Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự việt Nam từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------

TRẦN THỊ HỒNG CÚC

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------

TRẦN THỊ HỒNG CÚC

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI ..............................7
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội

............................................................................................................................7

1.2. Quy định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường phạm nhiều
tội

..........................................................................................................................34

Chương 2 THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH..................40
2.1. Tổng quan kết quả giải quyết các vụ án phạm nhiều tội tại Quận 9, Thành phố
Hồ Chí Minh .............................................................................................................40
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội tại Quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh ...........................................................................................41
2.3. Những tồn tại và hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ...........................46

2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội ....................................................................................................50
2.5. Sự cần thiết phải hoàn thiện Bộ luật hình sự quy định về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội và nâng cao hiệu quả áp dụng ..............................54
Chương 3 GIẢI PHÁP QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI ĐÚNG ...................................................................................58
3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội ..............................................................................58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ......................................................60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

QĐHP

Quyết định hình phạt


TNHS

Trách nhiệm hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự là
một quá trình phức tạp, nhiều mặt, được tiến hành qua những giai đoạn nhất định:
giải thích các đạo luật hình sự; xác định hiệu lực của đạo luật đó về không gian và
thời gian; định tội danh; quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và hình
phạt; xóa án tích … Việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự là một trong những
phương pháp đưa quy phạm đó vào cuộc sống.
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một nội dung
quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc
biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chỉ
Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam và Điều 30 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ
luật này, do Tòa án quyết định áp dụng…”. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà
nước được Nhà nước giao cho Tòa án nhân dân, nhân danh nhà nước quyết định áp
dụng đối với người phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài Tòa án
nhân dân có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án căn cứ vào luật hình sự tuyên bố áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với họ
về việc thực hiện tội phạm, là sự trừng trị người phạm tội.
Quyết định hình phạt là một hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, là một dạng
hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình sự, do Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Nó là
một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết định hình phạt Tòa án

phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau và kết quả hoạt
động của mình ở giai đoạn xét xử. Quyết định hình phạt là quá trình sử dụng kết quả
điều tra, kết quả truy tô, kết quả thẩm vấn, tranh luận; là quá trình đối chiếu các tình
tiết của một vụ án hình sự cụ thể với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ
thể gắn liền với việc đánh giá con người cụ thể đã thực hiện tội phạm để xác định
1


một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và
phòng ngừa tội phạm.
Phạm nhiều tội là một chế định rất phức tạp trong chế định đa tội phạm. Hiện
nay, trong BLHS năm 2015 chưa có quy định riêng về khái niệm phạm nhiều tội mà
chỉ được nhắc đến trong quy định tại Điều 55: “Quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội”; mặt khác, về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định
này còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các yếu tố định tội danh, căn cứ
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Hiện nay, cả nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giao lưu
hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, mặt trái của
nền kinh tế thị trường kéo theo tình hình xã hội ngày càng phức tạp, tội phạm ngày
càng gia tăng, hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm, đặc biệt hàng năm nhóm tội
phạm và các trường hợp phạm nhiều tội có dấu hiệu tăng đáng kể.
BLHS lần đầu tiên của nước ta, thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/1986. Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự để phục vụ kịp
thời công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai đoạn cụ thể, nhà nước
ta đã bốn lần sửa đổi, bổ sung bộ luật này. Ngày 21/12/1999, Quốc hội nước ta đã
thông qua BLHS mới thay thế BLHS năm 1985. Đến ngày 27/11/2015 Quốc hội
thông qua BLHS số 100/2015/QH13, được sửa đổi, bổ sung ngày 20/6/2017. Muốn
định tội danh và quyết định hình phạt đúng và chính xác trong từng giai đoạn của
quá trình tố tụng hình sự thì điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm

nhân dân phải xác định đầy đủ chính xác các tình tiết khách quan của vụ án, nhận
thức, áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự. Qua thực tế giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử cho thấy việc định tội danh và quyết định hình phạt
thường gặp khó khăn và có sai sót, trong đó có việc quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội.
Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật
hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định
2


trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với
người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.
Thực tiễn xét xử của các tòa án ở nước ta hiện nay cho thấy còn có những
thiếu sót, hạn chế nhất định nhất là trong hoạt động quyết định hình phạt trong
nhiều trường hợp định tội danh sai hoặc bỏ lọt tội phạm dẫn đến việc quyết định
hình phạt không tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội (quá nặng sẽ làm cho người bị kết án không tin tưởng vào tính công
bằng của pháp luật, sự công minh của các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc quá nhẹ sẽ
làm cho người bị kết án và những người khác có thái độ xem thường pháp luật)
hoặc oan sai, trong đó số vụ án bị áp dụng hình phạt không chính xác trong trường
hợp đặc biệt (trường hợp phạm nhiều tội) chiếm tỷ lệ cao hơn so với quyết định
hình phạt trong trường hợp thông thường.
Trước sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm việc nghiên
cứu về hoạt động quyết định hình phạt đối với chế định phạm nhiều tội trong luật
hình sự Việt nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng không những về mặt lý luận mà
còn là đòi hỏi của thực tiễn áp dụng nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế
định này trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Hơn nữa, trong thực tiễn xét xử tại Tòa án
nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh số lượng án giải quyết còn ít và còn có
sai sót trong việc qyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội. Vì vậy,
việc nghiên cứu, đánh giá hoạt động thực tiễn và từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả áp dụng pháp luật khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội là vấn đề có tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn
đối với ngành Tòa án nhân dân nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung
trong tình hình hiện nay.
Từ những phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự việt Nam từ thực tiễn
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số công trình của các nhà khoa học mới chỉ tập trung đi sâu vào một vấn
đề hoặc là định tội danh hoặc là quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội như:
- Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam trong sách “Tội phạm
học luật hình sự và tố tụng hình sự” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, NXB Chính trị
quốc gia,1995;
- “Quyết định hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam” trong sách “Hình phạt
trong Luật hình sự Việt Nam’của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, NXB Chính trị Quốc
Gia, 1995;
Ngoài ra còn nhiều bài viết và những công trình nghiên cứu khác như:
- “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” (Luận văn tiến sĩ Luật
học, HN, 2003) của tác giả Dương Tuyết Miên;
- “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” (Luận văn thạc sĩ Luật
học, HN, 1996) của tác giả Trần Văn Sơn;
Nhìn chung các công trình trên mới đề cập đến một số khía cạnh cụ thể có
tính chất khái quát về quyết định hình phạt, mà chưa đi nghiên cứu vấn đề quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội một cách toàn diện và chi tiết cả về
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, đây vẫn là đề tài cần được tiếp tục tìm hiểu và nghiên

cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện
hành về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, thực tiễn áp dụng
quy định các quy định này; từ đó đề xuất ý kiến hoàn thiện những quy định đó, góp
phần nâng cao hiệu quả của quyết định hình phạt.
Nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề chung về phạm nhiều tội, quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; đánh giá khái quát về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội. Phân tích những nội dung của các quy định và
đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Luật hình sự hiện hành về quyết định
4


hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, từ đó đưa ra kiến nghị và đề xuất giải
pháp hoàn thiện pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm lý
luận, quy định của pháp luật và thực tiễn quyết định hình phạt trên địa bàn Quận 9,
Thành phố Hồ Chí Minh trong trường hợp phạm nhiều tội.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật hình sự,
chủ yếu dựa trên cơ sở của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung n ă m 2009 và BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung n ă m 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên thành tựu của khoa học pháp lý về quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và dựa vào cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, định hướng của Đảng về
chính sách hình Sự, đường lối xử lý tội phạm.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Một số phương
pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tich và tổng hợp số liệu dựa trên

những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án. Phương
pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm
tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nhận thức đầy đủ về những vấn đề lý luận và pháp lý về quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và vận dụng trong quá trình hoạt động thực
tiễn xét xử, nhằm đảm bảo hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
tránh gây thiệt hại cho các quyền và tự do của công dân. Luận văn còn có thể sử
dụng để tham khảo để biên soạn tài liệu tham khảo, tài liệu tập huấn nghiệp vụ cho
các chức danh tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
5


Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp lý về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội.
Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các giải pháp quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội đúng.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của trường hợp phạm nhiều tội
1.1.1.1. Khái niệm phạm nhiều tội
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về tội phạm và trách nhiệm hình sự của
người phạm tội. Tội phạm quy định trong BLHS Việt Nam là tội phạm riêng lẻ và
các tội phạm được thực hiện có thể mang tính chất độc lập hoặc liên quan đến nhau.
Thực tế cho thấy rằng, trường hợp phạm nhiều tội xảy ra rất nhiều trên thực tế với
tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp phạm tội đơn lẻ. Do sự
khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm dẫn đến sự khác nhau về trách nhiệm
hình sự giữa trường hợp phạm nhiều tội và phạm tội đơn lẻ mà không đơn thuần chỉ
là phép cộng hình phạt thông thường.
Do đó, BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 đều đề cập và
quy định khá cụ thể về định tội danh và quyết định hình phạt liên quan đến trường
hợp phạm nhiều tội. Mặc dù vậy, cả ba Bộ luật hình sự này đều chưa đưa ra khái
niệm “phạm nhiều tội’, do đó để có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc định tội danh
và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ta cần phải xác định khái
niệm phạm nhiều tội.
Qua nghiên cứu và thực tiễn đã có tổng kết về khái niệm phạm nhiều tội,
“Phạm nhiều tội” gồm hai khái niệm “phạm tội” và “nhiều”. Trong đó, phạm tội là
hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm được mô tả trong các quy định của BLHS,
nhiều được hiểu là từ hai trở lên.
Theo nghĩa này Từ điển luật học đã xây dựng khái niệm phạm nhiều tội như
sau: “Chủ thể có nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ có một hành vi mà hành
vi đã thực hiện đó thỏa mãn cấu thành tội phạm khác nhau thì phạm nhiều tội”. [23,
tr. 45]
7


Theo nghĩa hẹp, phạm nhiều tội gắn với hoạt động định tội danh và quyết
định hình phạt và là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt. Theo nghĩa
này, Điều 55 BLHS năm 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp

phạm nhiều tội và Điều 56 BLHS năm 2015 quy định về tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án thì thời điểm đưa ra xét xử của các tội danh này khác nhau. Hiểu theo
nghĩa như vậy thì Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội đã đưa ra khái niệm về phạm nhiều tội như sau:“Phạm nhiều tội là trường hợp
người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có một hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn
nhiều cấu thành tội phạm khác nhau và bị đưa ra xét xử cùng một lần về các tội
phạm đó”. [20, tr. 285]
Từ những phân tích nêu trên, có thể nêu lên khái niệm về phạm nhiều tội là:
"Phạm nhiều tội là trường hợp một người bị Tòa án đưa ra xét xử cùng một lần
mà người đó phạm từ hai tội trở lên và chưa bị xét xử về tội nào trong số các tội đã
phạm.”
Tuy nhiên, khái niệm về phạm nhiều tội rất dễ bị nhầm lẫn với khái niệm
phạm tội nhiều lần. Do đó, cần phải so sánh sự khác nhau giữa hai khái niệm này để
phân tích rõ ràng và chính xác về khái niệm phạm nhiều tội.
Về mặt bản chất, phạm tội nhiều lần là một tình tiết tăng nặng được quy định
tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 phản ánh trường hợp người phạm tội
thực hiện hành vi ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc cùng một khoản
của điều tương ứng trong phần các tội phạm của BLHS đồng thời với những tội ấy
vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội chưa bị xét xử).
Như vậy, người phạm tội thực hiện từ hai lần trở lên hành vi phạm tội mà mỗi lần
có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản, nhưng lần thứ nhất chưa bị phát
hiện và chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo mức độ tương ứng với cấu thành
tội phạm tăng nặng hoặc đặc biệt tăng nặng. Trong khi đó phạm nhiều tội là trường
hợp một người phạm vào hai tội khác nhau trở lên có thể vào thời điểm khác nhau
hoặc cùng một thời điểm và tất cả những lần phạm tội đó đều chưa bị truy cứu trách
nhiệm hình sự lần nào, nay đưa ra truy cứu cùng một lần.
8


Về khách thể, đối với phạm tội nhiều lần thì chủ thể thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội chỉ xâm phạm vào một khách thể mặc dù đối tượng bị xâm hại có
thể có sự khác nhau. Còn đối với trường hợp phạm nhiều tội là chủ thể thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến các khách thể khác nhau.
Về định tội danh và quyết định hình phạt: Đối với phạm tội nhiều lần, BLHS
quy định phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng TNHS khi đưa ra xét xử cùng một
lúc trong cùng một vụ án. Nếu truy tố và xét xử ở các thời điểm khác nhau thì khi
định tội danh và quyết định hình phạt không áp dụng tình tiết tăng nặng là phạm tội
nhiều lần mà phải theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo Điều
56 BLHS năm 2015. Còn đối với phạm nhiều tội, vụ án được đưa ra xét xử trong
cùng một vụ án, Hội đồng xét xử xem xét định tội danh và quyết định hình phạt đối
với từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt trong cùng một bản án. Trên thực tế khi xét
xử, chúng ta cũng cần phân tích hành vi phạm tội của từng tội, xem có thuộc trường
hợp phạm tội nhiều lần hay không thì áp dụng tình tiết tăng nặng cho tội đó (có thể
áp dụng Điểm g Khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 hoặc những tình tiết đã là yếu tố
định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng TNHS),
sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội đối với bị cáo.
1.1.1.2. Đặc điểm của phạm nhiều tội
Từ những phân tích về khái niệm của phạm nhiều tội, có thể thấy phạm nhiều
tội có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, về số lượng, người phạm tội thực hiện từ hai lần trở lên hành vi
nguy hiểm cho xã hội hoặc chỉ một lần thực hiện cùng lúc hai hành vi nguy hiểm
cho xã hội trở lên và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về từng lần đó.
Thứ hai, các hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy trong mỗi lần thực hiện bao
giờ cũng phải có đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập hay nói cách
khác các hành vi đó phải được quy định trong các điều luật khác nhau của BLHS.
Thứ ba, tội phạm do một điều luật (hoặc một khoản của điều luật) tương ứng
trong phần các tội phạm của BLHS quy định.
9



Thứ tư, các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và người thực hiện hành vi đó chưa bị đưa ra xét xử một lần nào về
một trong những hành vi nguy hiểm đã thực hiện nay đưa ra xét xử cùng một lần.
Từ những đặc điểm trên, có thể nhận thấy tính chất mức độ nguy hiểm cho
xã hội trong trường hợp phạm nhiều tội. Quyết định hình phạt phù hợp với các tội
mà người phạm tội mắc phải thì vấn đề xác định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội là một vấn đề rất quan trọng. Chính vì vậy, khi xét tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm nhiều tội là rất nguy hiểm
bởi hành vi xâm phạm nhiều khách thể; hậu quả của nó thường lớn hơn so với việc
phạm tội đơn lẻ. Về mức độ ý chí của người phạm tội trong trường hợp này cũng
thường nguy hiểm hơn cho xã hội. Nên cần phải xác định chính xác được người
phạm tội có phạm nhiều tội hay không để áp dụng đúng các quy định của pháp luật
một cách phù hợp, đúng quy định của pháp luật, buộc người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự đúng với tội danh mà mình thực hiện, đảm bảo yếu tố răn đe,
giáo dục người phạm tội.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội
1.1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Mặc dù thuật ngữ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đã
có thời gian dài được sử dụng nhưng vẫn chưa có một văn bản pháp luật chính thức
nào đưa ra khái niệm này. Việc nghiên cứu xây dựng định nghĩa về thuật ngữ này
hầu như chỉ được các nhà khoa học luật hình sự quan tâm. Tuy nhiên, trong khoa
học luật hình sự hiện nay cũng có khá nhiều quan điểm về khái niệm quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, nhưng nhìn chung lại khái niệm quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội có thể được hiểu theo hai nghĩa:
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo nghĩa hẹp là việc
“Tòa án lựa chọn ra hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và có thể có cả hình
phạt bổ sung tùy mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người
10



phạm nhiều tội”. Hay nói cách khác, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ
sung.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo nghĩa rộng bao
gồm: Quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện
pháp chấp hành hình phạt, quyết định các biện pháp tư pháp với mục đích thay thế
hoặc hỗ trợ cho hình phạt. Một số tác giả còn cho rằng, quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định
biện pháp xử lý đối với người phạm nhiều tội.
Theo tác giả, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội,
BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn xuất phát từ
nguyên tắc tương xứng giữa hình phạt và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Hình
phạt phải là hậu quả thực tế của hành vi phạm tội. Hay nói cách khác, hình phạt là
hậu quả tất yếu mà người tội phạm phải gánh chịu khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự nghiêm cấm. Do vậy, khi quyết định hình phạt Tòa án
không thể không cân nhắc một cách toàn diện các tình tiết của tội phạm từ các biểu
hiện khách quan bên ngoài như hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả, công cụ,
phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm phạm tội v.v… đến những đặc điểm chủ
quan, cũng như nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Hình phạt chỉ được quyết định trên cơ sở sự đánh giá thống nhất
giữa đặc điểm khách quan và chủ quan của tội phạm. Việc quá coi trọng hay xem
nhẹ một mặt nào đó sẽ làm mất tính đúng đắn, công bằng của hình phạt được quyết
định và tất nhiên mục đích của hình phạt cũng sẽ bị hạn chế.
Do đó, khi quyết định hình phạt Tòa án phải thực hiện nguyên tắc cá thể hóa
hình phạt đối với người phạm tội. Tức là trên cơ sở quy định pháp luật, ý thức pháp
luật mà quyết định loại và mức hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Hình phạt mà
Tòa án lựa chọn phải trong phạm vi chế tài của điều luật quy định trách nhiệm hình

sự đối với tội phạm đó, đảm bảo sự thống nhất về đường lối đấu tranh phòng chống
tội phạm, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. [9, tr. 36]
11


Đối với hình phạt chính, nếu trong khung hình phạt nhà làm luật quy định
nhiều loại hình phạt khác nhau thì quyết định hình phạt. Tòa án lựa chọn một loạt
hình phạt và quyết định mức hình phạt trong phạm vi giới hạn tối thiểu và tối đa
của khung hình phạt đối với loại hình phạt đó để áp dụng đối với người phạm tội.
Đối với một số loại hình phạt không quy định thời hạn như cảnh cáo, trục xuất, tù
chung thân hoặc tử hình thì quyết định hình phạt thực chất chỉ là việc lựa chọn hình
phạt mà thôi, không có bước án định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người
phạm tội.
Đối với hình phạt bổ sung, việc quyết định hình phạt được thực hiện tương tự
như hình phạt chính, tức là Tòa án lựa chọn loại và quyết định mức hình phạt trong
phạm vi cho phép của khung hình phạt để áp dụng kèm theo hình phạt chính nhằm
mục đích bổ sung cho hình phạt chính, mở rộng khả năng pháp lý cho Tòa án có thể
lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái niệm
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là việc xác định giai đoạn
định khung hình phạt có thuộc về hoạt động quyết định hình phạt không? Chúng ta
cần coi giai đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định
hình phạt, thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì định khung hình phạt là
việc làm được thực hiện sau khi xác định xong loại tội danh và hoạt động đầu tiên
xác định giới hạn luật định, hình phạt có thể sẽ được quyết định. Mặt khác, việc
định tội danh phải được thực hiện trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không
phải là các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội
danh xong, cơ quan tố tụng mới xác định khung hình phạt (nếu điều luật về tội
phạm cụ thể chỉ có một khung hình phạt thì tòa án đương nhiên là không phải xác

định khung hình phạt). Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng định khung. Định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến hình phạt quyết
định sai và định khung hình phạt sai sẽ làm thay đổi tội danh mà các bị cáo đã
phạm. Như vậy, định khung hình phạt ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định hình
12


phạt. Do đó, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng định khung hình phạt thuộc
về hoạt động quyết định hình phạt.
Từ những sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng khái niệm quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội cần được hiểu toàn diện như sau: “Quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường
hợp bị cáo đã phạm từ hai tội trở lên mà các tội đó chưa được đưa ra xét xử và
cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.” Khi quyết định hình phạt
đối với người phạm tội trong trường hợp này, Tòa án quyết định cho mỗi tội một
hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung nếu có, sau đó Tòa án sẽ tổng hợp các
hình phạt này theo quy định của BLHS. Khi quyết định hình phạt đối với từng tội,
Tòa án phải tuân thủ các quy định đặc thù áp dụng riêng đối với trường hợp phạm
nhiều tội.
1.1.2.2. Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là xác định loại và
mức hình phạt cụ thể (kể cả hình phạt bổ sung nếu có) trong phạm vi luật cho phép
để áp dụng đối với người phạm nhiều tội.
Việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội phải tuân theo
nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội. Các nguyên tắc chung: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc công bằng. Các
nguyên tắc đặc thù: nguyên tắc cộng toàn bộ, nguyên tắc cộng một phần, nguyên tắc
thu hút và nguyên tắc cùng tồn tại.
Để thực hiện việc quyết định hình phạt một cách chính xác cần phân biệt

quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội với các trường hợp khác như
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội nhiều lần hay trường hợp tổng hợp
hình phạt của nhiều bản án.
Việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội phải tuân theo
một trình tự nhất định, các hình phạt đối với từng tội danh phải được xác định riêng
rồi sau đó mới được tổng hợp lại thành một hình phạt chung.
13


Khi thực hiện việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội,
việc tổng hợp hình phạt phải dựa vào quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015. Trong
mỗi trường hợp, mỗi loại hình phạt đều có những các tổng hợp khác nhau, dựa trên
các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam.
Đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội cũng có những quy định khác
biệt so với trường hợp phạm nhiều tội thông thường. Ngay đối với người chưa thành
niên phạm nhiều tội mà các tội thực hiện ở các thời điểm khác nhau cũng có những
điểm khác nhau nhất định. Việc tổng hợp hình phạt với trường hợp này cũng cần
căn cứ vào các thời điểm phạm tội khác nhau của người chưa thành niên phạm
nhiều tội để đưa ra quyết định hình phạt chính xác.
1.1.2.3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị - xã hội và
pháp lý. Quyết định hình phạt góp phần củng cố và giữ vững pháp chế, trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Hình phạt mà toà án tuyên cho người phạm tội phải tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt
đã tuyên thoả đáng sẽ làm cho người bị kết án thấy được tính chất sai trái của hành
vi của mình cũng như sự cần thiết của bản án đã tuyên cho họ, từ đó họ tự giác tuân
thủ pháp luật; đồng thời hình phạt đã tuyên thoả đáng sẽ đủ sức răn đe những người
không “vững vàng” trong xã hội để họ từ bỏ ý định phạm tội, tự giác chấp hành
pháp luật. Hơn nữa, việc toà án tuyên hình phạt thoả đáng cho người phạm tội sẽ có
tác dụng giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân thấy được

sự nghiêm minh của luật pháp để tự giác tuân thủ pháp luật, tích cực tham gia công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đây cũng là một trong những cách tuyên
truyền pháp luật đạt hiệu quả cao.
Quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được mục đích của hình
phạt: trừng trị và giáo dục. Việc quyết định hình phạt phải đảm bảo cho hình phạt
đã tuyên đạt được cả hai mục đích này. Trừng trị và giáo dục là hai mặt có mối quan
hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và là hai mặt của một thể thống nhất
trong khi quyết định hình phạt và Toà án không được coi nhẹ mặt nào. Chỉ khi hình
14


phạt được quyết định một cách chính xác và công bằng thì mục đích của hình phạt
mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa
phạm tội mới và giáo dục người khác. Hình phạt được quyết định quá nhẹ so với
tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực hiện sẽ sinh ra ở người
phạm tội và ở những ngưòi khác thái độ xem thường pháp luật, còn hình phạt được
quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị kết án sự không tin tưởng vào tính công
bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó dẫn
đến hậu quả là giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở quan trọng để có thể nâng cao hiệu quả
của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau
như xây dựng pháp luật hình sự, quyết định hình phạt, chấp hành hình phạt, tuyên
truyền giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.Trong các yếu tố trên thì quyết định
hình phạt là yếu tố quan trọng nhất.Việc xây dựng hệ thống pháp luật hình sự hoàn
thiện chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình phạt trong thực tế được đúng. Mặt khác,
việc chấp hành hình phạt chỉ phát huy tác dụng nếu toà án quyết định hình phạt
đúng. Những yếu tố xã hội khác đảm bảo hiệu quả của hình phạt như vấn đề tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho công dân để công dân tự giác chấp hành hình phạt sẽ
không thể phát huy tác dụng khi quyết định hình phạt không đúng. Nếu hình phạt
quá nhẹ hay quá nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ

làm cho người bị kết án không thấy được tính nghiêm minh của bản án và từ đó
không tích cực lao động cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội cũng như
gây ra dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng tới niềm tin của
quần chúng nhân dân đối với pháp luật, không động viên được quần chúng tham gia
tích cực vào công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và như vậy hiệu quả của
hình phạt chắc chắn sẽ không đạt được.
1.1.3. Nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Muốn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội tốt thì phải
quyết định hình phạt từng tội tốt từ đó khi tổng hợp hình phạt sẽ đạt hiệu quả và yêu
cầu. Để quyết định hình phạt đối với từng tội thì phải dựa trên các nguyên tắc.
15


Các nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những vấn đề quan trọng
của chế định quyết định hình phạt, bởi vì, việc quyết định hình phạt đúng pháp luật,
công bằng và hợp lý hay không tùy thuộc rất nhiều vào nhận thức và áp dụng các
nguyên tắc đó vào thực tiễn xét xử. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất
lớn. Ý nghĩa lý luận: việc làm sáng tỏ các nguyên tắc đó góp phần vào việc nhận
thức được bản chất, nội dung, nguồn gốc, ý nghĩa của chế định quyết định hình
phạt, phân biệt chúng với các căn cứ quyết định hình phạt, đưa ra những phương án
tối ưu của việc thể hiện chúng trong các quy phạm của luật hình sự. Ý nghĩa thực
tiễn, các nguyên tắc đó là những tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho hoạt động
Tòa án khi chọn và quyết định loại và mức hình phạt đối với từng bị cáo trong từng
vụ án cụ thể, là tiền đề, là điều kiện cho việc cải tạo và giáo dục người bị kết án
được tốt, góp phần việc phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng được thể hiện trong
luật hoặc được làm sáng tỏ bắt nguồn từ việc giải thích luật. Đó là những nguyên lý
quan trọng nhất chỉ đạo, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng
các chế tài luật hình sự đối với người thực hiện tội phạm.
Bản chất của các nguyên tắc quyết định hình phạt do bản chất và các mục

đích của hình phạt quyết định. Hình phạt không chỉ là một chế định pháp lý đơn
thuần, mà còn là một chế định chính trị - pháp lý, một chế định xã hội. Nói hình
phạt (bản chất, nội dung, mục đích của nó) quyết định bản chất của các nguyên tắc
quyết định hình phạt, không có nghĩa là phủ định ý nghĩa và tác động trở lại của
chúng đối với hình phạt.
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử
của Toà án. Quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng, hợp lý là tiền đề,
điều kiện cho việc đạt được các mục đích của hình phạt. Để đạt được điều đó, khi áp
dụng các chế tài luật hình sự Toà án phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định.
Các nguyên tắc đó được gọi là nguyên tắc quyết định hình phạt. Các nguyên tắc
quyết định hình phạt là những tư tưởng được thể hiện trong luật hoặc được làm sáng
tỏ bắt nguồn từ việc giải thích luật, là những nguyên lý quan trọng nhất chỉ đạo, xác
16


định và định hướng hoạt động của Toà án khi áp dụng các chế tài luật hình sự đối
với người thực hiện tội phạm. Trong trường hợp này ta xét đến hai loại nguyên tắc
là các nguyên tắc chung và nguyên tắc đặc thù khi quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội.
1.1.3.1. Những nguyên tắc chung
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng vì chỉ khi tuân thủ
nghiêm chỉnh nguyên tắc này mới có thể áp dụng các nguyên tắc khác của chế định
quyết định hình phạt vào thực tiễn xét xử. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa thể hiện khi quyết định hình phạt là: Khi áp dụng hình phạt đối với
người bị kết án, Toà án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật hình sự.
Hình phạt chỉ được áp dụng đối với hành vi phạm tội được quy định cụ thể trong
luật (Điều 2 của BLHS năm 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mức phải chịu trách nhiệm hình sự”). Do vậy, để có tiền đề đúng
đắn cho việc quyết định hình phạt, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi

phải định tội danh đúng hành vi phạm tội của bị cáo, phải xác định một hình phạt
được quy định trong BLHS để áp dụng đối với bị cáo.
Theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyết định hình phạt là thẩm
quyền của Toà án, chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước có quyền
tuyên một hình phạt đối với bị cáo, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài
Tòa án có quyền áp dụng hình phạt. Điều 102 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Điều 30 của
BLHS năm 2015 quy định “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối
với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.” Khi quyết định hình phạt, Toà án
phải tuân thủ các quy định của BLHS về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các
loại hình phạt cũng như quy định về các căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.
17


Khi quyết định hình phạt, Toà án phải viện dẫn đầy đủ các căn cứ pháp lý
trong bản án, điều đó có nghĩa là Toà án phải chỉ rõ các điều luật được vận dụng
(điểm, khoản nếu có) trong phần quyết định của bản án. Đây là công việc rất quan
trọng vì các căn cứ pháp lý sẽ làm cho bản án mang tính hợp pháp, có sức thuyết
phục, đồng thời là cơ sở để Toà án cấp trên kiểm tra, giám sát việc xét xử của Toà
án cấp dưới, phát hiện và sửa chữa kịp thời những sai sót của Toà án cấp dưới.
Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt đòi hỏi các Toà án phải căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và
các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định đối với bị cáo
một loại và mức độ hình phạt cụ thể ở mức lớn nhất tạo điều kiện cho việc đạt được

các mục đích của hình phạt.
Nguyên tắc này được nhà làm luật thể hiện trước tiên ở Điều 9 của BLHS
năm 2015. Hình phạt được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là khác nhau. Nội dung cá thể hóa
cũng hình phạt cũng được thể hiện ở các điều luật quy định các giai đoạn phạm tội,
đồng phạm, các hình phạt và các điều kiện áp dụng chúng, cũng như quy định việc
quyết định hình phạt đối với một số người phạm tội như người chưa thành niên,
người già yếu, phụ nữ có thai.
Trong trường hợp cụ thể, hình phạt được tuyên phải tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nếu tội phạm xảy ra xâm hại tới quan
hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi đã thực hiện
càng lớn và do vậy Toà án phải quyết định hình phạt nghiêm khắc hơn.
Khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc những đặc điểm thuộc về
nhân thân người phạm tội như trình độ học vấn, lối sống, ý thức chính trị, pháp
luật… và chỉ rõ trong bản án những đặc điểm tốt xấu trong nhân thân người phạm
tội, đồng thời chỉ cân nhắc những tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình
phạt cho người phạm tội.
18


Khi quyết định hình phạt, Toà án phải cân nhắc những tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng trách nhiệm hình sự có trong vụ án vì các tình tiết này có ý nghĩa quan
trọng trong việc phản ánh, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, từ
đó làm cơ sở cho Toà án quyết định hình phạt được đúng với người phạm tội.
Tư tưởng cá thể hoá hình phạt còn được thể hiện rõ ở việc quy định các chế
tài: chế tài xác định tương đối và chế tài tùy nghi (lựa chọn). Đa số các chế tài của
các điều luật ở phần các tội phạm quy định khung hình phạt rất rộng và quy định
thành hai hoặc nhiều loại hình phạt, cho phép Toà án tuỳ từng trường hợp cụ thể
quyết định hình phạt này hay hình phạt khác đối với bị cáo.
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa là tư tưởng chỉ đạo cơ bản được ghi
nhận trong các quy phạm pháp luật hình sự phản ánh đúng những quy luật kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, những quan niệm đạo đức của nhân dân ta trong việc quy
định tội phạm và hình phạt được thể hiện được trách nhiệm của nhà nước trong việc
bảo vệ các lợi ích của xã hội, của nhà nước, của công dân, đồng thời thể hiện được
thái độ khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
Khi quyết định hình phạt, Toà án phải đặt mục đích giáo dục, cải tạo người
phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội là mục đích quan trọng hàng đầu. Toà
án phải cân nhắc đến những đặc điểm tốt thuộc về nhân thân người phạm tội trong
phạm vi luật định, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51
của BLHS năm 2015, để tuyên án phải xem xét các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ
một phần hình phạt cho bị cáo như phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn
hối cải, tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, bị cáo là thương binh, là người
có thành tích xuất sắc trong sản xuất, trong chiến đấu, trong công tác… Toà án cũng
phải cân nhắc cả những đặc điểm thuộc về tâm sinh lý của người phạm tội như: phụ
nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, người già… bởi những đặc
điểm đó chi phối rất nhiều tới người phạm tội trước và trong khi họ thực hiện hành
vi, đồng thời phản ánh tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Tuy
vậy, đặt trong sự cân nhắc với cả lợi ích của xã hội, của nhà nước, luật hình sự nước
ta cũng có những quy định về quyết định hình phạt rất nghiêm khắc đối với những
19


người phạm tội đặc biệt nguy hiểm, những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm,
phạm tội có tổ chức, người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên
nghiệp… nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của xã hội, của nhà nước và mọi công
dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Khi quyết định hình phạt đối với những người
này, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi phải chọn một biện pháp nghiêm khắc thích hợp,
phải tuân theo nguyên lý cơ bản là người bị kết án cũng là con người nên khi họ lầm
đường lạc lối có thể được giáo dục, cải tạo để trở thành một công dân có ích cho xã

hội.
Ở đây nguyên tắc này thể hiện rõ nét trong việc quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm nhiều tội. Người chưa thành niên phạm nhiều tội được
quy định riêng và hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội
cũng nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm nhiều tội. Bên cạnh đó hình phạt đối
với người phạm nhiều tội khi tổng hợp hình phạt trong một số trường hợp cũng có
lợi hơn cho người phạm tội. Ví dụ như khi người phạm tội có hình phạt riêng lẻ đối
với từng tội là 20 năm thì hình phạt tổng hợp chỉ là 30 năm.
Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ, loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên
phải tương xứng với tội phạm đã thực hiện và nhân thân người phạm tội.
Hình phạt đã tuyên phải tương xứng với tội phạm đã thực hiện, nghĩa là tội
phạm càng nghiêm trọng và trong những điều kiện khác giống nhau thì hình phạt
phải càng nghiêm khắc và ngược lại. Và, theo cách thể hiện của C.Mac phải “làm
cho sự trừng phạt trở thành hậu quả thực tế của việc phạm tội. Dưới con mắt của kẻ
phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của chính người đó, - do
đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn hành vi của y phải là giới hạn của
sự trừng phạt” [8, tr. 169]
Nguyên tắc này còn thể hiện trong khi quyết định hình phạt còn phải cân
nhắc đến nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án. Vì hình
phạt lúc nào cũng gắn với con người cụ thể, mà mỗi người khác nhau thì đặc điểm,
tính cách, địa vị xã hội… khác nhau.
20


Việc xem xét đến tội phạm đã thực hiện và nhân thân người phạm tội và các
tình tiết khác có trong vụ án phải đặt trong một thể thống nhất, biện chứng mới đảm
bảo tính công bằng của hình phạt, không xem nhẹ hay coi trọng yếu tô này, yêu tố
kia thì sẽ có một hình phạt công bằng.
Nguyên tắc công bằng còn yêu cầu hình phạt được tuyên phải phản ánh đúng

đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội, phải đủ sức thuyết phục mọi
người ở tính đúng đắn, công bằng của chính sách xét xử.
1.1.3.2. Những nguyên tắc đặc thù
Bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc chung khi quyết định hình phạt thì
việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội còn có các nguyên tắc
đặc thù của mình. Theo lý luận chung của Luật hình sự, các nguyên tắc tổng hợp
hình phạt để có hình phạt chung có thể là nguyên tắc cộng toàn bộ, nguyên tắc cộng
một phần và nguyên tắc thu hút. Trong mỗi trường hợp cụ thể thì mỗi nguyên tắc
được áp dụng một cách khác nhau.
Nguyên tắc thu hút hình phạt
Thu hút hình phạt là một trong những phương pháp tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội, thực chất đó là thu hút hình phạt nhẹ và hình phạt nặng.
Do đó khi áp dụng phương pháp này trong mọi trường hợp không được thu hút hình
phạt nặng và hình phajnt nặng rồi lấy hình phạt nhẹ làm hình phạt chung. Hình phạt
chung là hình phạt nặng nhất trong các hình phạt đã tuyên. Nguyên tắc này được áp
dụng trong hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất là trường hợp không thể cộng được vì một hình phạt
là loại hình phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt hoặc đã ở mức cao nhất (tù
chung thân hoặc tử hình).
- Trường hợp thứ hai là khi mà các tội đã thực hiện có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau thì mức hình phạt đã tuyên cho từng tội rát
chênh lệch nhau (có thể cộng được nhưng không cộng vì các hình phạt khác so với
hình phạt nặng nhất là không đáng kể).
Ví dụ: Như trong trường hợp người phạm tội trộm cắp tài sản, hiếp dâm và
giết người, theo đó hình phạt đối với từng tội danh của người đó là hai năm tù cho
21


×