của nó là thời gian giải
quyết kéo dài dẫn dến ảnh hưởng không nhỏ; các thiệt hại có thể xét thấy hay
phải gánh chịu trực tiếp.Vì vậy đặt ra nhu cầu cấp thiết là cần phải giải quyết
tranh chấp nhanh gọn; hiệu quả; khả năng chứng minh; bảo vệ quyền và lợi ích
cao, tổ chức nào sẽ thực thi giải quyết một cách có hiệu quả, nhanh gọn, tránh
những tổn thất quá lớn cho doanh nghiệp?
Để đáp ứng cho nhu cầu đó, Chính phủ nỗ lực hoàn chỉnh khung pháp lý
cho hoạt động Trọng tài bằng việc ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại
năm 2003, sau đó là Luật Trong tài thương mại 2010 thì việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại đã chuyển biến và mang lại các dấu hiệu tích
cực, từ việc mở rộng phạm vi hoạt động và quyền hạn của các Trung tâm Trọng
tài (sau đây gọi tắt là TTTT) đến sự quan tâm thực sự từ các cá nhân và tổ chức
kinh doanh trong mọi lĩnh vực. Trong thực tiễn, các thõa thuận Trọng tài thương
mại đã được sử dụng rất phổ biến khi soạn thảo các điều khoản về giải quyết
tranh chấp trong Hợp đồng thương mại, các bên trong quan hệ giao dịch thường
quy định việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài thương mại, đặc
biệt là khi quan hệ giao dịch này có yếu tố nước ngoài.
3


Việc lựa chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài
thương mại - Thực tiễn triển khai và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật”
để có cái nhìn thực tiễn trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh
doanh bằng trọng tài thương mại, để từ đó đề xuất ra những kiến nghị để hoàn
thiện quy định của pháp luật hiện hành.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tại.
- Hệ thống quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng phương
thức Trọng tài thương mại.
- Thực tiễn giải quyết các tranh chấp bằng phương thức trọng tài thương
mại.

- Để xuất kiến nghị để góp phần hoàn thành quy định của pháp luật giải
quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài thương mại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu: trọng tài thương mại - phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trong
tài thương mại 2010.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Thỏa thuận trọng tài theo quy định của pháp luật.
+ Thực tiễn thực hiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại: ưu
điểm, nhược điểm.
+ Nguyên nhân hạn chế.
+ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4. Kết cấu đề tài.
Gồm 3 Chương:
Chương I: Khái quát chung về trọng tài thương mại.
Chương II: Thực tiễn thực hiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Lịch sử hình thành và phát triển Trọng tài Thương mại Việt Nam.
Xét về mặt lịch sử, Trọng tài kinh tế xuất hiện và phát triển cùng với sự ra
đời của chế độ hợp đồng kinh tế. Năm 1960, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị
định số 04/TTg ngày 04/01/1960 để ban hành Điều lệ tạm thời về Hợp đồng
kinh tế. Ngày 14/11/1960, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số
20/TTg về Tổ chức Trọng tài kinh tế Nhà nước. Theo Nghị định này, ngành
Trọng tài kinh tế được tổ chức ở cấp Trung ương, khu, thành phố, tỉnh và bộ với

chức năng chủ yếu là xử lý các tranh chấp hợp đồng kinh tế. Quy định này nhằm
làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của các bộ quản lý ngành kinh tế – kỹ
thuật, thể hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ, tích cực xây dựng cấp huyện và phân định trách
nhiệm giữa huyện và tỉnh, thành phố.
Tiếp theo, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 54-CP ngày
10/03/1975 về chế độ hợp đồng kinh tế thay Nghị định số 04-TTg, thì ngày
14/04/1975, Chính phủ đã ra Nghị định số 75-CP để ban hành Điều lệ Tổ chức
và hoạt động của Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo Bản Điều lệ này, Trọng tài
kinh tế được thành lập như một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý công tác
hợp đồng kinh tế. Đó là chức năng giữ vững tính kỷ luật Nhà nước về hợp đồng
kinh tế, giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế và xử lý vi phạm hợp
đồng kinh tế.
Với Nghị định số 24/HĐBT ngày 10/08/1981 của Hội đồng Bộ trưởng, Hội
đồng Trọng tài kinh tế được thống nhất tên gọi là Trọng tài kinh tế, ngạch Trọng
tài viên được xác lập. Ngày 17/04/1984, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị
định số 62/HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy
của Trọng tài kinh tế bộ, tỉnh, huyện. Trọng tài kinh tế cấp huyện được thành lập
theo Nghị định này. Ngày 10/01/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh
về Trọng tài kinh tế quy định tổ chức, phân cấp thẩm quyền, thủ tục giải quyết
tranh chấp hợp đồng kinh tế. Đặc biệt, Pháp lệnh Trọng tài kinh tế đã bỏ Trọng
tài cấp Bộ, nguyên tắc các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn Trọng tài đứng ra
giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế được ghi nhận.
Như vậy, Trọng tài kinh tế là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan chấp hành và
điều hành của Nhà nước (Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban nhân dân các cấp), có
5


chức năng quản lý nhà nước đối với công tác hợp đồng kinh tế. Nét đặc thù của
Trọng tài kinh tế thể hiện ở chỗ, hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm

hợp đồng kinh tế cũng chính là phương tiện để đạt được mục đích trực tiếp điều
hành, tổ chức các quan hệ kinh tế.
Nhìn khái quát từ góc độ lịch sử, ta thấy Trọng tài kinh tế từ chỗ là cơ quan
Nhà nước có chức năng chủ yếu là xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế (Nghị
định số 20/TTg ngày 14/01/1960), đã phát triển thành một cơ quan Nhà nước có
chức năng chủ yếu là quản lý công tác hợp đồng kinh tế (Nghị định số 75/CP
ngày 14/04/1975, Nghị định số 24/HĐBT ngày 10/08/1981, Nghị định số
62/HĐBT ngày 17/04/1984, Pháp lệnh Trọng tài kinh tế ngày 12/01/1990). Quá
trình phát triển đó của Trọng tài kinh tế tương ứng với việc ngày càng mở rộng
vai trò của hợp đồng kinh tế.
Trọng tài kinh tế Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ: giải quyết tranh chấp
hợp đồng kinh tế; kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật;
hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và Trọng tài kinh tế; bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
Khi đất nước chuyển sang cơ chế kinh tế mới thì sự tồn tại của Trọng tài
kinh tế với chức năng là một cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước – sản
phẩm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung tỏ ra không còn phù hợp. Sự phát triển
đa dạng các loại hình kinh tế cùng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
có hình thức sở hữu khác nhau dẫn đến sự thay đổi cả về hình thức, tính chất của
tranh chấp và đi liền với nó là nội dung tranh chấp. Do vậy, phương thức giải
quyết tranh chấp kinh tế cũng đòi hỏi phải đổi mới. Chính vì vậy, từ ngày
28/12/1993, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân, Tòa kinh tế chuyên trách được hình thành trong hệ thống Tòa án nhân
dân với chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế. Đồng thời, hệ thống trọng
tài được giải thể.
Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hoá các hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị
trường, cũng như góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế, ngày
05/09/1994, Chính phủ đa ban hành Nghị định số 116-CP về tổ chức và hoạt
động của các Trung tâm Trọng tài kinh tế. Theo các quy định của Nghị định này,

Trọng tài kinh tế thực sự được xác định là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tức
là tổ chức phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp theo quy
định, hoàn toàn tách rời với chức năng quản lý Nhà nước như trước đây. Sau gần
6


10 năm thực hiện Nghị định 116-CP, đã có 6 Trung tâm trọng tài được thành lập
với hơn 130 trọng tài viên.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan và khái quát thì trọng tài chưa
thể hiện được vai trò của mình với chức năng là một cơ quan tài phán có vai trò
hỗ trợ đắc lực cho Toà án trong việc giải quyết tranh chấp. Nhằm khắc phục
những hạn chế, tăng cường hiệu quả và năng lực của các Trung tâm trọng tài và
đội ngũ Trọng tài viên, ngày 25/02/2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh Trọng tài số 08/2003/PL-UBTVQH và ngày 15/01/2004, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Có thể nói, Pháp lệnh đã mở rộng một
cách đáng kể thẩm quyền cho Trọng tài ở nước ta so với thẩm quyền của Trọng
tài theo Nghị định 116-CP; quy định đầy đủ, rõ ràng về thoả thuận trọng tài, góp
phần chấm dứt tình trạng “lấn quyền của Toà án đối với trọng tài”; tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho việc trở thành Trọng tài viên; ghi nhận hình thức trọng tài mới
là trọng tài vụ việc; mở rộng thẩm quyền chọn Trọng tài viên cho các bên tranh
chấp; ghi nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa Trọng tài với Toà án; nâng cao vị thế
của Trọng tài bằng việc ghi nhận tính được cưỡng chế thi hành của các phán
quyết trọng tài; quy định nhiều cơ chế mới để đảm bảo cho việc thành lập các
Trung tâm trọng tài được chặt chẽ hơn, trên cơ sở đó mà nâng cao chất lượng và
uy tín của các Trung tâm Trọng tài.
Những quy định mới của Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã tạo ra khả
năng vô cùng to lớn cho sự phát triển của Trọng tài thương mại ở nước ta, giúp
giải quyết nhanh chóng các tranh chấp thương mại, giảm bớt gánh nặng của cơ
quan Toà án…. Đồng thời, cùng với các quy định pháp luật khác, pháp luật về

trọng tài đã góp phần tạo nên một hệ thống pháp luật trong sạch, vững mạnh,
phục vụ yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, có thể nhận thấy tại Việt Nam trọng tài đã xuất hiện từ thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa vào những năm đầu của thập kỷ 60 của thế kỷ XX dưới tên
gọi là “trọng tài kinh tế”. Trọng tài kinh tế khi đó có những đặc trưng phản án sự
vận hành của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, vừa mang chức năng quản lý và chức
năng giải quyết tranh chấp; do đó, trọng tài kinh tế ở Việt Nam thời đó không
phải là tổ chức trọng tài theo đúng nghĩa. Chính sách Đổi mới đã dẫn đến sự
phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền dẫn tới sự chấm dứt
tồn tại của một số định chế đặc trưng cho kế hoạch hóa, trong đó có hợp đồng
kinh tế và trọng tài kinh tế. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã dẫn đến nhu
7


cầu thành lập các trung tâm trọng tài đúng nghĩa (phi Chính phủ) ở Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam có 7 trung tâm trọng tài kinh tế đang hoạt động (ACIAC,
VIAC, HCMCAC, HCAC, CCAC, PIAC. VID.ARCE).

2. Khái niệm trọng tài thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này”.
Hình thức Trọng tài thương mại được áp dụng trong các luật như: Luật
Thương Mại, Luật Đầu Tư, Luật Doanh nghiệp, Bộ luật hàng hải... Trong thực
tiễn hoạt động này có nhiều mặt tiến bộ nên được khuyến khích áp dụng phổ
biên trong các lĩnh vực giải quyết hợp đồng hoặc vụ việc kinh tế, thời gian giải
quyết nhanh hơn hoạt động tố tụng tại Tòa án.
Quy định về về trọng tài, trình tự giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được
Quy định khá chi tiết tại Luật trọng tài thương mại 2010.
3. Các hình thức Trọng tài thương mại.

Các hình thức hoạt động của Trọng tài thương mại:
- Trọng tài vụ việc: Khi có phát sinh tranh chấp và có thỏa thuận, các bên
tranh chấp áp dụng Luật Trọng tài thương mại thành lập Trọng tài vụ việc để giải
quyết tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết
xong vụ tranh chấp.
- Trọng tài thường trực (quy chế): ở các nước trên thế giới, Trọng tài
thường trực được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: Trung tâm trọng
tài, Hiệp hội trọng tài hay các việc Trọng tài nhưng chủ yếu và phổ biến dưới
dạng Trung tâm trọng tài. Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được
tổ chức dưới dạng Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính
phủ, có tư các pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch
ổn định, hình thức áp dụng cũng tương tự như Trọng tài vụ việc nhưng khác biệt
lớn nhất là Phán quyết của Trọng tài quy chế có hiệu lực tương tự như Bản án
của Tòa án và có giá trị thi hành án, còn Trọng tài vụ việc thì Phán quyết phải
được đăng ký để bảo đảm thi hành án.

8


4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại.
- Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài: tranh chấp thương mại chỉ được giải
quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó
có hiệu lực.
- Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan: Yêu cầu đặt ra đối
với mỗi Trọng tài viên là phải xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc lập
với các bên và các bên có quyền yêu cầu trọng Tài viên trình bày bất kỳ sự kiện
hoặc chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Việc giải
quyết tranh chấp một cách công bằng, tính độc lập của các trọng tài viên đối với
các bên là vấn đề được quan tâm đặc biệt.

- Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật: đây là một nguyên
tắc rất quan trọng bắt buộc phải tuân thủ trong mọi thủ tục tố tụng cũng như giải
quyết các vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp quyền. Để
giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên - người được các bên có tranh chấp
lựa chọn để giải quyết tranh chấp phải căn cứ theo pháp luật.
- Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên: Cũng
như trong các hình thức tố tụng khác, Khi giải quyết tranh chấp bằng hình thức
Trọng tài thương mại, các Trọng tài viên có nghĩa vụ phải tôn trọng sự thỏa
thuận của các bên và tạo điều kiện cho các bên thực hiện quyền lợi này để đi đến
giải quyết vụ việc một cách hiệu quả đạt được sự đồng thuận cao và phòng ngừa
các tranh chấp phát sinh về sau. Về hậu quả pháp lý thì việc thõa thuận tại Trọng
tài thương mại cũng giống như trong các lĩnh vực tố tụng khác, các bên có nghĩa
vụ phải thực hiện và không được hủy thỏa thuận, đồng thời Tòa án cũng không
thụ lý hay xem xét lại các trường hợp công nhận thỏa thuận trong Trọng tài
thương mại chỉ ngoại trừ trường hợp vi phạm các điều cấm hoặc sai trình tự thủ
tục của Luật định.
- Nguyên tắc giải quyết một lần: Như đã nói một phần ở trên với tư cách là
một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên nên
phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không có thủ tục
giám đốc thẩm, tái thêm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, các
tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.

9


5. Thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp Thương mại
được theo quy định pháp luật, điều kiện đặt ra là các tranh chấp này phát sinh

trong hoạt động thương mại giữa các chủ thể tham gia và các bên có thỏa thuận
trọng tài. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền
giải quyết của trọng tài thương mại.
Trên cơ sở Luật trọng tài 2010 và các văn bản pháp luật hiện hành có liên
quan, thẩm quyền của trọng tài thương mại phải hôi tụ đủ 2 điều kiện:
Thứ nhất: Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương
mại phải là tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh.
Trọng tài thương mại Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên là cá nhân kinh doanh
hoặc tổ chức kinh doanh. So với pháp luật một số nước trên thế giới, pháp luật
Việt Nam ta không mở rộng hoàn toàn thẩm quyền của trọng tài thương mại.
Thứ hai: Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ.
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đồng thuận lập ra khi thực
hiện các hoạt động thương mại ngay khi từ khi bắt đầu hoặc bổ sung bất kỳ thời
điểm nào trong quá trình thực hiện hoạt động thương mại, được ghi nhận hợp lệ
theo quy định pháp luật. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi
có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Nguyên tắc chung là “không có thỏa
thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó đáp ứng đầy đủ các
điều kiện theo quy định pháp luật, không bị vô hiệu. Trường hợp ngược lại khi
thỏa thuận trọng tài không đúng quy định thì ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài
nhưng nếu thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm
quyền giải quyết. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại
Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010. Vấn đề đặt ra đòi hỏi các bên phải
nghiên cứu thật kỹ các chế định trọng tài, làm tốt công tác phòng ngừa rủi ro do
thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu.

10



CHƯƠNG II: THỰC TIỄN THỰC HIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
1. Ưu điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng
Trọng tài cho thấy có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, quyết định của Trọng tài là chung thẩm có giá trị tương đương
với bản án hay sự công nhận thỏa thuận của Tòa án bắt buộc đối với các bên, các
bên không thể kiến nghị hay kháng cáo và có giá trị thi hành án. Trọng tài chỉ
xét xử một cấp, đó cũng chính là điều hoàn toàn khác biệt với xét xử tại Tòa án
bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi
tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn
tại.
Thứ hai, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới các thỏa thuận. Hội đồng
Trọng tài xét xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định
để giải quyết vụ kiện, do đó các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến
cuối, vì vậy họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ
việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết
tranh chấp thông qua đàm phán.
Thứ ba, trọng tài xét xử kín, Trọng tài thương mại Việt Nam cũng như hầu
hết các quy định pháp luật về Trọng tài của các quốc gia đều thừa nhận nguyên
tắc Trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm
quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị
đem ra công khai trước Tòa án, tránh được việc các bên thứ ba khai thác thông
tin tạo ra những yếu tố ảnh hưởng đến các bên đương sự đồng thời cũng bảo
đảm tính bảo mật trong quá trình giải quyết vụ việc điều mà các doanh nghiệp
luôn xem là cấp thiết cần được bảo vệ trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ tư, Trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của các
chuyên gia trong tiến trình xét xử, điều này được thể hiện ở quyền chọn Trọng
tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình
độ, năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về

các lĩnh vực chuyên biệt như xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ,
chứng khoán, đầu tư và đặc biệt là các vấn đề thương mại có yếu tố nước
ngoài…

11


Thứ năm, quá trình xét xử giải quyết vụ án của Trọng tài nhanh gọn hơn rất
nhiều lần so với xét xử thông qua Tòa án do đó tiết kiệm thời gian, chi phí và
tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án bắt buộc phải tuân thủ quy định tố
tụng chặt chẽ, áp lực về số lượng vụ việc vụ án phải giải quyết nhiều tranh chấp
cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng, chậm trễ là điều không thể tránh
khỏi khi xét xử tại Tòa án.
Thứ sáu, đặc thù việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thể hiện tính
năng động, linh hoạt và mềm dẻo, do đó dễ thích ứng hơn so với giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án. Tòa án khi xét xử luôn đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Thực tiễn cho thấy giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài VIAC thường được giải quyết nhanh gọn,
trường hợp có kéo dài cũng chỉ tối đa là 6 tháng, trong khi đó giải quyết tranh
chấp tại Tòa mất nhiều thời gian hơn.
Thứ bảy, việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài đảm bảo tính bí mật cao và
vì vậy sẽ tránh được những ảnh hưởng nhiều mặt do việc phải công khai tranh
chấp tại Tòa án, các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm
ăn vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các
bên rơi vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một
người chiến thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc. Việc xét xử tranh
chấp bằng Trọng tài trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng
thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng,

mang nặng tính trao đổi để tìm ra sự thật khách quan của vụ/việc. Đó chính là
những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ
thiện chí đối với nhau. Hơn nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một bên
sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra
trong tương lai. Với những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài đã ngày càng trở thành một phương thức tố tụng kinh doanh - thương
mại hữu hiệu và được các bên lựa chọn bên ngoài tố tụng bằng Tòa án.
2. Nhược điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó
tránh khỏi, đó là:

12


Thứ nhất, sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp bằng con
đường trọng tài thương mại chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác
của các bên tranh chấp. Mà các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực
sự quan tâm nhiều đến việc lường trước các tranh chấp sẽ phát sinh nên vẫn còn
tình trạng mơ hồ về hình thức trọng tài thương mại nói riêng, cũng như các
phương thức giải quyết tranh chấp khác nói chung.
Thứ hai, Giải quyêt vụ việc bằng hình thức Trọng tài mại thường đòi hỏi
chi phí cao hơn Tòa án nhiều lần, kết quả đạt được có được thi hành hiệu quả
hay không sẽ phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ thi hành.
Thứ ba, Tố tụng trọng tài so với tố tụng toà án nó cũng có những điểm yếu
nhất định bởi thời gian chuẩn bị, xét xử và đưa ra quyết định cuối cùng khá ngắn
đồng thời khi quyết đinh trọng tài thỏa mãn các quy định pháp luật hiện hành thì
các bên không thể khiếu nại hay kháng cáo, xét về mức độ chi tiết thì có thể
nhận thấy rủi ro hoặc thậm chí chưa đủ thời gian để bảo vệ hiệu quả. Vì vậy
ngay từ thời điểm chọn Trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp đòi hỏi

các bên phải có sự chuẩn bị kỹ càng, phải dự liệu và có kế hoạch giải quyết từ
trước khi có tranh chấp.
3. Thực tế tại Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng gia tăng, ngày 25/4/2003, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Tiếp đó, Luật Trọng
tài thương mại, được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2011, khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền
của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, cho phép trọng tài viên là người
nước ngoài cũng như thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam.
Pháp luật về trọng tài và hòa giải ngày càng được hoàn thiện. Nhà nước
tiếp tục chủ trương khuyến khích phát triển trọng tài và có nhiều chính sách để
nâng cao hiệu quả hoạt động của phương thức trọng tài. Trong năm 2017, Bộ Tư
pháp đã xây dựng đề án nâng cao năng lực đội ngũ trọng tài viên, trung tâm
trọng tài và định hướng một hoặc một số trung tâm trọng tài điểm có khả năng
cạnh tranh quốc tế giai đoạn 2018 – 2023 với quan điểm chỉ đạo đó là thể chế
hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về khuyến khích
việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài;
tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó. Bên cạnh đó, việc
xây dựng đề án nhằm mục đích góp phần nâng cao chất lượng và hỗ trợ phát

13


triển phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, thúc đẩy nhu cầu sử dụng
dịch vụ trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm giảm tải
công tác xét xử của Tòa án qua đó góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh, hội nhập quốc tế.

14



Với những diễn biến thuận lợi trên đây, bài viết xin tóm lược đơn cử số liêu
của trung tâm trọng tài VIAC. Kể từ khi VIAC đi vào hoạt động năm 1993 đến
hết năm 2017 đã tiếp nhận giải quyết 1308 vụ, tỉ trọng gia tăng số vụ việc hàng
năm là 17%, giai đoạn tăng nhiều nhất là 93% (thời điểm 2007 – 2008), Riêng
năm 2017 VIAC đã tiếp nhận và giải quyết 151 vụ tranh chấp với tổng trị giá lên
đến 1.400 tỷ đồng. Trong số đó, tranh chấp trong nước chiếm tỷ lệ 71,52% – cao
nhất trong các năm. Tranh chấp có yếu tố nước ngoài chiếm 28,48%. Hiện nay
đã có trên 60 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới có doanh nghiệp có tranh
chấp được giải quyết tại VIAC. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Singapore vẫn tiếp tục
là những quốc gia có số lượng doanh nghiệp tham gia giải quyết tranh chấp
nhiều nhất tại VIAC. Thống kê cho thấy, cộng đồng doanh nghiệp ngày càng
quan tâm và lựa chọn VIAC nhiều hơn. Ngoài các địa bàn kinh tế trọng điểm
(Hà Nội, TP HCM, Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai v.v…), đã xuất hiện
những doanh nghiệp tại các địa phương khác cũng đã sử dụng VIAC để giải
quyết tranh chấp. Tính đến nay đã có 36/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương có doanh nghiệp có tranh chấp tại VIAC. Nhiều doanh nghiệp tập đoàn lớn
trong nước và nước ngoài, các doanh nghiệp FDI tiếp tục tin tưởng lựa chọn
VIAC để giải quyết tranh chấp. Lĩnh vực tranh chấp ngày càng phong phú, đa
dạng hơn và liên quan đến tất cả các lĩnh vực thương mại gồm thương mại hàng
hóa, thương mại dịch vụ và thương mại đầu tư.
Với mục đích nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp, Nhà nước không
ngừng xây dựng phát triển hệ thống hành lang pháp luật hoạt động cho Trọng tài
thương mại, đồng thời VIAC không ngừng cải tiến quy trình, thủ tục nhằm tạo
điều kiện thuận lợi tối đa cho các bên tranh chấp. Năm 2017 Quy tắc tố tụng
trọng tài được ban hành, được đánh giá mang lại nhiều lợi ích tích cực cho cộng
đồng doanh nghiệp. Ba điểm mới đáng chú ý nhất của Quy tắc 2017 là quy định
về tranh chấp từ nhiều hợp đồng (Điều 6), gộp nhiều vụ tranh chấp vào một vụ
tranh chấp (Điều 15) và thủ tục rút gọn (Điều 37). Các quy định mới này giúp
các bên tiết kiệm được rất nhiều thời gian và giảm được khoảng 15% chi phí

trọng tài. Bên cạnh đó còn giúp việc giải quyết tranh chấp được thống nhất, toàn
diện hơn. Đặc biệt với quy định mới về thủ tục rút gọn tại Điều 37, thời gian giải
quyết được rút ngắn, một số thủ tục tố tụng có thể rút gọn. Quy tắc 2017 là một
điểm sáng thể hiện VIAC đã đáp ứng được yêu cầu của cộng đồng doanh nghiệp
trong việc lựa chọn phương thức giải quyết nhanh chóng, linh hoạt và hiệu quả.

15


CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
Thứ nhất, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với xu thế
phát triển chung thế giới. Cần có giải pháp tiệm cận các chế định giữa Trọng Tài
Thương mại Việt Nam và Trọng tài thương mại quốc tế xây dựng hành lang
pháp lý đa dạng, tuân thủ các quy tắc chung, đáp ứng tốt các đặc điểm kinh tế thị
trường và xu thế toàn cầu hóa. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
thương mại luôn được các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đánh giá là
phương thức giải quyết tranh chấp trong tương lai với nhiều ưu điểm nổi trội về
áp dụng luật, phương pháp, bảo mật, thời gian giải quyết vụ việc tranh chấp...
Do vậy, Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng
và bền vững thì phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp với xu thế phát triển chung.
Thứ hai, Nhà nước cũng cần có hành động cụ thể nhằm hỗ trợ cơ chế cho
hoạt động này. Xây dựng các kênh đối thoại, hội thảo, chuyên đề để phổ biến
không chỉ đối với các chế định Trọng tài thương mại mà còn là hầu hết các quy
định pháp luật về kinh tế nhằm tăng cường sự hiểu biết pháp luật, hiểu biết về
Trọng tài thương mại để ứng dụng nhiều hơn và phát huy hiệu quả trong thực
tiễn. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài cũng cần đến cơ
chế phối hợp từ các cơ quan nhà nước, trực tiếp là hệ thống toà án, cần mở rộng
hơn nữa mức độ hỗ trợ của cơ quan thi hành án đối với các phán quyết của
Trọng tài vụ việc.

Thứ ba, mỗi trung tâm trọng tài cũng phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
trọng tài viên, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Đặc biệt, công tác
nghiên cứu và giảng dạy pháp luật trọng tài là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của mô hình. Vì thế, cần bồi dưỡng năng lực cũng như định hướng cho
sinh viên, đặc biệt là sinh viên luật và kinh tế về những vấn đề cơ bản trong
pháp luật trọng tài.
Thứ tư, Xây dựng chương trình đào tạo Trọng tài viên chuyên nghiệp
tương tự như hình thức đào tạo các chuyên môn như Thẩm phán, Luật sư, Công
chứng viên… với mục đích chuẩn hóa và tăng cường hơn nữa năng lực chuyên
môn của đội ngũ Trọng tài viên, nếu có thể thực hiện chính sách này sẽ góp phần
giảm tải cho Tòa án rất nhiều vì khi được đào tạo và công nhận chính thức từ cơ
quan tư pháp cao nhất thì việc lựa chọn Trọng tài vụ việc sẽ không còn là vấn đề
còn nhiều đắn đo đặt ra nhiều câu hỏi khi lựa chọn Trọng tài vụ việc như: năng

16


lực chuyên môn, quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp, mức độ công tâm, tính đối
trọng trong hội đồng Trọng tài…
KẾT THÚC
Với xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, các tranh chấp sẽ diễn ra
thường xuyên, phổ biến và gia tăng về số lượng, gia tăng tính chất phức tạp cùng
vợi sự phát triển về quy mô, nhịp độ, các loại, dạng hoạt động thương mại trong
phạm vi quốc gia, cũng như quốc tế. Trong bối cảnh đó, giải quyết nhanh, gọn,
có hiệu quả, hợp lý các tranh chấp thương mại càng trở nên cần thiết đối với
mục tiêu thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại. Từ đó, tạo điều kiện để
hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra một cách suôn sẻ, không gặp ách tắc,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh được bảo đảm mà còn tạo môi
trường tâm lý tốt cho các thương nhân yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, kinh
doanh. Với những ưu điểm rõ rệt của trọng tài thương mại và với xu hướng được

sử dụng rộng rãi trong đời sống thương mại ở hầu khắp các quốc gia trên thế
giới, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước
phát triển và trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp
trong tranh chấp quan hệ kinh tế.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2. Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
4. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
5. Quy tắc Tố tụng trọng tài 2017.
6. Nghị định của Chính phủ số 63/2011/NĐ-CP ngày 28/07/2011 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trọng tài thương mại.
7. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số
01/2014/NĐ-HĐTP ngày 20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định
Luật trọng tài thương mại.
8. Thống kê về tranh chấp trọng tài thương mại tại Việt Nam />9. Lịch sử hình thành và phát triển chế định Trọng tài tại Việt Nam - trích dẫn bài việc của dangthanglawyer.wordpress.com -

18



×