Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Hoạt động tranh tụng của viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.83 KB, 107 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS.
Vũ Gia Lâm. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng
một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các
tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn
và chú thích nguồn gốc. Các nội dung nghiên cứu,
số liệu trong đề tài này đảm bảo tính trung thực,
đáng tin cậy.
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT Chữ cái viết tắt Cụm từ đầy đủ
1 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
2 HĐXX Hội đồng xét xử
3 KSV Kiểm sát viên
4 VKS Viện kiểm sát
4
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………. 1
CHƯƠNG 1. Một số vấn đề chung và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành về hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự... 8
1.1. Một số vấn đề chung về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự… 8


1.1.1. Khái niệm hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự …………………………………………………………………………………. 8
1.1.2. Chủ thể của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.. 13
1.1.3. Nội dung hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự .................................................................................................................................. 15
1.1.4. Phạm vi hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự ………………………………………………………………….............................. 16


1.1.5. Ý nghĩa của hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ………………………………………………………………………………… 17
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hoạt động tranh tụng của
VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ……………………………………. 19
1.2.1. Hoạt động tranh tụng của KSV khi xét hỏi……………………………………… 19
1.2.2. Hoạt động tranh tụng của KSV khi tranh luận………………………………….. 23
Kết luận Chương 1 …………………………………………………………………….. 29
CHƯƠNG 2. Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt
động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự …………….. 30
2.1. Thực trạng thực hiện hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự …………………………………………………………………… 30
2.1.1. Những kết quả đạt được ……………………………………………………….. 30
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện hoạt động tranh tụng của KSV
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự …………………………….......................... 35


2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc………………………………….... 44
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện hoạt động
tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ………................... 61
2.2.1. Giải pháp lập pháp……………………………………………………………….. 61
2.2.2. Các giải pháp khác …………………………………………………………….. 71
Kết luận chương 2……………………………………………………………............. 80
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………. 81
LỜI MỞ ĐẦU
5
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong những năm vừa
qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các
cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong hoạt động tư pháp góp phần
quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên,

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vẫn còn tình trạng để xảy ra oan sai,
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Do vậy,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hạn chế tình trạng oan, sai đồng thời hiện thực hóa
các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Với chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong những năm qua, ngành Kiểm sát đã
làm tốt nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật. Vai trò, vị trí của Viện kiểm sát (VKS)


trong hoạt động tố tụng hình sự ngày càng được nhấn mạnh qua các quy định
của Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn bản pháp luật
khác.
Để công cuộc cải cách tư pháp đạt kết quả, Đảng đã ban hành nhiều nghị
quyết làm cơ sở và định hướng lớn cho công cuộc cải cách này. Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của
KSV tại phiên tòa bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác”. Tiếp đến, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp
tục khẳng định: "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử,
coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp". Đây là một yêu cầu và đòi hỏi
mang tính khách quan và là một biện pháp đảm bảo cho việc xét xử tại các phiên
6
tòa được dân chủ, khách quan, toàn diện; để việc phán quyết của Hội đồng xét
xử (HĐXX) được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự
đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác
dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Kiểm sát viên (KSV) đại diện cho
VKS giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một chủ thể
chính của bên buộc tội tham gia vào hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Thông

qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ, tình tiết về vụ án được


kiểm tra, xác minh thông qua việc xét hỏi và tranh luận giữa các bên giúp cho
HĐXX xác định đúng đắn toàn diện sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để
ra bản án hoặc quyết định bảo đảm đúng pháp luật, tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội
phạm. Chính vì vậy, trong những năm qua, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
luôn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu pháp luật, ngoài ra còn
trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như
trong hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn cho thấy hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm còn nhiều vướng mắc, hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, không đảm bảo yêu cầu nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy,
việc nghiên cứu làm sáng tỏ hoạt động tranh tụng của VKS thông qua chức
năng, nhiệm vụ của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm để tìm ra những hạn chế,
bất cập và đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục, nâng cao chất lượng
hoạt động tranh tụng của KSV có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vậy, học viên
đã chọn đề tài: "Hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
7
Trong những năm gần đây, vấn đề tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự đã được nhiều nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực tiễn quan tâm


nghiên cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau như Luận văn thạc sĩ luật học
“Vấn đề tranh tụng trong Tố tụng hình sự” của Nguyễn Đức Mai (1996); Luận
văn thạc sĩ luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm”
của Nguyễn Hải Ninh (2003);“Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” (2007) của

TS. Dương Thanh Biểu; Luận văn thạc sĩ luật học “Chức năng, nhiệm vụ của
Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” của Hà Minh Hải
(2007); Luận văn thạc sĩ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa theo pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam” của Bùi Thị Hà (2010);“Hoàn thiện các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
- cơ sở lý luận và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp cơ sở TANDTC (2011), Chủ
nhiệm - TS. Nguyễn Đức Mai; Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục tranh luận tại
phiên toà hình sự”của Đặng Thị Giao (2011); Luận văn thạc sĩ luật học“Thực
hành quyền công tố trong điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu
cầu cải cách tư pháp - Nhìn nhận từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân” của
Nguyễn Thị Hoàng Minh (2013); Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về tranh luận tại phiên tòa” của Lý Bích
Hường (2015)…
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành về các
vấn đề có liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa hình sự như:“Đặc điểm mô hình
tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình Tố tụng hình sự ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Đức Mai (2009), Tạp chí TAND, (23-24); “Hoàn thiện
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về phạm vi tranh luận và chủ


thể tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của ThS. Hồ Đức Anh (2007), Tạp
chí Kiểm sát,(20); “Cần nhận thức đúng đắn về tranh tụng và tranh luận để
nâng cao kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự” của
8
ThS. Nguyễn Hữu Hậu (2006), Tạp chí Kiểm sát, (8); “Một số giải pháp nâng
cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của
Th.s Phạm Quang Định (2009), Tạp chí Kiểm sát, (2); “Kỹ năng và văn hóa
tranh luận tại phiên tòa” của LS Lê Đức Tiết (2005), Tạp chí Kiểm sát, (12);
“Một số vấn đề về văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên tại phiên tòa” của TS Đinh
Xuân Nam (2006), Tạp chí Kiểm sát, (8);…

Qua nghiên cứu các công trình nêu trên thấy rằng, nhìn chung các tác giả
thường nghiên cứu về vấn đề tranh tụng chung trong tố tụng, có ít các công trình
nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm. Vì vậy, đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, đầy
đủ và toàn diện. Làm sáng tỏ vấn đề này cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn
tạo sẽ cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động tranh
tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ:


- Một số vấn đề chung về hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tranh tụng của VKS tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
- Thực trạng hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự những năm gần đây và những bất cập, vướng mắc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
* Phạm vi nghiên cứu
9
Phạm vi nghiên cứu luận văn được giới hạn trong nội dung về hoạt động
tranh tụng của VKS thông qua hoạt động của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự. Bao gồm một số vấn chung về tranh tụng trong tố tụng hình sự
như khái niệm, ý nghĩa, nội dung… tranh tụng; quy định của BLTTHS hiện
hành về chức năng, nhiệm vụ của KSV trong tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện tranh tụng của VKS thông qua hoạt
động của KSV những năm gần đây. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp hoàn thiện

các quy định của BLTTHS về tranh tụng của KSV và giải pháp nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động tranh
tụng của VKS thông qua hoạt động của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án


hình sự, thực trạng tranh tụng cũng như các bất cập của quy định pháp luật hiện
hành để từ đó làm cơ sở kiến nghị một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh
tụng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn tập trung trả lời các câu hỏi
sau:
- Nghiên cứu một số cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm từ đó làm rõ hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm về hình sự là gì? BLTTHS quy định KSV có những nhiệm vụ, quyền
hạn gì trong tranh tụng tại xét xử sơ thẩm vụ án hình sự?
- Thực trạng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
hiện nay như thế nào? Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành có những quy định
bất cập, hạn chế gì về hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm. Phân tích, đánh giá những bất cập, hạn chế của pháp luật tố tụng hình sự
10
cũng như thực trạng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa để từ đó đề xuất
phương hướng và các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự?
6. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của


Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp
khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Góp phần phát triển cơ sở lý luận về hoạt động tranh tụng nói chung và
hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự;
- Nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tranh
tụng.
- Phân tích, làm rõ hoạt động, chức năng và vai trò của VKS trong tranh
tụng tại phiên tòa theo BLTTHS năm 2003;
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, phương hướng nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
11
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở các
cơ sở đào tạo luật của Việt Nam trong chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình
sự; các cán bộ công tác thực tiễn, nhất là những người tiến hành và tham gia tố
tụng của ngành Kiểm sát nói chung cũng như những bạn đọc khác quan tâm đến


lĩnh vực khoa học này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung và quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự

Chương 2. Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề chung về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
12
1.1.1. Khái niệm hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Để làm rõ khái niệm hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (hình sự sơ thẩm), trước hết cần làm rõ các khái


niệm: tranh tụng; tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
Theo nghĩa tiếng Việt thông dụng, tranh tụng có nghĩa là “Thưa kiện lên
Tòa án để phân xử phải trái” 1 . Tranh tụng thường được hiểu theo nghĩa là một
hệ thống tố tụng. Trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống tố tụng chủ yếu là: tố
tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. Tố tụng tranh tụng là thủ tục tố tụng được
áp dụng rộng rãi ở các nước theo hệ thống luật án lệ Common Law còn tố tụng
thẩm vấn được sử dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống luật Civil Law. Cụ
thể:
Thứ nhất, về hệ thống tố tụng tranh tụng, có thể khái quát về một số đặc
điểm của hệ thống Tố tụng tranh tụng như sau:
- Trong hệ tố tụng tranh tụng, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và
chủ yếu. Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và
tiến hành tố tụng chính, sự tập trung nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động
khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố viên chỉ là những hoạt động

mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi Luật tố tụng hình sự
2 . Các chứng cứ trong vụ án đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh
tụng giữa công tố viên và bị cáo, Luật sư.
1 . Vũ Xuân Thái (1999), Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin,
tr.895.
2 . Phạm Hồng Hải (2004), "Tiến tới xây dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam theo kiểu tố
tụng
tranh tụng", trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà


nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, tr. 256.
13
- Trong tố tụng tranh tụng, thẩm phán giữ vai trò trung lập, là người trọng
tài trong việc tranh tụng. Thẩm phán không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm
tội hay không phạm tội mà các chứng cứ đều do các bên đưa ra trong quá trình
tranh tụng. Tại phiên toà, thẩm phán làm nhiệm vụ điều khiển phiên toà, không
tham gia thẩm vấn, điều tra hoặc chỉ tham gia một cách hạn chế để đảm bảo sự
khách quan trong giải quyết vụ án.
- Trong tố tụng tranh tụng, các bên chủ thể hoàn toàn bình đẳng nhau, họ
được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra
độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Trách nhiệm đưa
ra chứng cứ buộc tội thuộc về công tố viên, và bên bào chữa có trách nhiệm
chứng minh là mình vô tội. Họ phải tự tìm kiếm, trình bày chứng cứ và tranh
luận một cách thuyết phục nhất trước Tòa án.
- Trong tố tụng tranh tụng có những quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động
tố tụng như quy tắc tố tụng (Rule of procedure), quy tắc về chứng cứ (Rule of
Evidence) và quy tắc điều chỉnh đạo đức luật sư (Rule of ethics). Trong đó, Quy
tắc về chứng cứ bảo đảm sự thống nhất của các yếu tố trong hệ tranh tụng. Nó
ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không đáng tin cậy có thể làm Toà án

đưa ra phán quyết dựa trên những thông tin sai lệch. Nó cũng nghiêm cấm sử
dụng chứng cứ có thể gây ra những định kiến không công bằng cho một trong


các bên tham gia tố tụng. Quy tắc về chứng cứ cũng tạo điều kiện ràng buộc luật
sư để họ biết được những chứng cứ nào sẽ được chấp thuận tại Toà sau này;
đồng thời là cơ sở để xác định thẩm quyền của thẩm phán chủ toạ phải điều hành
diễn biến, thủ tục phiên toà: ông ta không có quyền chọn chứng cứ mà ông ta
thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã được xác định
trước 3 .
3 . Nguyễn Hải Ninh, Nguyễn Hà Thanh (2009), “Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn
trong
tư pháp hình sự thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (11), tr. 72-79.
14
- Ngoài ra, trong tố tụng tranh tụng còn có yếu tố thú tội và mặc cả nhận
tội. Trong nhiều trường hợp bên buộc tội nhiều khi không thể tìm ra đủ chứng
cứ để buộc tội một cách rõ ràng, thuyết phục đối với bị cáo. Bởi vậy luật pháp
có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ
quan công tố thỏa thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về
bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hoặc
giảm hình phạt….
Đây là cơ chế tác động tới trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất kỳ
giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì toàn bộ thủ tục tố tụng đối với vụ án sẽ
được thay đổi theo hướng không còn tranh tụng nữa và lúc đó Thẩm phán sẽ
kiểm tra lại hồ sơ vụ án và quyết định hình phạt.
Thứ hai, hệ tố tụng thẩm vấn. Tòa án trong tố tụng thẩm vấn có vai trò chủ


động trong việc tìm ra sự thật của vụ án hơn rất nhiều so với tố tụng tranh tụng
bằng cách có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ. Quá trình xét xử tại

phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn không phải là cuộc tranh tụng giữa các bên
buộc tội và gỡ tội, mà thực chất vẫn là sự tiếp tục của việc điều tra, thẩm định
chứng cứ, tìm chứng cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Các cơ quan tố
tụng đều làm nhiệm vụ buộc tội và gỡ tội đối với vụ bị cáo.
Trong tố tụng thẩm vấn, Viện công tố (Viện kiểm sát) có những quyền hạn
lớn hơn trong quá trình điều tra và truy tố so với trong tố tụng tranh tụng. Viện
công tố có thẩm quyền phê chuẩn khởi tố vụ án, trực tiếp điều tra và chỉ đạo
hoạt động điều tra của cảnh sát điều tra.
Tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay thường được xem là kiểu tố tụng
thẩm vấn những có kết hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng.
Trước đây, về mặt lý luận tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ
"tranh tụng" không được dùng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Trước
15
yêu cầu cải cách tư pháp,Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002) đưa ra yêu cầu:
“Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý


kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị
đơn… để ra những bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
trong thời hạn do luật định.”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006) tiếp
tục xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp là “Nâng
cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất
cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.

Hiện nay còn đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tranh
tụng tại phiên tòa; phạm vi, phương pháp và nội dung tranh tụng; thời điểm bắt
đầu và thời điểm kết thúc của tranh tụng tại phiên tòa. Theo Hiến pháp 2013,
tranh tụng là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Nhưng tranh tụng cũng thể
được nhìn nhận là hoạt động của những người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng. Có quan điểm đồng nhất tranh tụng tại phiên tòa với tranh luận. Có quan
điểm lại cho rằng "Không nên hiểu tranh tụng đơn thuần là việc tranh luận một
cách đầy đủ tại phiên tòa, mà cần phải hiểu bản chất của tranh tụng là một
phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án" 4 .
4 . Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố
tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, tr. 592.
16
Từ điển Luật học đưa ra khái niệm về tranh tụng như sau:


“ Tranh tụng là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên
tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với
nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi
ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh
tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa
xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi
bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển, quyết
định của Tòa án với vai trò trung gian trọng tài” 5 .
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết người viết đồng tình với
các định nghĩa đó về khái niệm tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa và cho
rằng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động tố tụng
được tiến hành giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong phiên tòa xét xử sơ thẩm về
hình sự để bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của
phía bên kia dưới sự điều khiển của Tòa án nhằm tìm ra sự thật khách quan của
vụ án. Theo đó, tranh tụng tại phiên tòa không chỉ có phần tranh luận tại phiên

tòa mà còn bao gồm cả phần khác của quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Từ những khái niệm nói trên về tranh tụng, tranh tụng tại phiên tòa, hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, ta có thể đưa ra khái niệm về hoạt động
tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm về hình sự như sau: Hoạt động
tranh tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là toàn bộ những hành vi mà
KSV thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm từ khi bắt đầu xét hỏi cho đến khi kết
thúc phần tranh luận nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ


quan điểm truy tố của VKS, bác bỏ quan điểm của bên gỡ tội, giúp cho HĐXX
ra một bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
5 . Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 807 – 808.
17
1.1.2. Chủ thể của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự ở các nước trên thế giới nói chung và pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam nói chung xác định có các nhóm chủ thể tham gia vào
quá trình tranh tụng tại phiên tòa là: Các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội
(bên buộc tội); Các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bào chữa (bên gỡ tội) và
Tòa án (HĐXX) thực hiện chức năng xét xử, đóng vai trò trung gian, điều khiển
hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Ba nhóm chủ thể này thực hiện các chức
năng của tố tụng hình sự là chức năng buộc tội, gỡ tội, xét xử.
Các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng
như chứng cứ mới cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, các quy định của
pháp luật hiện hành để bảo vệ quan điểm, luận cứ và luận chứng của mình đưa
ra. HĐXX có vai trò trọng tài, trung gian đứng giữa hai bên xem xét tất cả
chứng cứ do bên buộc tội, bên gỡ tội đưa ra và những lý lẽ để luận tội và bào
chữa. Để tranh tụng tại phiên tòa đạt được kết quả, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa
có quyền điều khiển phiên tòa theo đúng tiến trình tranh tụng. Trong quá trình
tranh tụng, HĐXX luôn thể hiện sự khách quan, tập trung lắng nghe việc tranh



tụng của các bên để thấy thấy những tình tiết chứng cứ nào còn chưa rõ và
những vấn đề còn mâu thuẫn, Chủ tọa phiên tòa cho hai bên tranh luận rõ hơn,
chất vấn nhau nhiều hơn để làm sáng tỏ vấn đề, đồng thời dựa trên sự đánh giá
khách quan toàn diện những chứng cứ, tình tiết, quá trình tranh luận trên mà
HĐXX sau đó có phán quyết công bằng.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, KSV đại diện cho
VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa là chủ thể chính của bên buộc tội. Thực
hành quyền công tố tại phiên tòa là chức năng của VKS được quy định trong tố
tụng hình sự. Trên cơ sở chức năng này, khi thực hành quyền công tố tại phiên
18
tòa hình sự, KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy định trong
BLTTHS. Việc tranh tụng tại phiên tòa không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ
của KSV được quy định trong BLTTHS. Ngoài KSV, người bị hại cũng có thể
là chủ thể buộc tội trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người
bị hại.
Chủ thể chính của bên gỡ tội là bị cáo, người bào chữa hoặc người đại diện
hợp pháp của bị cáo. Bên gỡ tội sử dụng những lập luận, lý lẽ, chứng cứ của
mình đưa ra nhằm bào chữa, bác bỏ quan điểm buộc tội của VKS đối với bị cáo,
hoặc để thay đổi sang tội danh khác nhẹ hơn để bị cáo không phải chịu trách
nhiệm hình sự hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, những người tham gia tố tụng khác như nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại


diện hợp pháp của họ cũng có thể tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Chức năng làm trọng tài, điều khiển hoạt động tranh tụng giữa các bên và
ra phán quyết về vụ án thuộc về Tòa án mà ở đây là thông qua hoạt động của

HĐXX. Trong các thành viên của HĐXX thì chỉ có Chủ tọa phiên tòa mới tham
gia vào quá trình tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa là người điều khiển hướng hoạt
động tranh tụng giữa các bên tập trung vào các vấn đề cần giải quyết trong vụ
án, đảm bảo các nội dung tranh luận được đối đáp đầy đủ.
1.1.3. Nội dung hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ nhất, hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa được thực hiện thông
qua hành vi của KSV nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án dưới sự
điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
19
KSV khi tham gia phiên tòa là đại diện cho VKS thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX. Do vậy, việc tranh tụng của
KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là nhằm mục đích đại diện Nhà nước thực
hành quyền công tố tại phiên tòa, đọc cáo trạng hoặc quyết định truy tố của
VKS, tham gia xét hỏi để làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án nhằm bảo vệ
cáo trạng, quyết định truy tố, đưa ra các chứng cứ, thực hiện việc luận tội và
thực hiện việc đối đáp đối với từng vấn đề cần giải quyết mà bên gỡ tội và


những người tham gia tố tụng khác đặt ra khi tranh luận. Hoạt động đưa ra các
lập luận, chứng cứ buộc tội bị cáo, bảo vệ quan điểm truy tố là hoạt động tranh
tụng đặc thù, về cơ bản chỉ có ở KSV đại diện cho VKS.
Thông qua hoạt động tranh tụng KSV thuyết phục HĐXX ra các quyết định
theo ý kiến đề nghị của mình, bác bỏ ý kiến đề nghị có tính chất đối lập của bên
gỡ tội, đồng thời KSV phải có trách nhiệm bảo vệ công lý, cùng HĐXX làm rõ
mọi tình tiết của vụ án, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết vụ án một cách
khách quan, công bằng, nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm không làm oan
người vô tội. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của KSV, của bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

Thứ hai, KSV phải áp dụng những quy định của pháp luật khi thực hiện
hoạt động tranh luận.s
Để phục vụ cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa, KSV phải chuẩn bị
những tài liệu chứng cứ cần thiết để bảo vệ lý lẽ của mình như cáo trạng, dự
thảo luận tội, dự thảo đề cương xét hỏi... Trong quá trình đó KSV cần phải vận
dụng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Đó là quá trình dựa vào
chứng cứ đã được thu thập, căn cứ vào các điều khoản được quy định trong pháp
luật hình sự và các văn bản khác để đối chiếu so sánh tìm ra những tình tiết buộc
20
tội để truy tố với những chứng cứ chặt chẽ nhất nhằm không bỏ lọt tội phạm. Tại
phiên tòa, KSV phải trình bày sao cho có sức thuyết phục nhất trước HĐXX.


Khi tiến hành đối đáp, tranh luận, KSV đưa ra những chứng cứ, lập luận, quy
định pháp luật để chứng minh cho luận điểm của mình và bác bỏ luận điểm của
bên gỡ tội.
1.1.4. Phạm vi hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Phạm vi tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm được xác định bởi
thời điểm bắt đầu từ khi khai mạc phiên tòa và kết thúc sau khi Tòa án công bố
phán quyết nhưng phạm vi hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử
hình sự sơ thẩm được tiến hành từ giai đoạn xét hỏi đến khi kết thúc giai đoạn
tranh luận. Vì theo người viết, trong những giai đoạn khác của phiên tòa hình sự,
KSV không thực hành quyền công tố (trong đó có hoạt động tranh tụng) mà thực
hiện hoạt động kiểm sát việc xét xử, vì vậy, KSV không thực hiện tranh tụng
trong các giai đoạn này.
Xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn đầu tiên của quá trình tranh tụng của KSV
tại phiên tòa, bao gồm các hoạt động đọc bản cáo trạng và tiến hành xét hỏi.
Hoạt động tranh tụng được bắt đầu từ giai đoạn xét hỏi vì đây là giai đoạn KSV
nêu ra quan điểm buộc tội của VKS (đọc bản cáo trạng) đối với bị cáo và trình

bày ý kiến bổ sung trước khi xét hỏi. Hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên
tòa kết thúc khi kết thúc tranh luận. Khi HĐXX nghị án và tuyên án, KSV thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động, quyết
định, bản án của HĐXX chứ không thực hiện hoạt động tranh tụng.


1.1.5. Ý nghĩa của hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
21
Việc đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và tranh
tụng của Viện kiểm sát nói riêng là nội dung có ý nghĩa quan trọng cả về mặt
chính trị - xã hội và về mặt pháp lý.
Về mặt chính trị - xã hội, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thể hiện đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp
theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2006. Đó là nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên
tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ. Nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền tư
pháp dân chủ, nghiêm minh, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta và bảo vệ trật tự, kỷ cương;
bảo đảm và tôn trọng dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Về mặt pháp lý, tranh tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một
trong những nội dung có ý nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm
bình đẳng, dân chủ, xác định sự thật khách quan của vụ án; kịp thời phát hiện và
khắc phục các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tố tụng hình sự Việt Nam là mô hình tố tụng
thẩm vấn kết hợp với những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng.


Một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước ta đó là nguyên tắc

xác định sự thật vụ án. Đây cũng chính là mục đích xuyên suốt của tố tụng hình
sự nước ta. Vì vậy, VKS với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, thực hiện hoạt động tranh tụng cũng
không nhằm điều gì khác ngoài xác định sự thật khách quan của vụ án.
Tranh tụng tại phiên tòa là tranh tụng trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự,
là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất bản chất của tranh tụng trong tố tụng hình sự là
22
cuộc đấu tranh trực diện công khai giữa hai bên buộc tội và gỡ tội để tìm ra công
lý. Tranh tụng tại phiên tòa là trọng tâm và có vai trò rất quan trọng đối với việc
giải quyết, xét xử vụ án. Tại phiên tòa, VKS thực hiện việc buộc tội và và bị
cáo, người bào chữa thực hiện việc bào chữa, gỡ tội dưới sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tòa. Các bên đưa ra các chứng cứ, quan điểm, lập luận của mình trong
việc giải quyết vụ án. Việc đối đáp, tranh tụng giữa VKSvà những người tham
gia tố tụng khác sẽ bảo đảm căn cứ, cơ sở cho HĐXX kiểm tra, đánh giá chứng
cứ đưa ra kết luận khách quan, toàn diện về vụ án, bảo đảm và tăng cường dân
chủ trong xét xử. Giúp HĐXX có thể xác định được đầy đủ và toàn diện các tình
tiết khách quan của vụ án và đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Qua đó, tránh được việc quá phụ thuộc hồ sơ vụ án để đưa ra phán quyết,
xóa bỏ tư tưởng án tại hồ sơ, hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hoạt động


tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
VKS thực hiện việc tranh tụng thông qua hoạt động của KSV tại phiên tòa.
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013, Khoản 1 Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy
định VKS có chức năng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết
định việc truy tố người phạm tội ra trước tòa án. Trên cơ sở thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố của VKS, khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm, KSV phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể có liên quan đến hoạt động
tranh tụng được quy định tại Khoản 1 Điều 37 BLTTHS năm 2003:

“ Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên quan
đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội;
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người
tham gia tố tụng tại phiên toà”
1.2.1. Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên khi xét hỏi.
23
Xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tranh tụng của
KSV tại phiên tòa. Giai đoạn xét hỏi được quy định tại Chương XX BLTTHS
năm 2003, bao gồm hoạt động đọc bản cáo trạng (quyết định truy tố) và tiến
hành xét hỏi, thẩm tra và thu thập chứng cứ mới tại phiên tòa. Hoạt động tranh
tụng của KSV bao gồm những hành vi cụ thể sau:
Thứ nhất, đọc bản cáo trạng (quyết định truy tố bị can) tại phiên tòa. Đọc
bản cáo trạng là hoạt động đầu tiên của KSV khi tiến hành tranh tụng tại phiên
tòa. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2003 thì trước khi tiến hành xét


×