Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Chuyên đề Kỹ năng tư vấn pháp luật chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.14 KB, 11 trang )

KỸ NĂNG CHUNG VỀ TƯ VẤN PHÁP LUẬT
Nguyễn Thị Hằng Nga
HỌC VIỆN TƯ PHÁP
1. Bản chất của hoạt động tư vấn pháp luật
"Tư vấn pháp luật là việc người tư vấn hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp đối
tượng được tư vấn soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của họ". Như vậy, tư vấn pháp luật là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng
xử đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm giúp đối tượng được tư vấn thực
hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Hoạt động tư vấn pháp luật được thực hiện bởi các chuyên gia là hoạt động đòi
hỏi lao động trí óc cẩn thận, sâu sắc. Ý kiến tư vấn không chỉ là việc cung cấp thông
tin pháp lý đúng cho đối tượng cần tư vấn mà còn là sự vận dụng linh hoạt các quy
định của pháp luật sao cho kiểm soát tối ưu rủi ro, mang lại lợi ích tốt nhất cho người
được tư vấn. Hoạt động tư vấn phải chỉ ra được những điểm yếu và điểm mạnh, đánh
giá được mức độ rủi ro, cách thức phòng tránh và ngăn ngừa rủi ro để định hướng
hành động cụ thể.
Trong đời sống xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng, tư vấn
pháp luật mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn, bởi tư vấn là một trong các biện pháp có ý
nghĩa quan trọng trong đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, đặc biệt là cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Người tư vấn có vai trò tiên liệu
rủi ro và tìm các giải pháp phòng ngừa, hạn chế, khắc phục rủi ro.
Như vậy, có thể thấy rõ hoạt động tư vấn pháp luật mặc dù được pháp luật quy
định là một trong những hình thức của hoạt động phổ biến tuyên truyền pháp luật
nhưng nó không phải là hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật một cách chung chung
hoặc chuyển tải thông tin pháp lý về các văn bản pháp luật mới. Có thể nói, tư vấn
pháp luật là một nghề sử dụng trí tuệ của những chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật,
là hoạt động mang tính chất lao động trí óc bằng việc sử dụng chất xám, đòi hỏi phải
có kỹ năng tư vấn và sự hiểu biết pháp luật một cách sâu rộng, thấu hiểu cuộc sống
cũng như phải có đạo đức hành nghề, lương tâm và trách nhiệm và mang lại lợi ích tốt
nhất cho đối tượng được tư vấn.
Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, người tư vấn cũng góp phần tuyên truyền


phổ biến, giải thích pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật cho các
công dân trong cộng đồng xã hội. Hoạt động tư vấn pháp luật là cầu nối quan trọng
giữa người xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, thực thi pháp luật và các công dân,
tổ chức - đối tượng của việc áp dụng pháp luật. Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật,
có thể phát hiện được những lỗ hổng của pháp luật, trên cơ sở đó có những kiến nghị
kịp thời để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động
1


tư vấn pháp luật, còn nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của người dân và
thực trạng vi phạm pháp luật cũng như thực trạng áp dụng pháp luật ở địa phương.
Trên cơ sở đó, về thực chất, hoạt động tư vấn pháp luật là một bộ phận không thể thiếu
trong đời sống xã hội của một nhà nước pháp quyền. Hoạt động tư vấn pháp luật cũng
giúp chỉ ra cho các cơ quan thấy được các khiếm khuyết của mình trong quá trình hoạt
động, trên cơ sở đó có những khắc phục kịp thời, giúp rút ra được những bài học kinh
nghiệm cần thiết để không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý, tổ chức và hoạt động của
cơ quan mình. Hoạt động tư vấn pháp luật cũng giúp cho người dân hiếu được đúng
bản chất của quyền và nghĩa vụ thực tế của mình, tránh tình trạng nghi ngờ thiếu tin
tưởng vào hoạt động của các cơ quan nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
2. Kỹ năng tư vấn pháp luật
2.1. Tìm hiểu yêu cầu tư vấn
Nắm bắt được nội dung vụ việc và biết được người yêu cầu tư vấn đang mong
muốn điều gì là mục đích của việc tìm hiểu yêu cầu tư vấn. Người tư vấn có thể tiếp
cận với các thông tin mà người yêu cầu tư vấn đem lại qua nhiều hình thức. Người yêu
cầu tư vấn có thể đến trình bày trực tiếp tại cơ quan công tác hoặc trao đổi thông qua
thư tín, điện thoại... Làm việc với người yêu cầu tư vấn luôn là một khâu quan trọng
có ảnh hưởng đến kết quả của quá trình tư vấn. Khi thu thập thông tin, điều quan trọng
trước tiên là phải nắm được toàn bộ bối cảnh câu chuyện. Nếu muốn nắm bắt toàn
diện sự vật, người tư vấn luôn nhớ nên tự đặt cho mình những câu hỏi sau:
- Đâu là những thông tin mà người yêu cầu tư vấn có thể cung cấp? Đó là thông

tin miệng hay thông tin viết?
- Có những yếu tố nào mà người yêu cầu tư vấn không thể cung cấp nhưng có
thể ảnh hưởng đến kết quả tư vấn hay ảnh hưởng đến giải pháp?
- Người tư vấn có thể thu thập được những thông tin miệng hay thông tin viết
còn thiếu đó ở đâu? Ai có thể cung cấp?
- Để đảm bảo rằng người tư vấn đã hoàn toàn hiểu bối cảnh của câu chuyện mà
người yêu cầu tư vấn đem lại, cần phải kiểm tra xem các câu trả lời của người yêu cầu
tư vấn và những thông tin, tài liệu mà người yêu cầu tư vấn cung cấp thực sự đã giải
đáp được hết các câu hỏi sau chưa: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Như thế nào? Tại
sao?
Cách tiếp cận toàn diện như vậy sẽ giúp người tư vấn có cái nhìn khách quan
hơn về sự việc của người yêu cầu tư vấn, tránh việc ra một giải pháp phiến diện hay
vội vã. Nên nhớ rằng, khi gặp người yêu cầu tư vấn, người tư vấn thường mới chỉ
nghe thông tin một chiều hoặc các tài liệu mà người yêu cầu tư vấn cung cấp có thể
chỉ mới phản ánh một phần câu chuyện. Hơn nữa, người tư vấn cũng chưa có thời gian
tra cứu văn bản pháp luật vì vậy nếu vội vã ra giải pháp sẽ khó tránh khỏi sai lầm và
thiếu chuyên nghiệp.
2


Nhằm tránh việc ra một kết luận sai lầm, khi đọc hồ sơ của người yêu cầu tư
vấn, người tư vấn nên:
- Sắp xếp các tài liệu theo trật tự thời gian để tiện theo dõi mạch chuyện.
- Đọc kỹ tài liệu, ghi chép lại nội dung chính vụ việc.
- Giữ thái độ khách quan.
- Đừng nhìn ngay vào chi tiết, đừng tìm ngay giải pháp mà nhìn vào tổng thể
để tìm ra các điểm cốt lõi của vụ việc xoay quanh 3 vấn đề: Quan hệ - Tư cách - Đối
tượng, sau đó mới chú ý các mốc thời gian, địa điểm, con số, sự kiện.
Các bước tìm hiểu yêu cầu tư vấn gồm:
* Chuẩn bị cho buổi tiếp xúc

- Chuẩn bị các tài liệu thông tin liên quan đến người tư vấn
Trong buổi tiếp xúc người được tư vấn lần đầu, người tư vấn có thể phải giới thiệu
về bản thân và tổ chức tư vấn, do đó danh thiếp, bản giới thiệu về văn phòng, những tạp
chí, báo, tài liệu giới thiệu và ghi nhận thành tích của người tư vấn và tổ chức tư vấn sẽ
giúp người tư vấn truyền tải những thông tin đó nhanh chóng, hiệu quả và sinh động hơn,
đồng thời giúp người tư vấn quảng bá và giới thiệu được nhiều hơn về bản thân người tư
vấn và tổ chức hành nghề người tư vấn nơi mình đang làm việc. Sự giới thiệu ngắn gọn,
có điểm nhấn chứa đựng những thông tin có liên quan mật thiết đến việc thể hiện kinh
nghiệm và kiến thức của người tư vấn với vụ việc của người được tư vấn sẽ thu hút sự
quan tâm của người được tư vấn.
- Xác định mục đích của người được tư vấn
Nhận biết được mong muốn, mục đích hoặc đề nghị cung cấp dịch vụ pháp lý của
người được tư vấn là gợi ý quan trọng để người tư vấn tổ chức buổi tiếp xúc người được
tư vấn hiệu quả. Trước và ngay cả trong buổi làm việc với người tư vấn, không phải
người được tư vấn nào cũng nói thẳng mục đích của mình. Việc người được tư vấn “úp
mở”, che giấu không nói ra mục đích khi đến làm việc với người tư vấn là thực tế thường
thấy ở Việt Nam hiện nay. Trong trường hợp người được tư vấn thực sự không muốn nói
rõ mục đích của mình thì người tư vấn có thể dự liệu những dạng mục đích hướng đến
trong buổi làm việc với người tư vấn:
- Khảo sát, đánh giá về khả năng (kiến thức, kinh nghiệm, mối quan hệ) cung cấp
dịch vụ tư vấn pháp lý của người tư vấn, tổ chức tư vấn.
- Đề nghị cung cấp dịch vụ pháp lý cụ thể.
- Thu thập thông tin về giá, phương thức cung cấp dịch vụ pháp lý.
Nhận diện được những dạng mục đích chính nêu trên khi người được tư vấn đến gặp
người tư vấn sẽ giúp người tư vấn chủ động trong việc chuẩn bị các thông tin và phương
án để trả lời và cách thức “vượt qua chướng ngại vật” trong các buổi làm việc với người
được tư vấn theo cách thức riêng của mình.
- Chuẩn bị các văn bản pháp luật các văn bản, tài liệu khác liên quan đến yêu cầu
của người được tư vấn
3



Thông thường người được tư vấn sẽ có cuộc hẹn với người tư vấn trước khi đến làm
việc. Để ấn định cuộc hẹn, nhân viên ở tổ chức tư vấn hoặc người tư vấn đã có những
trao đổi sơ bộ với người được tư vấn qua thư điện tử hoặc điện thoại về yêu cầu cung cấp
dịch vụ pháp lý của người được tư vấn. Những thông tin ban đầu đó sẽ giúp người tư vấn
có được định hướng, khoanh vùng tra cứu các văn bản, tài liệu có liên quan đến vụ việc.
Những thông tin liên quan đến thực tế áp dụng các quy định pháp luật, các văn bản, quyết
định, chỉ thị của các cơ quan có thẩm quyền cũng là thông tin mà người tư vấn cần thu
thập để tư vấn cho người được tư vấn một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, vì những lý do
nhất định cộng với tâm lý e ngại không muốn trao đổi qua những khâu trung gian hoặc
tâm lý muốn gặp mặt trực tiếp để đánh giá độ tin cậy của người tư vấn trước khi cung cấp
thông tin, một số người được tư vấn chỉ đề nghị được làm việc với người tư vấn về một
lĩnh vực cụ thể mà người được tư vấn cho là thuộc phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý mà
người tư vấn đã quảng cáo trên trang web hoặc qua các cách thức quảng bá khác. Trong
những trường hợp này, người tư vấn có thể tham khảo những gợi ý sau để thu thập thông
tin ban đầu của người được tư vấn nhằm chuẩn bị tốt cho việc cập nhật, tra cứu các văn
bản pháp luật, các văn bản, tài liệu, thông tin khác liên quan đến vụ việc của người được
tư vấn:
- Thông báo cho người được tư vấn về nghĩa vụ của người tư vấn trong việc bảo mật
thông tin về người được tư vấn và vụ việc của người được tư vấn;
- Nhấn mạnh giá trị của những thông tin người được tư vấn cung cấp đối với việc tổ
chức buổi tiếp xúc người được tư vấn (giúp người được tư vấn tiết kiệm được thời gian,
chi phí đồng thời sẽ tạo điều kiện để người tư vấn cung cấp cho người được tư vấn nhiều
thông tin hữu ích, cập nhật có liên quan đến yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của người
được tư vấn).
- Đề nghị người được tư vấn cung cấp những thông tin chung và cơ bản nhất: loại
việc, tính chất vụ việc v.v…
- Chuẩn bị bảng hỏi dự kiến sẽ áp dụng đối với người được tư vấn
Gắn liền với những thông tin người được tư vấn cung cấp và yêu cầu đề nghị cung

cấp dịch vụ pháp lý là những dạng câu hỏi để người tư vấn khai thác những thông tin cần
và đủ cho quá trình tư vấn tiếp theo. Mỗi vụ việc của người được tư vấn sẽ có những bối
cảnh tư vấn khác nhau đồng nghĩa với đó là những câu hỏi cụ thể áp dụng phù hợp với
diễn biến của cuộc gặp. Thách thức với người tư vấn là nhiều người được tư vấn không
cung cấp thông tin cụ thể về vụ việc trước khi đến làm việc với người tư vấn do đó việc
xây dựng bảng kế hoạch hỏi cụ thể không dễ dàng. Để xử lý những bối cảnh này, một số
tổ chức tư vấn đã xây dựng danh mục các vấn đề cần hỏi, những thông tin, tài liệu người
tư vấn cần khai thác tương ứng với mỗi loại vụ việc nhất định. Các bảng hỏi này thực tế
đã phát huy hiệu quả tốt, đặc biệt giúp người tư vấn chủ động được trong quá trình điều
khiển, dẫn dắt buổi làm việc với người được tư vấn.
- Tạo môi trường giao tiếp
4


Tạo môi trường giao tiếp được coi là quá trình “phá băng” (ice- breaking). Đây là
công việc không dễ để thực hiện. Một số người tư vấn xem nhẹ hoặc cho là lãng phí thời
gian nhưng nếu đặt vào bối cảnh của những vụ việc có những tình tiết “nhạy cảm”, “khó
nói” thì dường như những câu chuyện tưởng như không cần thiết này sẽ tạo ra một khởi
đầu khá thuận lợi để người được tư vấn trình bày, nói ra mong muốn với người tư vấn.
Một số gợi ý sau được xem như cách bắt đầu câu chuyện đơn giản, nhẹ nhàng nhưng hiệu
quả cho buổi tiếp xúc người được tư vấn lần đầu tiên:
- Người tư vấn gợi mở chủ đề về thời tiết, giao thông và những câu hỏi quan tâm về
sức khỏe, lộ trình chuyến đi (nếu là người được tư vấn nước ngoài) để tạo môi trường
giao tiếp. Tuy nhiên, người tư vấn cần lưu ý những giới hạn về xã giao trong những câu
hỏi và những thông tin tạo môi trường giao tiếp để tránh trường hợp không những không
tạo được môi trường giao tiếp mà còn khiến người được tư vấn e ngại không dám tiếp tục
trao đổi với người tư vấn.
- Người tư vấn đề nghị người được tư vấn cung cấp thông tin để điền vào tờ khai theo
mẫu của văn phòng. Trong quá trình này, người tư vấn lồng ghép các câu hỏi liên quan
đến từng nội dung cần điền trong tờ khai để thể hiện sự quan tâm đến người được tư vấn

cũng như gợi mở những chủ đề được người tư vấn cho là người được tư vấn muốn nói
như con cái, công việc hiện thời và một số xu thế, xu hướng, các thông tin thời sự liên
quan đến vụ việc của người được tư vấn.
- Thông báo cho người được tư vấn về diễn biến của buổi tiếp xúc người được tư vấn,
tổng thời gian người tư vấn dự kiến làm việc với người được tư vấn sẽ giúp người được tư
vấn hình dung ra kế hoạch của buổi làm việc và sử dụng thời gian một cách hiệu quả nhất.
Trong bước này, người tư vấn cần giải thích với người được tư vấn trách nhiệm bảo
mật thông tin về vụ việc và bảo mật thông tin về người được tư vấn khi người tư vấn tiếp
nhận thông tin từ người được tư vấn để người được tư vấn yên tâm chia sẻ những thông
tin nhạy cảm.
- Tìm hiểu bối cảnh tư vấn
Mỗi người được tư vấn đến làm việc với người tư vấn đều có những bối cảnh vụ việc
riêng. Nhiệm vụ của người tư vấn trong giai đoạn này là tập trung vào việc lắng nghe, ghi
chép và gợi mở và nắm bắt bối cảnh vụ việc một cách hiệu quả nhất. Song trên thực tế để
người tư vấn có thể lắng nghe một cách “thực sự” không phải là điều dễ dàng. Người
được tư vấn muốn và cần nói với người tư vấn về câu chuyện của họ và sau đó là mong
nhận được các ý kiến tư vấn. Người được tư vấn có thể không nghĩ rằng câu chuyện của
họ là mục đích của buổi làm việc, thực sự việc nói ra câu chuyện là một nhu cầu rất thiết
thực đối với người được tư vấn. Rất nhiều người được tư vấn thường nhắc đi nhắc lại
nhiều lần câu chuyện của họ, nói về bạn bè, gia đình và những người lạ trên đường phố.
Người được tư vấn cũng có thể cung cấp những thông tin nhầm lẫn thậm chí còn mâu
thuẫn với chính thông tin mình vừa nói trước đó ít phút. Tâm lý thông thường của người
được tư vấn là thường tự tin cho rằng hành động của mình là đúng. Một số người được tư
5


vấn cũng có thể hiểu rằng họ đã hành động sai ở một góc độ nào đó nhưng thường mong
rằng trách nhiệm sẽ được giảm nhẹ, họ có lý do riêng để làm điều đó và họ mong được
biện hộ.
Trong giai đoạn này, người tư vấn thường gặp phải những tình huống khó khăn như:

Người được tư vấn giàu cảm xúc (khóc lóc, bực tức, trạng thái tinh thần thay đổi đột
ngột.v..v.); nói quá lan man, dài dòng về bối cảnh vụ việc; che dấu thông tin, tài liệu liên
quan đến vụ việc; không biết cách để trình bày, diễn đạt bối cảnh vụ việc; gặp khó khăn
khi trao đổi về những chủ đề nhạy cảm; cần phải khẩn cấp thực hiện những công việc
nhất định.
Để xử lý các khó khăn nêu trên, người tư vấn cần lưu ý những vấn đề sau:
- Cần thiết kiểm soát buổi tiếp xúc người được tư vấn lần đầu tiên từ khi bắt đầu cho
đến khi kết thúc và tránh việc để người được tư vấn đề cập đến quá nhiều những nội dung
không liên quan đến vụ việc gây lãng phí thời gian. Người tư vấn có thể mắc các lỗi khá
nghiêm trọng khác, đó là việc đặt ra quá nhiều câu hỏi và ngắt lời người được tư vấn quá
nhiều khiến họ khó có thể trình bày rõ về nội dung vụ việc. Khi tiếp xúc với người được
tư vấn lần đầu tiên, người tư vấn cần đặt ra những câu hỏi cơ bản. Người tư vấn nên hỏi
các câu hỏi mở ví dụ như “Điều gì đã khiến anh chị đến đây để trao đổi về vụ việc với
chúng tôi?”; Tại sao anh chị lại quyết định việc mời người tư vấn để giải quyết vấn đề
pháp lý của mình?” Nhiều người tư vấn tiết kiệm thời gian bằng việc cho người được tư
vấn điền vào bảng thông tin trước khi bắt đầu cuộc họp. Không có gì sai lầm đối với cách
tiếp xúc người được tư vấn đó. Tuy nhiên, sau đó, người tư vấn nên cố gắng làm một công
việc tương đối khó khăn đó là lắng nghe người được tư vấn và hạn chế đến mức tối đa
không ngắt lời người được tư vấn.
- Người tư vấn hãy để người được tư vấn nói toàn bộ câu chuyện bằng ngôn ngữ của
mình. Nếu nhận thấy có những điểm cần làm rõ hoặc phát triển thêm người tư vấn nên ghi
chú và đưa ra những tín hiệu hợp lý để người được tư vấn biết rằng người tư vấn muốn
người được tư vấn tạm dừng đôi chút để làm rõ thông tin người được tư vấn vừa cung
cấp. Việc mời người được tư vấn dùng nước, nghỉ giải lao có thể là những khoảng dừng
hợp lý để người tư vấn và người được tư vấn tiếp tục buổi làm việc hiệu quả hơn.
- Người tư vấn cần thể hiện sự chia sẻ một cách ân cần, đúng mực để người được tư
vấn cảm nhận sự quan tâm của người tư vấn đến vụ việc của người được tư vấn trong
trường hợp người được tư vấn đang gặp phải những khó khăn, vụ việc không mong muốn.
- Tài liệu về vụ việc là những “nguyên liệu” quan trọng hàng đầu để người tư vấn
nắm bắt được bối cảnh vụ việc, tâm lý, mong muốn của người được tư vấn. Đối với

những người được tư vấn cố tình che giấu thông tin, khó khăn khi trao đổi những thông
tin liên quan đến những vấn đề nhạy cảm, người tư vấn có thể sử dụng thông tin từ chính
những tài liệu, chứng cứ, văn bản người được tư vấn đã cung cấp, hoặc người tư vấn tự
khai thác, thu thập được trước buổi làm việc có thể được sử dụng để khéo léo dẫn dắt
người được tư vấn trình bày thông tin về vụ việc.
6


- Làm rõ bối cảnh tư vấn
Không phải trong mọi trường hợp người tư vấn đều có thể nắm bắt và hiểu rõ được
toàn bộ câu chuyện của người được tư vấn bởi thực tế mỗi cá nhân có phương thức
tư duy trao đổi vấn đề khác nhau và có thể có cách hiểu khác nhau khi sử dụng ngôn ngữ.
Nhiều người tư vấn phàn nàn rằng mặc dù đã khá bình tĩnh và tập trung lắng nghe nhưng
vì người được tư vấn trình bày vụ việc với quá nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau cộng
với việc người được tư vấn nhớ gì nói nấy; thích điều gì thì say sưa kể và quên đi những
thông tin quan trọng của vụ việc khiến người tư vấn không hiểu được câu chuyện của
người được tư vấn. Thực tế, không phải mọi người được tư vấn đều ý niệm được người tư
vấn cần đến thông tin gì nên có thể cung cấp những thông tin thừa, thông tin không liên
quan đến giải quyết vụ việc. Sau khi nghe người được tư vấn trình bày, người tư vấn nên
đặt ra các câu hỏi đóng để chốt lại các thông tin quan trọng liên quan đến vụ việc và cũng
là để xác định lại ý hiểu của mình về các thông tin người được tư vấn đã cung cấp.
- Xác định yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của người được tư vấn
Cũng một bối cảnh vụ việc nhưng người được tư vấn có thể đưa ra rất nhiều yêu cầu
cung cấp dịch vụ pháp lý khách nhau. Việc người tư vấn tìm hiểu rõ yêu cầu của người
được tư vấn là việc người tư vấn nắm bắt được nguyện vọng thực sự của người được tư
vấn khi đến trao đổi vụ việc với người tư vấn. Khó khăn là ở chỗ có một số người được tư
vấn không biểu đạt được rõ mong muốn hoặc yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của
mình, do sử dụng sai những thuật ngữ pháp lý hay gặp khó khăn trong việc biểu đạt
nguyện vọng. Trong những trường hợp này, người tư vấn trước hết nên để người được tư
vấn nói ra đề nghị của mình bằng chính ngôn ngữ của người được tư vấn. Sau đó, bằng

những câu hỏi lồng ghép việc điều chỉnh và sử dụng thuật ngữ pháp lý thích hợp, người tư
vấn diễn giải lại câu hỏi của người được tư vấn để người được tư vấn khẳng định lại xem
ý hiểu của người tư vấn có đúng hay không.
- Thỏa thuận hợp đồng dịch vụ pháp lý
Không phải tất cả các buổi tiếp xúc người được tư vấn đều có thể đi đến việc thống
nhất ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với những vụ việc đơn giản, có qui trình rõ
ràng và biểu phí ấn định, người được tư vấn và người tư vấn có thể thỏa thuận và ký kết
ngay hợp đồng dịch vụ pháp lý trong buổi tiếp xúc người được tư vấn đầu tiên. Ngoài ra
có rất nhiều vụ việc mà người tư vấn cần nghiên cứu hồ sơ trước khi trao đổi với người
được tư vấn những nội dung của hợp đồng dịch vụ pháp lý và cũng là để người tư vấn tự
đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu của người được tư vấn. Với những lý do riêng phát
sinh từ mỗi vụ việc, bước này có thể có những “điểm dừng” hoặc “bước chuyển” thông
qua việc người tư vấn đề nghị người được tư vấn cung cấp thêm các thông tin, tài liệu liên
quan đến vụ việc, hay người được tư vấn đề nghị người tư vấn cung cấp bản chào dịch vụ
trước khi người được tư vấn quyết định trao đổi cụ thể hơn về các nội dung của hợp đồng
dịch vụ pháp lý. Hai bên có thể tiếp tục có những cuộc gặp tiếp theo sau khi thu thập và
xử lý thông tin từ đối tác.
7


Khó khăn của người tư vấn trong bước này có thể thể hiện ở những bối cảnh sau:
- Người được tư vấn thường yêu cầu người tư vấn đưa ra những đánh giá, nhận định
sơ bộ trước khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý. Trong trường hợp này, người tư vấn nên ý
thức rõ về quy tắc nghề nghiệp khi đưa ra những phán đoán, dự đoán về kết quả vụ việc.
Những lưu ý về việc đưa ra đánh giá nhận định sơ bộ về yêu cầu của người được tư vấn
dưới đây sẽ giúp người tư vấn hạn chế những “rắc rối” về sau: (i) Chỉ nhận định, đánh giá
khi đã có được những thông tin và tài liệu cần thiết; (ii) Không đưa ra những nhận định,
đánh giá quá chi tiết và cụ thể; (iii) Khi đánh giá cần kèm theo những giả định; (iv)
Không hứa hẹn về tương lai giải quyết yêu cầu của khách hàng.
- Người được tư vấn thường yêu cầu người tư vấn giải thích cơ sở về việc người tư

vấn đưa ra mức phí dịch vụ pháp lý.
- Người được tư vấn đề nghị người tư vấn đưa ra ý kiến tư vấn hoặc thực hiện những
công việc nhất định trong khoảng thời hạn ít hơn như người tư vấn đề xuất.
- Người được tư vấn yêu cầu người tư vấn phải thực hiện các biện pháp bảo đảm
trước khi chính thức cung cấp dịch vụ pháp lý như mua bảo hiểm, ký quỹ, mở bảo lãnh…
đối với những hợp đồng qui mô lớn, độ rủi ro cho người được tư vấn cao.
- Kết thúc cuộc gặp
Với nhiều nguyên nhân khác nhau, buổi tiếp xúc người được tư vấn có thể kết thúc
nhanh hay chậm và kết thúc ở những bước khác nhau trong quy trình tư vấn. Tuy nhiên,
bất luận cuộc gặp được kết thúc ở giai đoạn nào người tư vấn cũng cần tạo ra cho người
được tư vấn một ấn tượng tốt về buổi làm việc. Nếu nhận thấy đề nghị cung cấp dịch vụ
pháp lý của người được tư vấn không thuộc phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ chức
tư vấn, người tư vấn có thể lịch sự từ chối và nên giới thiệu về phạm vi cung cấp dịch vụ
của tổ chức tư vấn để người được tư vấn có thông tin để sử dụng khi cần thiết. Trong
trường hợp cuộc gặp kết thúc ở giai đoạn các bên cần trao đổi thêm thông tin hoặc đã ký
hợp đồng dịch vụ pháp lý người tư vấn cần trao đổi với người được tư vấn những công
việc người tư vấn và người được tư vấn sẽ thực hiện sau buổi làm việc với những mốc
thời gian cụ thể (nếu có thể ấn định tại buổi làm việc). Lời chào và lời cám ơn nhã ý sử
dụng dịch vụ pháp lý của tổ chức tư vấn sẽ tạo cho người được tư vấn cảm giác được tôn
trọng sau buổi làm việc với người tư vấn.
Tổ chức buổi tiếp xúc người được tư vấn lần đầu tiên quan trọng như việc gắn xi
măng lên các lớp gạch khi xây dựng mối quan hệ giữa người được tư vấn và người tư vấn.
Nếu như việc tiếp xúc người được tư vấn lần đầu không tốt, nền móng sẽ không thể vững
chãi để xây dựng mối quan hệ công việc đủ cần thiết để giải quyết những vụ việc khó,
giải quyết thời gian dài. Vì vậy việc nắm bắt được các khó khăn và cách thức để vượt qua
những trở ngại trong sự khởi đầu sẽ giúp người tư vấn tự tin hơn khi giao dịch với người
được tư vấn và là yếu tố thành công của nghề.

8



2.2. Xác định vấn đề pháp lý
Thực chất của việc xác định vấn đề pháp lý của vụ việc là việc nghiên cứu một
cách kỹ lưỡng và thấu đáo hồ sơ của người yêu cầu tư vấn và tìm ra những vấn đề mấu
chốt cần giải quyết. Trong giai đoạn tìm hiểu yêu cầu của người yêu cầu tư vấn, chúng
ta đã ít nhiều nắm bắt được sự việc và đã có những nhận định, đánh giá sơ bộ về
hướng giải quyết của hồ sơ. Tuy nhiên, việc đọc kỹ lại toàn bộ hồ sơ là điều cần thiết.
Quá trình tìm ra vấn đề pháp lý là quá trình người tư vấn đặt một chuỗi các câu hỏi
pháp lý có tính liên kết với nhau, câu hỏi pháp lý này sẽ làm nảy sinh câu hỏi pháp lý
kế tiếp.
Khi xác định vấn đề pháp lý, nên xuất phát từ câu hỏi mà người yêu cầu tư vấn
muốn người tư vấn giải đáp. Vấn đề pháp lý của hồ sơ thường là câu hỏi pháp lý mà
câu trả lời sẽ giúp giải đáp được nguyện vọng của người yêu cầu tư vấn.
2.3. Xác định luật áp dụng
Việc xác định vấn đề pháp lý chính là việc tìm ra các câu hỏi pháp lý của vụ
việc. Quy định của luật pháp là nơi tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi pháp lý đó. Vì
vây, công việc tiếp theo của người tư vấn là tra cứu các văn bản pháp luật có liên quan
đến tình huống của người yêu cầu tư vấn. Khi tra cứu văn bản pháp luật, cần lưu ý
mấy vấn đề sau:
- Xác định hiệu lực về không gian và thời gian của văn bản pháp luật áp dụng.
Khi nghiên cứu một văn bản pháp luật, không được bỏ quên hai điều khoản i) đối
tượng và phạm vi áp dụng của văn bản, thường được ghi nhận ở mấy điều khoản đầu
tiên; ii) hướng dẫn thi hành và áp dụng văn bản pháp luật này, thường được quy định
tại các điều khoản cuối cùng.
- Dựa vào tính chất pháp lý của dữ kiện để xác định lĩnh vực pháp luật và các
văn bản pháp luật cần nghiên cứu.
- Dựa vào các câu hỏi pháp lý đã được mổ xẻ khi nghiên cứu hồ sơ để tìm điều
luật liên quan.
- Khi tìm kiếm văn bản pháp luật áp dụng, ngoài văn bản luật, phải tra cứu và
đọc kỹ các văn bản hướng dẫn luật. Người tư vấn cần nghiên cứu kỹ các văn bản

hướng dẫn như nghị định, thông tư. Đặc biệt, cần phải nghiên cứu kỹ các nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng luật nhằm nắm
rõ thực tiễn áp dụng luật của tòa án.
- Quá trình áp dụng văn bản pháp luật vào tình huống của người yêu cầu tư vấn
là quá trình lập luận để trả lời cho các vấn đề pháp lý mà hồ sơ đặt ra. Thực chất, nó
cũng được hiểu là quá trình giải thích luật. Ở đây, người tư vấn cần vận dụng các
phương pháp lập luận, gắn liền với cách hiểu luật và đánh giá chứng cứ. Nên sử dụng
thường xuyên phương pháp suy luận tam đoạn luận, là loại hình suy luận gián tiếp,
xuất phát từ hai tiền tất yếu để rút ra một kết luận. Trên thực tế, việc hiểu và vận dụng
pháp luật, vốn dĩ là những quy định khá trừu tượng và đan xen áp dụng cho muôn vàn
9


tình huống cụ thể của đời sống, thực sự là một lao động không hề đơn giản. Có những
câu hỏi pháp lý dễ dàng tìm được câu trả lời vì vấn đề đã được quy định quá rõ bởi
pháp luật. Nhưng cũng có những vấn đề mà luật pháp quy định thiếu cụ thể, có thể dẫn
đến nhiều cách hiểu khác nhau. Đứng trước những tình huống này, người tư vấn nên
tìm hiểu xem vấn đề đó trên thực tế đã được các cơ quan nhà nước xử lý như thế nào
(tức là tìm hiểu tiền lệ). Nếu chưa có tiền lệ, người tư vấn có thể giúp người yêu cầu tư
vấn gửi văn bản hỏi ý kiến chính thức của cơ quan có thẩm quyền giải quyết sự việc.
2.4. Trả lời tư vấn
Sau khi phân tích vụ việc, đối chiếu với các qui định của pháp luật, người tư
vấn đã nhìn thấy được các giải pháp có thể áp dụng cho trường hợp của người yêu cầu
tư vấn. Khi tìm kiếm giải pháp, điều quan trọng là người tư vấn phải đánh giá các khả
năng khác nhau có thể xảy ra trên cơ sở xem xét chúng dưới góc độ lôgic pháp lý và
thực tiễn, bằng cách dự đoán những hậu quả ngắn hạn và hậu quả dài hạn của từng
giải pháp, đối chiếu với mong muốn của người yêu cầu tư vấn.
Sau khi đã xác định được các giải pháp, nhiệm vụ tiếp theo của người tư vấn là
định hướng và thuyết phục người yêu cầu tư vấn lựa chọn giải pháp, tức là tìm cách
đàm phán và thuyết phục người yêu cầu tư vấn. Người tư vấn cần phải giải thích cho

người yêu cầu tư vấn một cách rõ ràng, bằng ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu, những
khía cạnh pháp lý phức tạp của hồ sơ. Khi lựa chọn phương án cũng cần sự hợp tác
tích cực của người yêu cầu tư vấn. Tuy nhiên, nếu người yêu cầu tư vấn là người khó
thuyết phục thì người tư vấn cũng nên chú ý đến các điểm sau:
- Trước tiên, phải hiểu được tính cách của người yêu cầu tư vấn, nắm bắt được
hoàn cảnh xã hội, động cơ, thái độ của người yêu cầu tư vấn;
- Thứ hai, bản thân người tư vấn phải nắm rất vững giải pháp đề xuất và phải
thuyết phục với người yêu cầu tư vấn đấy là giải pháp khả thi.
- Thứ ba, cần để ý đến cách hành xử của người yêu cầu tư vấn để có cách ứng
xử thích hợp. Ví dụ, nếu người yêu cầu tư vấn thuộc tuýp người thiếu quyết đoán, do
dự thì người tư vấn cần nhấn mạnh đến các hậu quả của giải pháp và nếu không hành
động theo giải pháp thì hậu quả gì sẽ xảy ra. Nếu người yêu cầu tư vấn thuộc tuýp
người hiếu chiến và luôn có xu hướng nói “vâng, nhưng mà…”, hãy bắt đầu thảo luận
từ những điểm mà người tư vấn cho rằng có thể tìm thấy tiếng nói chung sau đó mới
đề cập đến những điểm còn bất đồng hoặc chưa rõ. Cách tiếp cận này nhằm điều
chỉnh cách phản ứng của người yêu cầu tư vấn.
Đối với những trường hợp kết luận chưa chắc chắn ví dụ như liên quan đến một
vụ kiện mà sự thắng thua phụ thuộc phần nhiều vào chứng cứ sẽ phải tìm trong tương
lai, người tư vấn cần cố gắng trình bày sự việc thật sáng tỏ và giải thích cho người yêu
cầu tư vấn những yếu tố khiến cho câu trả lời không dứt khoát. Tránh trả lời theo kiểu
10


“về điểm này, tôi không biết” vì cách nói này có thể làm cho người yêu cầu tư vấn
hiểu lầm rằng người tư vấn thiếu hiểu biết hoặc đọc chưa kỹ hồ sơ của họ. Kinh
nghiệm xử lý khi câu trả lời không chắc chắn là người tư vấn nên phân tích các khả
năng khác nhau có thể xảy ra, hậu quả pháp lý của từng khả năng đó, các giải pháp có
thể sử dụng để thay đổi tình thế, những cơ may thành công và rủi ro có thể gặp phải
đối với từng giải pháp… Trong mọi trường hợp, một khi kết luận không chắc chắn thì
người tư vấn không thể diễn đạt theo lối dứt khoát bởi vì sau này có thể người yêu cầu

tư vấn sẽ quy trách nhiệm của người tư vấn đã khiến cho họ nhầm lẫn về hoàn cảnh.
Cuối cùng, sau khi đã lựa chọn được giải pháp, người tư vấn cũng cần phải làm
rõ với người yêu cầu tư vấn cách thức tiến hành giải pháp đó, các chiến thuật có thể
được áp dụng. Chẳng hạn, sau khi đưa ra bình luận cho một điều khoản trong dự thảo
hợp đồng, người tư vấn cần hướng dẫn người yêu cầu tư vấn cách thức để đàm phán
lại điều khoản đó hay cách thức chỉnh sửa lại nội dung điều khoản đó.

11



×