Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sở thẩm án hình sự ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 208 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

TRN TH HNG

CHấT LƯợNG TRANH TụNG CủA KIểM SáT VIÊN
VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN CấP TỉNH TạI PHIÊN TòA
XéT Xử SƠ THẩM áN HìNH Sự ở VIệT NAM

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT

Mó s: 62 38 01 01

Ngi hng dn khoa hc:

1. PGS.TS. TRNG H HI
2. PGS.TS. TO TH QUYấN

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Trần Thị Hương



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

8
25

1.3. Giả thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và khung phân tích lý thuyết 26
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM
SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH TẠI PHIÊN TÒA XÉT
XỬ SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ

30

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò tranh tụng của kiểm sát viên viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự

30

2.2. Khái niệm, đặc điểm, các tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng

của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm án hình sự

42

2.3. Các điều kiện bảo đảm chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên
viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự

58

2.4. Tranh tụng của kiểm sát viên trong phiên tòa xét xử các vụ án hình
sự của một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo đối với
Việt Nam

67

Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT
VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ
SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM

80

3.1. Thực trạng án hình sự sơ thẩm và đội ngũ kiểm sát viên viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam

80

3.2. Ưu điểm trong chất lượng tranh tung của kiểm sát viên viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh trong phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự ở Việt
Nam từ 2011 đến nay và nguyên nhân


83

3.3. Hạn chế trong chất lương tranh tụng của kiểm sát viên viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh trong phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự và
nguyên nhân

99


Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
TỈNH TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM

118

4.1. Yêu cầu và quan điểm nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát
viên của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong phiên toà xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự ở Việt Nam

118

4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự ở
Việt Nam hiện nay

131

KẾT LUẬN


144

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

146

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

147

PHỤ LỤC

157


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

CCTP

Cải cách tư pháp

HĐXX

Hội đồng xét xử

HS


Hình sự

HTPL

Hệ thống pháp luật

KSĐT

Kiểm sát điều tra

KSV

kiểm sát viên

KSXX

Kiểm sát xét xử

NQ

Nghị quyết

QCT

Quyền công tố

TA

Tòa án


TGTT

Tham gia tố tụng

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

TTTT

Thủ tục tố tụng

TW

Trung ương

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XXST


Xét xử sơ thẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ cán bộ viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có trình độ từ cử
nhân chuyên ngành luật trở lên
157
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ theo năm kinh nghiệm của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh
157
Biểu đồ 3.3: Đánh giá trình bày lời luận tội của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa sơ thẩm án hình sự
158
Biểu đồ 3.4: Đánh giá khả năng đối đáp của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh tại phiên toà xét xử sơ thẩm án hình
158
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ số vụ án và số bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
kháng nghị phúc thẩm
159
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ bảo đảm hoạt động tranh tụng của kiểm sát viên viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử án hình sự
159
Biểu đồ 3.7: Đánh giá nhận thức về mục đích tranh tụng của kiểm sát viên
viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên toà xét xử án hình sự
160
Biểu đồ 3.8: Đánh giá về hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến tranh
tụng của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại
phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự
160

Biểu đồ 3.9: Đánh giá về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của kiểm sát
viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
160
Bảng 3.1: Số lượng cán bộ viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh theo trình độ
đào tạo
Bảng 3.2: Mức độ thuần thục các kỹ năng được sử dụng trong tranh tụng
Bảng 3.3: Số lượng vụ án và bị cáo bị kháng nghị, hủy án, xét xử lại, và số
vụ đình chỉ vụ án
Bảng 3.4: Đánh giá mức độ đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà
xét xử sơ thẩm án hình sự cấp tỉnh
Bảng 3.5: Đánh giá hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của kiểm sát
viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

161
161
162
163
164


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, cải cách tư pháp được xác định
là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ phải: "Nâng cao chất lượng công tố của
kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác..." [5]; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn

mạnh việc "nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [6]. Trên tinh thần đó, Hiến pháp
năm 2013 quy định "nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm" (Khoản 5
Điều 103). Việc Hiến pháp 2013 ghi nhận nguyên tắc này là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự ở Việt Nam sẽ tạo điều kiện để triển
khai việc chuyển đổi mô hình xét xử truyền thống sang mô hình tranh tụng hiện đại.
Ở nước ta trong thời gian qua, ngành kiểm sát nhân dân đã có nhiều đổi
mới, chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
đã được nâng lên, góp phần nâng cao hiêu quả cuộc đấu tranh, phòng chống tội
phạm, tuy vậy, "mặc dù tranh tụng đã được pháp luật ghi nhận, mô hình tố tụng
tư pháp truyền thống ở nước ta vẫn cơ bản là xét hỏi. Thực tế này dẫn đến nhiều
hạn chế trong hoạt động tố tụng, đặc biệt dẫn đến tình trạng nhiều vụ việc xét xử
oan sai, gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng tin trong Nhân dân" [18,
tr.326]. Hoạt động của ngành kiểm sát đã và đang bộc lộ nhiều điểm hạn chế, lạc
hậu so với mục tiêu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Một trong những
biểu hiện của những hạn chế đó là chất lượng của hoạt động thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp chưa cao, còn tình trạng truy tố oan, sai, lọt
người, lọt tội; tỷ lệ án truy tố bị toà án trả lại hoặc án kết thúc điều tra không đủ


2
điều kiện truy tố phải trả lại để điều tra bổ sung, tuy đã giảm nhưng chưa triệt để;
hoạt động giám sát quá trình tác nghiệp đối với những người tiến hành tố tụng và
các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu chặt chẽ, thiếu phương pháp, thiếu tính
thuyết phục và ít phát hiện được sai sót để kiến nghị khắc phục v.v.. Hoạt động
tranh tụng tại nhiều phiên toà chưa được chú trọng, vẫn mang nặng hình thức,
chủ yếu diễn ra theo hướng các cơ quan tiến hành tố tụng thẩm vấn kết tội đối
với người phạm tội. Từ thực tế đó cho thấy, việc bảo đảm chất lượng tranh tụng
tại phiên toà, tạo mọi điều kiện cần thiết để các chủ thể tham gia tố tụng thực
hiện được quyền tranh luận dân chủ, công khai và công bằng để bảo vệ quyền và

lợi ích chính đáng của các bên là một yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Nhằm khắc phục những tồn tại trong hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là
tình trạng ""án bỏ túi" hoặc "án tại hồ sơ"" [55, tr.31] trong thực tiễn xét xử ở
Việt Nam, đồng thời đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, việc nâng cao
chất lượng tranh trụng của kiểm sát viên trong các phiên toà xét xử án hình sự là
việc làm rất cần thiết hiện nay, vì thế việc nghiên cứu đề tài "Chất lượng tranh
tụng của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm án hình sự ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa cả về phương
diện lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và làm sáng tỏ lý luận và đánh giá thực trạng chất
lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình
sự ở Việt Nam, mục tiêu nghiên cứu của luận án là đề xuất các quan điểm và giải
pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, phân tích, khái quát làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chất lượng tranh
tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự: khái niệm,


3
đặc điểm, các tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại
phiên toà XXST án hình sự, các điều kiện bảo đảm và các yếu tố tác động đến nó.
Hai là, nghiên cứu tranh tụng và chất lượng tranh tụng của KSV VKSND
cấp tỉnh tại phiên toà XXST án hình sự của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra
các giá trị tham khảo cho việc nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV VKSND
cấp tỉnh tại phiên toà XXST án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Ba là, nghiên cứu, đánh giá được thực trạng chất lượng tranh tụng của KSV

VKSND cấp tỉnh trong PTXXSTAHS ở Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra
được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
Bốn là, xây dựng các quan điểm và đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong các phiên toà
XXST án hình sự ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tương nghiên cứu
Luận án đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan
đến chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại phiên toà XXST án
hình sự ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án chỉ nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm đưa ra các giải
pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại phiên toà
XXST án hình sự, không nghiên cứu vấn đề tranh tụng trong lĩnh vực tố tụng
dân sự cũng như hoạt động tranh tụng trong các cơ quan tư pháp quân sự.
- Về không gian: luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn chất
lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự ở
Việt Nam.
- Về thời gian: luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề
liên quan đến chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà
XXST án hình sự ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến nay. Đây
là thời gian Đảng và Nhà nước ta chú trọng cải cách tư pháp, trong đó có nội
dung nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà XXST án hình sự.


4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài. Hệ

thống quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật nói chung và
mối quan hệ giữa pháp luật và chất lượng của kiểm sát viên nói riêng trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về hoàn thiện hệ thống
pháp luật cũng như các quan điểm về xây dựng và thực hiện pháp luật trong thời
kỳ mới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, đề tài sẽ sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, điều tra xã
hội học; phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp thống kê;
phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh… để giải quyết các vấn đề đặt ra
trong nghiên cứu nội dung đề tài.
Các phương pháp được sử dụng nhằm làm rõ nội dung cơ bản của đề tài,
đảm bảo tính khoa học và logic giữa các vấn đề của đề tài trong các chương. Do
tính chất của từng chương, từng phần nên đề tài sẽ sử dụng một trong các
phương pháp trên làm chủ đạo. Phương pháp phân tích tổng hợp sẽ được sử
dụng xuyên suốt trong các Chương 2, Chương 3, Chương 4. Phương pháp kết
hợp lý luận với thực tiễn, thống kê, điều tra xã hội học, so sánh sẽ được sử dụng
chủ yếu trong Chương 3 và Chương 4.
Cụ thể một số phương pháp là:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp này được áp dụng để phân
tích cả tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp. Tài liệu sơ cấp bao gồm các văn bản
pháp luật và Văn kiện của Đảng có liên quan, các vụ việc, các số liệu thống kê
chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như số liệu thống kê do
tác giả thực hiện thông qua phỏng vấn và điều tra sử dụng bảng hỏi. Tài liệu thứ


5
cấp bao gồm các bài báo, tạp chí, kết luận phân tích đã được các tác giả khác
thực hiện.

- Phương pháp khảo sát thực tiễn: phương pháp này (thông qua phiếu điều
tra xã hội học) được sử dụng để thăm dò dư luận xã hội đánh giá về thực trạng
tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm án hình sự
Việt Nam.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng để
thu thập thông tin và ý kiến của những chuyên gia, các nhà khoa học Việt Nam
và nước ngoài đã và đang nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến tranh tụng và
hoạt động tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh tại phiên toà XXST án hình sự
Việt Nam. Phương pháp này được thực hiện thông qua việc tác giả đề tài sẽ liên
lạc trực tiếp với các chuyên gia, các nhà khoa học trong nước và liên hệ gián tiếp
với các chuyên gia nước ngoài thông qua các cuộc hội thảo mà tác giả tham dự
hoặc qua trao đổi bằng thư điện tử (email).
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp các
số liệu, tri thức có được từ hoạt động phân tích tài liệu, phỏng vấn, hỏi chuyên
gia. Việc tổng hợp nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất
của chính tác giả đề tài.
- Phương pháp luật học so sánh: phương pháp này được áp dụng để nghiên
cứu kinh nghiệm nước ngoài. Trong giới hạn của luận án, tác giả lựa chọn một số
quốc gia tiêu biểu cho các mô hình tranh tụng như: (1) mô hình tố tụng thẩm vấn
đan xen một số yếu tố tranh tụng, tiêu biểu có Pháp, Italia; (2) mô hình tố tụng
tranh tụng, tiêu biểu có Anh và Mỹ; (2) mô hình tố tụng thẩm vấn nhưng có kết
hợp một số yếu tố cơ bản của tranh tụng, tiêu biểu của Liên bang Nga. Qua đó rút
ra bài học và lựa chọn những hạt nhân hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh để
áp dụng đối với Việt Nam.
5. Những điểm mới của luận án
So với các công trình nghiên cứu trước đây, luận án có những điểm mới:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu đầy đủ, toàn diện lý luận về chất lượng tranh tụng
của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự, trong đó luận án tập



6
trung làm rõ các vấn đề lý luận sau: khái niệm, đặc điểm chất lượng tranh tụng của
KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự; các tiêu chí đánh giá chất
lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự;
những điều kiện bảo đảm chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong
phiên toà XXST án hình sự. Đây là những nội dung hoàn toàn mới chưa được công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện như trong luận án này.
Thứ hai, luận án nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng chất lượng tranh
tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự ở Việt Nam
trong thời gian qua, từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu
điểm và hạn chế đó trong chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong
phiên toà XXST án hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua. Kết quả nghiên cứu
này của luận án hoàn toàn mới, chưa có một trong trình nào nghiên cứu đầy đủ
và toàn diện về thực trạng chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh
trong phiên toà XXST án hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua.
Thứ ba, luận án luận chứng những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình
sự ở Việt Nam trong thời gian tới. Đây là nội dung hoàn toàn mới, đến này chưa
có công trình nghiên cứu nào đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình
sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Thứ nhất, về mặt lý luận.
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ bổ sung vào lý luận về tranh tụng trong
tố tụng hình sự (TTHS), trong đó, luận án sẽ bổ sung thêm những vấn đề lý luận
về chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong các phiên toà XXST
án hình sự, như: khái niệm, đặc điểm, các tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng
của KSV VKSND cấp tỉnh trong các phiên toà XXST án hình sự và các điều
đảm bảo chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong các phiên toà
XXST án hình sự.



7
Thứ hai, về mặt thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần tổng kết thực tiễn, đánh giá
toàn diện và sâu sắc về chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong
các phiên toà XXST án hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua, trong đó Luận
án sẽ chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn
chế đó.
Từ cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn chất lượng tranh tụng của KSV
VKSND cấp tỉnh trong các phiên toà XXST án hình sự ở Việt Nam trong thời
gian qua, Luận án đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong phiên toà XXST án hình sự ở Việt
Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Kết quả nghiên cứu này là cơ sở khoa học để các ngành, các cấp tiếp tục
hoàn thiện chính sách, pháp luật để qua đó nâng cao chất lượng tranh tụng của
chất lượng tranh tụng của KSV VKSND cấp tỉnh trong các phiên toà XXST án
hình sự ở Việt Nam.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của Luận án còn là tài liệu nghiên cứu, giảng
dạy và học tập chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; luật hình
sự ở bậc học đại học và sau đại học.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 12 tiết.


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU


1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Tranh tụng tại phiên toà tuy mới ở Việt Nam nhưng với nhiều nước trên thế
giới đã có truyền thống hàng trăm năm. Do vậy, hiện nay có các tài liệu nước
ngoài trực tiếp hoặc gián tiếp bàn về tranh tụng và chất lượng tranh tụng tại
phiên toà của KSV. Các công trình, bài viết có liên quan đến vấn đề tranh tụng
do các tác giả nước ngoài thể hiện, với các nội dung: Sự phát triển của tố tụng
tranh tụng từ thế kỷ 11 tại Vương Quốc Anh với sự thể hiện của thủ tục tranh
tụng, chế định Bồi thẩm đoàn, các chủ thể gồm Luật sư, Thẩm phán, nhân
chứng, các quy tắc về chứng cứ. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu sau:
- Cuốn sách "Adversarial versus Inquisitorial Justice: Psychological
Perspectives on Criminal Justice Systems" (Sự đối nghịch giữa tư pháp tranh
tụng với tư pháp xét hỏi: Những đặc điểm tâm lý trong các hệ thống tư pháp hình
sự) của các tác giả Peter J. van Koppen và Steven D. Penrod [108]. Các tác giả
công trình nghiên cứu khẳng định rằng việc so sánh giữa các mô hình tư pháp là
việc làm không đơn giản vì mỗi mô hình đều có lý do để tồn tại trong thực tiễn
mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia có sự khác nhau về hệ thống tố tụng ở nhiều khía
cạnh, tuy vậy, mỗi quốc gia đang cố gắng có sự thay đổi về hệ thống tố tụng
nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn [108, tr.2]. Mặc dù, giữa mô hình tố tụng tranh
tụng và mô hình tố tụng xét hỏi có những khác biệt cơ bản nhưng chúng có
những đặc điểm chung, điều này được minh chứng rõ rệt giữa mô hình tranh
tụng của Mỹ và mô hình xét hỏi ở Hà Lan. Hơn nữa, trong thực tế không có một
hệ thống tố tụng hình sự của quốc gia nào tuyệt đối hoá một mô hình mà có sự
pha trộn, như ở Châu Âu "không có một hệ thống pháp luật hình sự nào thuần
tuý là mô hình xét hỏi hay mô hình buộc tội mà là sự kết hợp của cả hai mô hình
trên" [108, tr.4].


9

- Cuốn sách "Adversarial Justice: America’s Court System on Trial" (Tố
tụng tranh tụng trong các phiên tòa xét xử ở Mỹ) của tác giả Theodore L.
Kubicek [110]. Công trình nghiên cứu đã khái quát hệ thống tranh tụng trong
hoạt động tố tụng ở Mỹ. Bên cạnh những ưu điểm, tác giả cũng cho rằng, mô
hình này cũng có những yếu điểm nhất định như: như tính thụ động của thẩm
phán xét xử và bồi thẩm đoàn, điều này đang tạo ra cơ hội cho nhiều người thoát
tội, chính vì thế cần phải tiến hành cải cách, trong đó đặc biệt nâng cao vai trò,
trách nhiệm của luật sư.
- Cuốn sách "Readings on Adversarial Justice: The American Approach to
Adjudication" (Tuyển tập nghiên cứu về tư pháp tranh tụng: Mô hình xét xử ở
Mỹ) của tác giả Stephan Landsman [109]. Công trình nghiên cứu đã trình bày
khái quát về mô hình tranh tụng; các quan điểm khác nhau về hệ thống tranh
trụng; những giới hạn về tính trung lập và khả năng thụ động của các thẩm phán.
- Cuốn sách "Beyond the Adversarial System" (Vượt trên hệ thống tranh
tụng) của các tác giả Helen Stacy, Michael Lavarch [104]. Công trình nghiên
cứu về hệ thống tố tụng ở Úc, đặc biệt là mô hình tố tụng tranh tụng ở Úc, qua
đó so sánh với mô hình tranh tụng ở Mỹ để thấy được những sự khác biệt giữa
hai mô hình này với nhau.
- Cuốn sách "On the Adversary system and Justice" (Bàn về hệ thống tranh
tụng và công lý) của tác giả Martin P.Golding [105]. Bài viết phân tích công lý
từ khía cạnh các học thuyết tố tụng, đặc biệt là trong hệ thống tranh tụng. Ví dụ
như lý thuyết tìm kiếm sự thật, một trong những học thuyết có nhiều ảnh hưởng
trong lĩnh vực tố tụng tại các quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển, cũng
nhấn mạnh rằng mặc dù các cơ chế tố tụng đều hướng tới việc tìm ra sự thật
khách quan của vụ việc nhưng công lý và sự thật khách quan của vụ việc là
không hoàn toàn đồng nhất. Công lý là một điều gì đó rộng lớn và có ý nghĩa sâu
sắc hơn so với sự thật, sự thật khách quan của vụ việc chỉ là một trong những
thành tố cơ bản của công lý.



10
- Một số công trình nghiên cứu khác như: bài nghiên cứu "Cân bằng quyền
lực trong hệ thống tranh tụng" của tác giả Martin Blackmore [49], tài liệu của
Văn phòng Viện trưởng Viện công tố, bang New SouthWeles, Úc; Các thủ tục tố
tụng ở Hoa kỳ và những hạn chế về mặt Hiến định và Luật định đối với thương
lượng lời khai được thể hiện trong cuốn sách "Khái quát hệ thống pháp luật Hoà
kỳ", dịch từ nguyên bản tiếng Anh "Outlie of the U.S, Legal System" của Nhà
xuất bản Congressional Quarterly [103]; Bài giảng "Cải cách Toà án" của
Trường Đại học Connor [79] đã nêu nhiều vấn đề mang tính hạn chế của Tố tụng
tranh tụng như: Luật sư quá nhiệt tình, lạm dụng quy trình trước phiên toà và
trong điều tra, huấn luyện nhân chứng và trên cơ sở đó đưa ra ý tưởng cải cách
Toà án. Với cách tiếp cận tương tự, tác giả Setsuo Miyazama nhận định: Thủ tục
tranh tụng không có Bồi thẩm đoàn, thẩm phán có quá nhiều quyền lực, một hệ
thống tranh tụng không cân bằng, phải có hệ thống tranh tụng, trích: "Nội dung
hệ thống tranh tụng Nhật bản", Nhà xuất bản Palgrave Macmilan Houndmills,
Basingstoke, Hamsphine [106]; các đặc điểm tố tụng tranh tụng, tố tụng thẩm
vấn, nhược điểm và ưu điểm của hai hệ tố tụng này, vấn đề kết hợp tố tụng tranh
tụng với tố tụng thẩm vấn ở Pháp, một số hạn chế cần lưu ý khi Việt Nam muốn
cải cách theo hướng tố tụng tranh tụng được nêu trong bài phát biểu "Tố tụng
tranh tụng và tố tụng xét hỏi" của bà Elisabeth Pelsez - Thẩm phán Toà phúc
thẩm Rouen và ông Christian Rayseguier - Viện trưởng Viện công tố tại Rouen
trong Hội thảo ngày 18/01/2002 do Viện khoa học xét xử và Nhà pháp luật Việt
Pháp [87]; Đặc điểm của hai hệ tố tụng dưới góc độ so sánh trong bài viết
Dato’Param Cuma raswamy và Manfred Nowak đồng tổ chức tại Hội thảo về
nhân quyền - Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM) không chính thức lần thứ 9,
Strasbourg, Pháp, năm 2009.
Ngoài những tài liệu trên còn có các tài liệu nước ngoài trực tiếp, gián gián
tiếp liên quan sau: cuốn sách "Hearing the Victim: Adversarial Justice, Crime
Victims and the State" của tác giả Anthony Bottoms, Julian Roberts [102]; "A
Brief Survey of the Development of the Adversary System" (Một khảo sát về phát

triển hệ thống tranh tụng) của tác giả Stephan Landsman [108]; v.v..


11
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề nghiên cứu
Trong tố tụng hình sự, hoạt động tranh tụng giữa các chủ thể có liên quan
trong quá trình xử lý tội phạm qua những vụ án hình sự là vấn đề không phải
mới trong khoa học pháp lý và được ghi nhận thành nguyên tắc của tố tụng hình
sự và áp dụng phổ biến hầu hết ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam từ trước tới
nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan tâm và đề
cập tới nhiều.
Vì vậy, những vấn đề liên quan đến tranh tụng, bảo đảm tranh tụng dân
chủ, công khai giữa các chủ thể, trong đó có vai trò của KSV khi thực hành
quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự, đã và đang thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý, đáng chú ý là các nhóm công trình
khoa học sau:
1.1.2.1. Nhóm những công trình nghiên cứu về các vấn đề cơ bản trong hoạt
động tố tụng hình sự
Nghiên cứu về hoạt động tố tụng hình sự đã được nhiều nhà khoa học pháp
lý Việt Nam quan tâm nghiên cứu trong thời gian qua đã, trong đó có một số
công trình tiêu biểu sau:
- Cuốn sách "Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong luật
tố tụng hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Trần Đức Hiếu
[35] đã trình bày khái niệm, vị trí, ý nghĩa, nội dung và cơ chế của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án (trong đó bao gồm cả quyền bị cáo, bị hại
và các chủ thể khác). Nghiên cứu các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
tòa án trong luật tố tụng hình sự ở Việt Nam từ 1945 đến nay và ở một số nước
trên thế giới như cộng hòa nhân dân Trung Hoa, cộng hòa liên bang Đức, Nhật
Bản, Liên bang Nga. Nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực
trạng áp dụng các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa ở Việt Nam từ

năm 1989 đến nay. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các nguyên nhân của thực
trạng, đưa ra định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa: Cải cách thủ tục tố tụng hình sự theo hướng dân chủ,


12
bình đẳng, công khai, minh bạch; xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy ngành
Tòa án, đảm bảo vị trí độc lập của Tòa án và Thẩm phán trong hoạt động xét xử;
hoàn thiện Bộ luật tố tụng pháp luật tố tụng hình sự; kiện toàn các cơ quan bổ trợ
tư pháp; cần phải nâng cao điều kiện vật chất và kinh tế (quan tâm đào tạo cán
bộ, thành lập các cơ quan bổ trợ tư pháp).
- Công trình "Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo" của tác giả Bùi Bảo Trâm [76] đã khái quát chung về nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Sơ lược về quá
trình hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Việt Nam. Tìm hiểu nội dung cơ bản của nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của các đối tượng nêu trên trong pháp luật hình sự Việt
Nam. Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc
trong hoạt động thực tiễn của chế định này. Nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật, tiến hành động bộ các giải pháp khác nhau, đó là đổi mới tổ chức
bộ máy của hệ thống cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án; đổi mới công tác
quản lý, đào tạo và bồi dưỡng những người tiến hành tố tụng; các giải pháp về
trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật; các giải pháp về chế độ đãi ngộ, chính sách tiền
lương phù hợp với hoạt động đặc thù của điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm
phán. Tài liệu có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi thực hiện đề tài bảo
đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
- Công trình "Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu
quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp" của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn
[66]. Tác giả công trình nghiên cứu cho rằng quy định việc TAND cấp tỉnh và

TAQS cấp Quân khu có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới lên
để xét xử như hiện nay là chưa hợp lý, vì nếu quy định một cách chung chung
như vậy dễ dẫn đến sự tuỳ tiện trong áp dụng và trong thực tế sẽ gây khó khăn
cho việc giải quyết vụ án do việc khi chuyển vụ án từ cấp dưới lên sẽ phải làm
lại cáo trạng truy tố, do đó hồ sơ vụ án sẽ phải chuyển qua lại nhiều lần giữa Toà


13
án và VKS, mất nhiều thời gian không cần thiết. Mặt khác, do chưa có sự giải
thích, hướng dẫn về vấn đề này nên cũng khiến cho việc nhận thức và áp dụng
trong thực tiễn sẽ khó có sự thống nhất.
- Báo cáo "Quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại Việt
Nam" của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) [12]
nhận định: tương tự như Trung Quốc và Nhật Bản, các quy định của pháp luật
Việt Nam không đề cập đến khoảng thời gian bắt buộc mà cơ quan tiến hành
tố tụng phải bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp xúc
người bào chữa. Vấn đề này cần phải được nghiên cứu thấu đáo để bảo đảm
quyền của bị can, bị cáo nhưng cũng bảo đảm được tính khách quan của công
tác điều tra, phòng và chống tội phạm. Pháp luật cần phải quy định về thời
gian cấp giấy chứng nhận người bào chữa sao cho bảo đảm người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có thể tiếp cận luật sư trong một khoảng thời gian đủ để chuẩn
bị cho công tác bào chữa. Ngoài ra, thời gian mà người bào chữa được phép
tiếp xúc với bị can, bị cáo hiện nay còn quá ngắn nên cần có sự thay đổi. Thực
tiễn đòi hỏi pháp luật cần phải có những quy định rõ ràng, cụ thể và có tính
chế tài đối với những hành vi cố tình cản trở việc tiếp xúc của người bị tạm
giam, bị can, bị cáo với người bào chữa của họ.
- Công trình nghiên cứu "Tổ chức và hoạt động các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Ngọc Chí [11]
đã phân tích làm rõ đặc trưng các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là đối với tòa án
trong nhà nước pháp quyền, cũng như những nguyên tắc hoạt động của các cơ

quan này khi giải quyết vụ án hình sự làm căn cứ khoa học cho việc đổi mới các
cơ quan tiến hành tố tụng nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở học
thuật pháp luật so sánh, đề tài đã phân tích, đối chiếu so sánh pháp luật tố tụng
hình sự về cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở một số nước tiêu biểu trong các mô
hình tố tụng hình sự trên thế giới để rút ra những kinh nghiệm có thể học tập cho
việc hoàn thiện pháp luật, đổi mới các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trước yêu
cầu cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.


14
- Công trình "Vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam"
của tác giả Nguyễn Huyền Ly [45] đã xác định nội hàm của quyền tư pháp trong
nhà nước pháp quyền, những đặc điểm của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư
pháp, cơ quan tư pháp, vị trí trung tâm của toà án trong việc thực hiện quyền tư
pháp. Nghiên cứu một số vai trò quan trọng và nổi bất của toà án trong nhà nước
pháp quyền. Phân tích một số quy định pháp lý về vị trí, vai trò của toà án; một
số quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng toà án và
pháp luật liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động xét xử của toà án và thực
tiễn hoạt động xét xử của toà án trong thời gian từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở
những luận điểm đã nêu ra và những đánh giá vai trò của tòa án ở nước ta hiện
nay, qua đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của toà án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam.
- Cuốn sách "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự" Võ Khánh Vinh
[99] đã bình luận về những nội dung của từng điều luật của Bộ luật tố tụng hình
sự hiện hành về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức
và công dân. Trên cơ sở lý luận chính thống, những phân tích, bình luận của các
tác giả trong cuốn sách là tài liệu cho giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh
trong quá trình thực hiện luận án.

- Bài viết "Bảo đảm bình đẳng trong quan hệ tố tụng" của tác giả Vũ Thế
Lân [41] đã nhận định Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của bộ luật này". Thế nhưng,
thời gian qua vẫn tồn tại một thực trạng đáng buồn là nhiều luật sư bị cản trở
hoạt động từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong nhiều cuộc hội thảo về
nghiệp vụ do Liên đoàn Luật sư Việt Nam tổ chức hoặc hội nghị của các đoàn
luật sư, một số ý kiến đã nêu lên những vụ việc cụ thể luật sư bị cản trở, hoặc


15
gây khó khăn trong hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng
của mình. Các trường hợp bị cản trở, gây khó khăn chủ yếu là việc cấp giấy
chứng nhận về việc tham gia tố tụng của luật sư; việc gặp bị can, bị cáo.
- Cuốn sách "Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến
pháp năm 2013" của tác giả Đào Trí Úc [82] đã phân tích tính chất và đặc điểm
của quyền tư pháp, với những tính chất đặc trưng so với quyền lập pháp và
quyền hành pháp, đó là tính độc lập, quyền xét xử chỉ thuộc về tòa án, tuân theo
pháp luật và phán quyết của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật thì đồng thời có
hiệu lực thi hành đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tác giả phân tích và
kiến nghị một số giải pháp bảo đảm vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư
pháp là hoạt động xét xử.
- Bài viết "Góc nhìn về đổi mới tòa án và tố tụng hình sự" của tác giả Tô
Văn Hòa [36] nhận định: theo cách thức tổ chức hiện nay, tăng thẩm quyền cho
tòa án cấp huyện đồng nghĩa với việc tòa án cấp tỉnh sẽ là cỗ máy xét xử phúc
thẩm chính. Ðối chiếu quy định của pháp luật tố tụng thì tòa án cấp tỉnh cũng
là cỗ máy xét xử sơ thẩm, bởi vì cơ quan này có thẩm quyền xét xử chung đối
với hầu hết các loại vụ việc. Chưa hết, tòa án cấp này cũng phải "gánh" cả
thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm. Với tình trạng này, việc tòa án cấp

tỉnh bị quá tải và hoạt động không được hiệu quả như mong muốn là tình
trạng dễ hiểu. Khoản 2, Ðiều 170, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 đều quy
định TAND cấp tỉnh có quyền lấy vụ án của tòa án cấp dưới lên để giải quyết.
Ðể ngăn ngừa nguy cơ này, có thể thành lập các chi nhánh của các tòa án
nhân dân sơ thẩm khu vực ở các địa bàn cần thiết, để người dân có thể dễ
dàng tiếp cận tòa án và được thi hành công lý ngay cả đối với những tranh
chấp nhỏ, hoặc vụ án ít nghiêm trọng trong cuộc sống hằng ngày.
1.1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu chung về hoạt động tranh tụng
tại các phiên tòa hình sự
Trên phương diện chung, nghiên cứu về hoạt động tranh trụng tại các phiên
toà hình sự có những công trình tiêu biểu sau:


16
- Công trình "Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" của tác giả Nguyễn
Đức Mai [47]. Nội dung luận văn làm rõ tính khoa học và sự cần thiết trong hoạt
động tranh tụng, đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ tố tụng tại phiên toà xét
xử án hình sự.
- Công trình "Tranh tụng tại phiên toà - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"
của Trường Đào tạo các chức danh tư pháp - Bộ Tư pháp [80] đã tập trung làm
rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên toà; đánh giá thực trạng
thực hiện tranh tụng và đề ra giải pháp nhằm tăng cường tranh tụng tại phiên toà,
định hướng cho việc xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo chức danh
tư pháp ở nước ta.
- Đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh tụng tại
phiên toà" của Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao [86]. Nội
dung chỉ ra một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống tranh tụng qua phương
pháp so sánh với hệ thống tố tụng thẩm vấn và những quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự cần sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu khi áp dụng tố tụng tranh
tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự.

- Công trình "Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử án hình sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Tiến Long [42].
Nội dung của luận văn đã làm rõ thêm các khái niệm về tranh tụng; vai trò, đặc
điểm của tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình sự. Từ đó, đề
xuất các giải pháp đảm bảo tranh tụng trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay.
- Các cuốn sách "Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm" và "Tranh luận tại
phiên toà phúc thẩm" của tác giả Dương Thanh Biểu [2; 4]. Hai công trình
nghiên cứu chuyên sâu đã đề cấp những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp
luật về các trình tự nội dung, kỹ năng liên quan đến việc tranh tụng tại phiên toà
sơ thẩm và phúc thẩm, có các ví dụ minh hoạ bằng những vụ án thực tế, chỉ rõ
những tồn tại thiếu sót và những việc cần phải làm của kiểm sát viên trong tranh
luận tại phiên toà.
- Đề tài "Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần
cải cách tư pháp" của tác giả Lê Hữu Thể [71]. Nội dung đề tài góp phần làm rõ


17
hơn tinh thần, nội dung tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08, 49 của Bộ
Chính trị. Đồng thời xây dựng những luận cứ khoa học, đánh giá khái quát một số
vấn đề thuộc nội dung hoạt động tranh tụng cả về phương diện pháp luật, cả về thực
tiễn. Từ đó, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
tranh tụng của hệ thống tố tụng hình sự Việt Nam.
- Công trình "Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Văn Hiển [33]. Công
trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn nguyên tắc tranh tụng trong xây dựng và áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất định
hướng, giải pháp xây dựng và thể chế hóa nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam.
- Bài viết "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa" của tác giả Hồ Nguyễn Quân [62] đã nêu ra các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa, để rồi đưa ra một số

giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự như sự hoàn thiện
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh tụng tại phiên tòa; sự kiện toàn
đội ngũ Thẩm phán, KSV, Hội thẩm, luật sư…
- Luận án "Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Văn
Thành [69]. Nội dung của luận án đã khẳng định: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là tạo các điều kiện cần và đủ nhằm
bảo đảm hiện thực hóa nguyên tắc tranh tụng một cách nghiêm túc, triệt để tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; tạo điều kiện cho các bên tham gia tố
tụng đưa ra quan điểm, chứng cứ và tranh luận để làm sáng tỏ sự thật của vụ án
trên cơ sở những chứng cứ không thể bác bỏ, nhằm mục đích xác định sự thật
khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có hành vi
phạm tội, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, bảo vệ pháp chế,
pháp luật, giám sát hoạt động tư pháp, bảo vệ công lý, tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật. Đồng thời luận án cũng nêu rõ những bất cập trong quy định


18
và thực tiễn áp dụng về bảo đảm tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ở Việt Nam hiện nay: 1) Đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm còn thiếu về số
lượng, hạn chế về chất lượng, đội ngũ luật sư chưa bảo đảm thực hiện hoạt động
tranh tụng bình đẳng trong tố tụng hình sự; 2) Hồ sơ vụ án trong xét xử sơ thẩm
và những chứng cứ hoàn toàn do các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm soát với
chất lượng chưa cao, thiếu tính thuyết phục; 3) Công tác tổ chức thực hiện, trình
tự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
và những điều kiện, cơ sở vật chất bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự còn nhiều hạn chế. Từ thực tế đó, luận án đã đưa ra một số
giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay là: 1)
Thống nhất và nâng cao ý thức pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong

tố tụng hình sự ở Việt Nam; 2) Tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự; 3) Xây dựng Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, sửa đổi Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật Luật sư; 4) Hoàn
thiện mô hình tố tụng hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; 5) Xây dựng đội ngũ cán bộ nhằm bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; 6) Hoàn
thiện các thiết chế bổ trợ tư pháp; 7) Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt
động xét xử, chế độ chính sách cho đội ngũ Thẩm phán; 8) Hoàn thiện cơ chế
giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; giám sát và phản biện xã hội đối với
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử của tòa án nói riêng; 9) Mở
rộng và tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động xét xử vụ án hình sự.
- Luận án "Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng
tranh tụng" của tác giả Nguyễn Thị Thủy (2014) [73]. Nội dung của luận án đã
đưa ra định nghĩa về mô hình tố tụng hình sự và các yếu tố phân loại mô hình
TTHS, đó là: (1) theo tính chất của TTHS; (2) theo mục tiêu của TTHS và cách
thức đạt đến mục tiêu của TTHS; (3) theo các chức năng cơ bản của TTHS và


19
địa vị pháp lý của các chủ thể trong thực hiện chức năng cơ bản của TTHS; (4)
theo chứng cứ và sự tồn tại của hồ sơ vụ án hình sự. Từ đó, tác giả đã khái quát
các mô hình TTHS hiên nay và các ưu điểm và hạn chế của mỗi mô hình: mô
hình tố tụng tranh tụng; mô hình tố tụng thẩm vấn; mô hình kết hợp giữa mô
hình tranh tụng và mô hình thẩm vấn. Trên cơ sở đó, tác giả khẳng định mô hình
tố tụng hiện nay ở Việt Nam (theo Bộ luật TTHS 2003) là mô hình tố tụng pha
trộn thiên về thẩm vấn.
Ngoài ra, tiếp cận theo hướng nghiên cứu này còn có một số công trình
khác: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình
sự Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thu Hiền [34]; "Các quy định về

nguyên tắc "Bảo đảm tranh tụng trong xét xử" trong Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013"
của Nguyễn Hồng Ly [46] tập trung bàn về nguyên tắc "Bảo đảm tranh tụng trong
xét xử" trong Hiến pháp 2013; "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả
Nguyễn Mạnh Kháng [39]; "Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi và nguyên tắc
tranh tụng" của tác giả Nguyễn Thái Phúc [60]; "Bản chất tranh tụng tại phiên tòa"
của tác giả Trần Văn Độ [28]; "Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên
tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự" của tác giả Lê Cảm [9]; "Nguyên tắc tranh
tụng, giải quyết nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự" của tác giả Võ
Kim Oanh [56]; bài viết "Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm" của tác giả
Nguyễn Đức Mai, đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2008 [48]; công trình "Cơ sở lý
luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên toà trong xét xử án hình sự ở tỉnh Vĩnh
Phúc" của tác giả Đỗ Anh Cường [14]; v.v...
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vị trí, vai trò, các nguyên tắc
của hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự. Đặc biệt, các công trình trên
đã đề cập đến thực tiễn pháp luật Việt Nam và thực hiện pháp luật Việt Nam về
hoạt động tranh tụng trong các phiên tòa hình sự để từ đó thấy được những mặt
tích cực, cũng như những tồn tại, hạn chế trong pháp luật về hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa hình sự ở nước ta hiện nay


×