Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Pháp môn niệm phật tam muội trong kinh hoa nghiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.76 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ TRỌNG BẢO

PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI
TRONG KINH HOA NGHIÊM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ TRỌNG BẢO

PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI
TRONG KINH HOA NGHIÊM
Ngành: Triết học
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT

HÀ NỘI, 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa
Nghiêm” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của
PGS.TS. Trần Nguyên Việt. Các số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, rõ
nguồn gốc./.

Tác giả luận văn

Đỗ Trọng Bảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI VÀ
KINH HOA NGHIÊM .......................................................................................................... 7
1.1. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI .................................................................... 7
1.2. KINH HOA NGHIÊM VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA NÓ ............. 17
Chƣơng 2. BỐN PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI CƠ BẢN TRONG KINH
HOA NGHIÊM ................................................................................................................... 38
2.1. NIỆM PHẬT PHÁP THÂN ..................................................................................... 39
2.2. NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC ....................................................................................... 44
2.3. NIỆM PHẬT DANH TỰ .......................................................................................... 53
2.4. NIỆM PHẬT ADIĐÀ ............................................................................................... 62
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 74


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong kinh Niết bàn có đoạn Thích Ca Mâu Ni nói về tính cần thiết của
giải thoát với các đệ tử của mình nhƣ sau:
“Tự mình làm ngọn đuốc, tự mình làm phƣớc lành, xem chân lý chính là
ngọn đuốc và phƣớc lành đó. Bất luận là trong giờ khắc này hay là sau khi ta
mất đi, các đệ tử nhất định phải tự bảo vệ và tự soi sáng cho mình, đồng thời
phải dùng chân lý để bảo vệ và soi sáng cho mình” [2, tr.26]. Đây là di huấn
hết sức quan trọng và cũng là tiền đề để Phật giáo tồn tại và phát triển, trở
thành một trong ba tôn giáo lớn của thế giới. Cũng nhƣ mọi tôn giáo khác,
Phật giáo lấy giải thoát con ngƣời khỏi nỗi khổ truyền kiếp làm mục đích tối
thƣợng.
Tuy nhiên, làm thế nào để đạt đƣợc giải thoát, đƣợc đến với cõi Niết bàn
hay Tịnh độ đã trở thành nguyên nhân của sự xuất hiện các phƣơng pháp tu
hành khác nhau trong Phật giáo. Ngay cách hiểu về Niết bàn và tiêu chí đạt
tới cảnh giới đó cũng không thống nhất khi chúng ta tìm hiểu nó trong các bộ
kinh của Phật giáo nhƣ Tạp A Hàm kinh, Đại Niết bàn kinh, Niệm Phật tam
muội kinh, v.v. Duy chỉ có điều đƣợc thừa nhận chung về cảnh giới Niết bàn
chính là cảnh giới tâm linh, không phải là cảnh giới vật chất, vì thế nó không
có địa danh xác định. Tiểu thừa Phật giáo cho rằng, đến với Niết bàn là đến
với bến bờ bên kia (đáo bỉ ngạn), với chúng ta, chừng nào còn ở bờ bên này
(thử ngạn) thì vẫn còn lẩn quẩn trong vòng luân hồi. Ngƣợc lại, Đại thừa Phật
giáo cho rằng, Niết bàn tức là luân hồi xét từ góc độ nào đó, tức là có Niết bàn
ở thế giới bên này chứ không phải chỉ có ở thế giới bên kia nhƣ Tiểu thừa xác
nhận. Nói cách khác, cái vô minh, cái nhìn thấy đƣợc là luân hồi, còn cái nhận
biết đƣợc, giác ngộ (tri nhận) đƣợc là Niết bàn. Tiểu thừa Phật giáo coi việc
đạt mục tiêu Niết bàn chỉ sau khi 1.đoạn trừ đƣợc nghi hoặc, đoạn trừ tham,

1



sân si và 2.sau khi chết mới có sự hoàn thành của trí tuệ Bát Nhã. Trong khi
đó, Đại thừa Phật giáo cho răng, “thành phần của „thể tụ hợp‟ không ngừng
hoán dị, cho nên sinh mệnh của cá thể chỉ có „sự tăng trƣởng của nhất
niệm‟… cho nên giả nhƣ tin rằng, „cá thể‟ không có sinh mệnh, chính là cách
nhìn nhận „ngũ uẩn giai không‟… Cái gọi là Niết bàn chỉ là do cảm giác tỉnh
táo của mộng mị, do từ trong sự trầm kha của tâm thức sống lại, Niết bàn
chính là giác ngộ” [2, tr.317-318].
Qua đó cho thấy, ý nghĩa tên gọi của “Đại thừa Phật giáo” là cỗ xe lớn
chở đƣợc nhiều ngƣời đến với Niết bàn hay Tịnh Độ chính là ở chỗ phái này
đƣa ra lý luận giải thoát cho con ngƣời ngay trong cõi Sa-bà và Ta-bà vừa
bằng tự giác, vừa bằng giác tha. Điều cốt yếu là hành giả trong quá trình tu
tập phải nhất tâm, phải hƣớng tới pháp môn niệm Phật tam muội để tri nhận
Pháp thân, Báo thân và Hóa thân thì sẽ đạt tới giác ngộ, thậm chí đạt tới giác
ngộ rất nhanh (đốn ngộ).
Giác ngộ hay giải thoát là mục đích tối thƣợng của Phật giáo nói chung,
Phật giáo Đại thừa nói riêng. Điều này đƣợc Kinh Hoa Nghiêm luận giải và
chỉ ra các phƣơng pháp rất cụ thể để hành giả thực hành tu niệm cho đúng để
đạt hiệu quả. Mặt khác, tu niệm trong đời sống tôn giáo còn góp phần củng cố
niềm tin vào đạo lý chân chính, điều đó có ý nghĩa không chỉ đối với các phật
tử xuất gia, mà đặc biệt đối với các cƣ sĩ tại gia không bị rơi vào tình trạng
dao động, bị lôi cuốn bởi các tà đạo đang có xu hƣớng biến thái và xuất hiện
ngày càng nhiều ở nƣớc ta. Pháp môn niệm Phật tam muội nói chung, niệm
Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm giúp ngƣời tu hành giữ vững niềm tin
tôn giáo vào Phật giáo, một tôn giáo đã gắn bó với dân tộc hàng ngàn năm và
hiện tại đang góp phần quan trọng vào việc xây dựng đất nƣớc theo tinh thần
“Đạo Pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”.

2



Vì vậy, với ý nghĩa và tầm quan trọng của pháp môn niệm Phật tam
muội, cùng với việc bản thân học viên là nhà tu hành, cho nên mạnh dạn chọn
“Pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn cao học của mình với mong muốn góp phần làm sáng tỏ
những nội dung cơ bản của Phật giáo Đại thừa vừa uyên bác về mặt triết học,
vừa vi diệu về, mặt phƣơng pháp tu hành trong bộ kinh này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Từ các cuộc kết tập kinh điển của Phật giáo đã hình thành nên bộ kinh
điển đồ sộ đƣợc gọi là Tam tạng kinh (tripitaka). Trong quá trình phát triển
của Phật giáo trải qua hàng thế kỷ, số lƣợng kinh điển ngày càng tăng và điều
đó kéo theo một loạt các công trình nghiên cứu về Phật giáo với số lƣợng
không thể thống kê hết đƣợc. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, chúng tôi xác
định số các công trình cần thiết để tham khảo và sơ bộ phân định các tài liệu
đó theo các hƣớng sau đây:
1. Hướng nghiên cứu các nội dung cơ bản của Phật giáo Đại thừa
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi không thể kể hết đƣợc các công
trình nghiên cứu về Phật giáo Đại thừa. Song liên quan đến đề tài có thể chỉ ra
một số công trình nhƣ sau:
Sách Đại thừa khởi tín luận [12] do Bồ tát Mã Minh soạn. Cuốn sách
đƣợc phật tử Chân Hiền Tâm dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt với mục đích
dò tìm dấu vết nghìn năm cũ của các bậc Bồ tát. Cuốn sách nói về lý duyên
khởi của Nhƣ Lai tạng. Hiện nay các sách trƣớc thuật về khởi tín luận đƣợc
chia thành sách đƣợc chia thành 18 loại với số lƣợng 89 quyển.
Cuốn Lược sử Phật giáo Ấn Độ [10] do Hòa thƣợng Thích Thanh Kiểm
biên khảo năm 1963 trình bày khái quát lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Sách do
Thành hội Phật giáo TP HCM xuất bản năm 1989 gồm 4 thiên, 19 chƣơng.
Thiên thứ ba nói về Phật giáo Đại thừa kể từ cuối thế kỷ II đến cuối thế kỷ

3



VII với sự hƣng long và phát triển của Đại thừa Phật giáo qua các thời đại
ngài Long Thọ, Đề Bà.
Cuốn Ấn Độ Phật giáo sử luận [31] do tác giả Viên Trí biên soạn, Nxb
Phƣơng Đông, TP HCM, 2009 trình bày lịch sử Phật giáo Ấn Độ từ đức Phật
đến thời kỳ Bộ phái.
Cuốn Bước đầu học Phật [30] do HT Thích Thanh Từ biên soạn, Nxb
Tôn giáo 2002 với mục đích dẫn dắt những ngƣời mới bắt đầu học Phật hiểu
Phật giáo một cách đúng đắn để trở thành phật tử chân chính. Theo tác giả,
bản chất của Phật giáo đã là chân lý, là sự thật, chúng ta đừng làm méo mó
khiến kẻ bàng quan hiểu lầm Phật giáo.
Bộ sách Nguyên thủy, Tiểu thừa, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận [7]
của Kimura Taiken do HT Thích Quảng Độ dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội,
2012. Đây là bộ sách bàn về tƣ tƣởng của Phật giáo đƣợc nhiều ngƣời quan
tâm với cách trình bày khúc triết, dễ hiểu về Phật giáo, đặc biệt là cuốn thứ ba
về Phật giáo Đại thừa với lý luận giải thoát hết sức tinh tế và vi diệu.
2. Hướng nghiên cứu Pháp môn niệm Phật tam muội
Hƣớng nghiên cứu này cũng có nhiều sách bàn về lý luận giải thoát
thông qua các hình thức tu niệm, cụ thể:
Cuốn Đường về Cực Lạc [25] của Hòa Thƣợng Thích Trí Tịnh, Thành
hội Phật giáo TP HCM ấn hành năm 1995. Theo tác giả, cuốn sách là sự “gom
góp những chỗ, những nơi dạy về Pháp môn Tịnh Độ của Phật Bồ Tát và Cổ
đức, trong các Kinh các luận chính thức… Đƣờng về Cực Lạc là con đƣờng
Pháp dẫn ta và tất cả chúng sinh từ xứ ác trƣợc Ta Bà về đến thế giới Thanh
tịnh Cực Lạc, cũng chính là Pháp môn Tịnh độ nói bằng một cách khác đấy
thôi”.
Tiếp đến là cuốn Niệm Phật thập yếu [22] do Hòa thƣợng Thích Thiền
Tâm dịch, Nxb TP HCM ấn hành năm 1999. Cuốn sách đƣợc coi là kim chỉ

4



nam cho những hành giả tu Tịnh Độ. Trọn bộ gồm 10 chƣơng tƣơng ứng với
10 yêu cầu thiết yếu nhất cho quá trình tu niệm của hành giả tới sự giác ngộ.
Bộ sách Đại trí độ luận [3] của Bồ Tát Long Thọ gồm 5 tập giải thích về
các khái niệm của pháp môn tu niệm Phật, đặc biệt là vai trò và năng lực của
trí để đạt tới giải thoát. Bộ sách do HT Thích Thiện Siêu dịch, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1997.
Cuốn Giải thoát luận Phật giáo [26] của TS Nguyễn Thị Toan, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010 cho rằng, quan niệm về giải thoát xuyên
suốt giáo lý của đạo Phật, tạo thành nét đặc sắc của tôn giáo – triết hoc này.
Nghiên cƣu quan niệm về giải thoát trong Phật giáo sẽ giúp chúng ta hiểu sâu
hơn sự đa dạng của các cách thức, các con đƣờng giải phóng con ngƣời trong
các học thuyết xã hội.
Cuốn Khai sáng tuệ giác giáo nghĩa tinh yếu cơ bản của Đạo Phật [2]
của tác giả David Neil do Hoàng Ngọc Cƣơng và Nguyễn Thị Xuân Hiền
dịch, Nxb Đồng Nai ấn hành 2011. Cuốn sách trình bày khái quát giáo lý cơ
bản của Phật giáo, nghiệp lực và Niết bàn tịch tĩnh, giúp độc giả hiểu rõ
những khái niệm cơ bản của phƣơng pháp tu niệm Phật.
3. Hướng nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm và pháp môn niệm Phật tam
muội trong kinh Hoa Nghiêm
Từ 4 tập của bộ kinh Hoa Nghiêm do Hòa thƣợng Thích Trí Tịnh dịch,
Nxb TP Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999 đã xuất hiện nhiều công trình lƣợc
giải, đại cƣơng, giáo trình về kinh này. Cụ thể:
Cuốn Đại cương Kinh Hoa Nghiêm t.1 [28] do Thích Hằng Trƣờng biên
soạn, Nxb tôn giáo Hà Nội, 2004; cuốn Giáo trình Kinh Hoa Nghiêm, do TT
Thích Trí Hải biên soạn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2016; Hòa Thƣợng Thích Trí
Quảng với Lược giải Kinh Hoa Nghiêm, v.v. giúp độc giả hiểu biết rõ hơn về
nguồn gốc, cấu trúc và những nội dung cơ bản của Kinh Hoa Nghiêm.
Ngoài ra còn có các công trình khác liên quan đến hƣớng nghiên cứu này

đƣợc đăng tải trên các tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Nghiên cứu Phật học, v.v.
5


3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích: làm rõ nội dung của Pháp môn niệm Phật tam muội
trong kinh Hoa Nghiêm
3.2. Nhiệm vụ: để thực hiện đƣợc mục đích nêu trên, luận văn cần tiến
hành các bƣớc sau đây:
- trình bài nội dung của Pháp môn tam muội qua quan niệm của Phật
giáo Đại thừa về Tịnh Độ
- làm rõ sự ra đời và một số vấn đề mang tính văn bản học của kinh Hoa
Nghiêm
- trình bày bốn pháp môn niệm Phật tam muội trong kinh Hoa Nghiêm
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Pháp môn niệm Phật tam
muội
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Pháp môn niệm Phật tam muội
trong kinh Hoa Nghiêm.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: luận văn nghiên cứu Pháp môn niệm Phật tam muội
dựa trên cơ sở lý luận của lịch sử triết học, tôn giáo học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: là các phƣơng pháp đƣợc
ứng dụng trong nghiên cứu lịch sử triết học nhƣ phân tích, tổng hợp, sự thống
nhất giữa logic và lịch sử cụ thể, phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, v.v.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những độc giả nghiên
cứu lịch sử triết học, tôn giáo học, triết học tôn giáo và đặc biệt là những
ngƣời quan tâm đến phƣơng pháp tu niệm Phật.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án
có kết cấu gồm 3 chƣơng 9 tiết.

6


Chƣơng 1
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ PHÁP MÔN
NIỆM PHẬT TAM MUỘI VÀ KINH HOA NGHIÊM

1.1.

PHÁP MÔN NIỆM PHẬT TAM MUỘI

1.1.1. Quan niệm của Phật giáo Đại thừa về Tịnh Độ
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới và có một quá trình
lịch sử phát triển lâu dài: thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, thời kỳ phân chia
phái bộ thành Thƣợng tọa bộ và Đại chúng bộ, tiếp đến là sự phân chia thành
Tiểu thừa và Đại thừa. Theo biểu tƣợng giản đơn thì quá trình hình thành và
phát triển của Phật giáo đƣợc ví nhƣ cây, gốc của nó là Phật giáo nguyên
thủy, thân của nó là Tiểu thừa và phần ngọn là Đại thừa. Đại thừa (Mahayana)
là cỗ xe lớn không chỉ giản đơn đƣợc dùng làm phƣơng tiện vận tải, mà còn
đƣợc dùng để chỉ giáo pháp khiến ngƣời tu đƣợc mở mang Nhất thiết trí.
Trong Phẩm Thí dụ, Kinh Pháp Hoa viết rằng: “Nếu có chúng sinh nào theo
đức Phật Thế tôn, nghe pháp tín thụ siêng tu tinh tiến, cầu Nhất thiết trí, Phật
trí, Vô sƣ trí, cầu Tri kiến, Lực, Vô sở úy của Nhƣ lai, xót thƣơng làm cho vô
lƣợng chúng sinh đƣợc an lạc, làm lợi ihcs cho Trời, Ngƣời, độ thoát hết thảy
thì đó gọi là MaHaTat”. Nhƣ vậy, Đại thừa hiểu một cách giản đơn, trong sự
đối lập với Tiểu thừa, là cỗ xe lớn chở đƣợc nhiều ngƣời đến đích giải thoát.
Khái niệm Đại thừa còn đƣợc dùng để chỉ giáo pháp (Đại thừa giáo), tức pháp

môn tu hành viên mãn lục độ để thành Phật; dƣới tên gọi Đại thừa tông dùng
để chỉ tông phái, theo đó những tông cầu chứng ngộ thành La Hán thì gọi là
Tiểu thừa tông, những tông cầu thành Phật (Bồ Tát) gọi là Đại thừa tông.
Trong lời giới thiệu bộ sách của Kimura Taiken “Nguyên Thủy, Tiểu
Thừa, Đại Thừa Phật giáo tƣ tƣởng luận”, dịch giả Hòa thƣợng Thích Quảng
Độ viết rằng: “Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Nhƣng phƣơng

7


pháp để đạt đến giải thoát thì có rất nhiều, và phƣơng pháp nào – dù là Đại
Thừa hay Tiểu Thừa cũng đều nhằm đạt đến mục đích nhất vị kể trên” [7,
tr.8]. Khác với các phái Tiểu Thừa, đặc trƣng căn bản nhất của đạo Bồ Tát là
sự nghiệp giải thoát cho bản thân và cho ngƣời khác (tự lợi, lợi tha). Đúng
nhƣ nhận định của Kimura Taiken: “…nếu tự mình muốn đạt đến lý tƣởng
giới thì tất phải đƣa ngƣời khác cũng đạt nhƣ mình; và đƣa ngƣời khác đạt
đến lý tƣởng giới tức là chính mình đạt đến vậy. Đƣơng nhiên, nói một cách
thực tế, trƣớc phải tự cứu mình rồi sau mới cứu ngƣời đƣợc, đó là lẽ thƣờng,
thế nhƣng đứng về mặt thệ nguyện mà nói, thì thay vì, vì mình, trƣớc hết phải
vì ngƣời: đó là tâm từ bi và hạnh từ bi của Bồ Tát” [7, tr.451]. Điều này làm
chúng ta liên tƣởng đến tƣ tƣởng trung thứ đƣợc trình bày trong cuốn Luận
ngữ của Khổng Tử (551-479 TCN), cho rằng “điều mình muốn thành đạt thì
cũng nên giúp ngƣời khác thành đạt”. Tuy nhiên, quan điểm của Khổng Tử
chỉ dùng lại ở chỗ “nên giúp ngƣời khác thành đạt” mà chƣa nói rõ đƣợc bằng
cách nào, mức độ nào, trong khi đó đạo Bồ Tát cho rằng, mỗi cá nhân trên
con đƣờng hoàn thiện bản thân, nếu chỉ hoàn thành cái nhỏ nhoi của riêng
mình mà không hoàn thành cho kẻ khác thì sự hoàn thành đó chƣa thể gọi là
trọn vẹn. Vì vậy, một tiêu ngữ rất nổi tiếng của đạo Bồ Tát xuất phát từ điều
kiện tiên quyết để thực hiện lý tƣởng giải thoát mang tính tối hậu là phải cùng
với tất cả chúng sinh cùng tiến tới giải thoát khỏi mọi phiền muộn, khổ đau,

đó là: “Thƣợng cầu Bồ Đề, hạ hóa chúng sinh” (Trên cầu đạo giác ngộ, dƣới
hóa độ chúng sinh).
Theo Kimura Taiken, “Đạo Bồ Tát nếu muốn thực hiện lý tƣởng tối cao,
tất phải cùng với chúng sinh cùng tiến, cho nên ở đây tất nhiên cần phải nói
đến Tịnh Độ, hoặc Phật Độ, tức là lý tƣởng đó đã trở thành xã hội hóa” [7,
tr.452]. Vậy Tịnh Độ là gì?

8


Tịnh độ (Buddha ksetra) nguyên chữ phạn là Phật độ, cõi Phật, cõi thanh
tịnh. Trong truyền thống Đại thừa, ngƣời ta hiểu mỗi cõi Tịnh Độ thuộc về
một vị Phật, và do có vô số chƣ Phật nên cũng có vô số Tịnh Độ. Tịnh Độ
đƣợc nhắc đến nhiều nhất là cõi Cực Lạc (Sukha-Vati) của Phật ADiĐà
(Amitàbha) nơi Tây phƣơng cự lạc. Tịnh Độ phía Đông là cõi Phật Dƣợc sƣ
(Bhaisajyaguru-Buddha), có khi cõi đó gọi là Diệu hỷ quốc (Abhirati) của
Phật Bất Động (Aksobhya), phía Nam là cõi Phật Bảo Sinh (Ratnasambhava), phía Bắc là cõi Phật Cổ Âm (Đunubhi svara) Đức Phật tƣơng lai
DiLặc (Maitreya) là vị đang giáo háo ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) sẽ tạo một
Tịnh Độ mới.
Tịnh Độ đƣợc xem là “hóa thân” của thế giới là cõi xứ mà ở đó ngƣời tu
hành muốn đạt tới. Muốn đạt đƣợc cõi này hành giả không phải chỉ trau dồi
thiện nghiệp, mà còn phải nguyện cầu các Đức Phật của các cõi đó để đƣợc
cứu độ. Trong nhân gian, ngƣời ta thƣờng hiểu Tịnh Độ là một nơi, có vị trí
địa lý nhất định, nhƣng thật ra Tịnh Độ là một dạng của tâm thức giác ngộ
không bị nhiễm ô và các phƣơng hƣớng Đông – Tây – Nam – Bắc chỉ có tính
chất hình tƣợng. Tịnh Độ không phải là mục đích cuối cùng trên con đƣờng tu
tập – chỉ là nơi đƣợc xem là cõi cuối cùng mà hành giả phải đạt tới tái sinh để
sau đó đạt tới đích giải thoát viên mãn là cõi Niết bàn.
Đúng thế, cảnh giới Tịnh Độ không phải ở một nơi nào đó xa xôi mà ở
tại trong tâm thức của mỗi chúng sinh. Nếu nhƣ chúng sinh xa lìa đƣợc vô

minh phiền não, sáng suốt giác ngộ chân lý, và sống đúng chân lý thì chúng
sinh mang tâm Phật, mà tâm Phật ở đâu thì quốc độ nơi đó tự trang nghiêm
thanh tịnh. Kimura Taiken còn chia Tịnh Độ quan của Phật giáo thành ba loại,
gồm Quán Chiếu Tịnh Độ; Tha phƣơng Tịnh Độ và Tịnh Độ trong tƣơng lai ở
ngay cõi này.

9


Quán Chiếu Tịnh Độ là một phƣơng pháp dựa vào tâm thanh tịnh mà cải
tạo hiện thực thành một loại Tịnh Độ. Theo Kimura Taiken, “nếu lấy dục làm
tiêu chuẩn thì thế gian này là một cảnh giới bất mãn thƣờng xuyên, là một vũ
đài của khổ não. Trái lại, nếu bỏ đƣợc lòng dục, dựa vào tâm thanh tịnh mà
cải tạo thế giới, thì trong đó sẽ mở ra một thế giới khác, nếu có thể thì đó là sự
triển khai một thế giới tốt đẹp. Trong Tịnh Độ quan của Phật giáo, cách tƣởng
tƣợng đó gọi là Quán Chiếu Tịnh Độ” [7, tr.547-548].
Khi đề cập đến Tha phƣơng Tịnh Độ là ý muốn nói đến một điều là
ngoài thế giới của cái đẹp đƣợc tâm thanh tịnh triển khai về mặt nghệ thuật,
“chúng ta còn phải sống trong thế giới đạo đức, thế giới lợi hại, cho nên
không thể nói tất cả đều cùng một duộc – có ngƣời lƣơng thiện, cũng có
những kẻ sát nhân và trộm cƣớp, tất cả đều sống trong thế giới hiện thực…
Đứng về mặt toàn thể mà nói, nếu chỉ có Quán Chiếu Tịnh Độ thì chƣa đủ;
theo điểm này, đem quan niệm lợi hại đối chiếu với những sự xuất hiện xƣa
nay thì quyết không phải ở thế giới này mà muốn sản sinh một loại thế giới
hoàn toàn viên mãn sau khi chết: tức là lý tƣởng Tha Phƣơng Tịnh Độ” [7, tr.
449-450].
Hai Tịnh Độ quan nêu trên đều khẳng định ngƣời nào nhất tâm tín niệm
Phật ADiĐà đều có thể cảm ứng đƣợc Cực Lạc Tĩnh Độ. Tuy nhiên, sự nhất
tâm niệm Phật ADiĐà để đƣợc đến với Cực Lạc Tĩnh Độ mà “bỏ rơi” thế giới
thực tại bởi quan niệm cho thế giới này là nhơ nhớp là điều bất cập. Chính vì

vậy, đối với thế giới bên này, tại sao chúng ta không nỗ lực thƣờng xuyên cải
tạo nó, thanh tịnh hóa nó, biến nó thành một nơi sạch sẽ trang nghiêm, hay nói
cách khác, làm cho nó trở thành Tịnh Độ Tƣơng Lai trên cõi này? Ngƣời ta
gọi loại Tịnh Độ này là Di Lặc Tịnh Độ. Kimura Taiken cho rằng, “nếu ngƣời
đã chí nguyện kiến thiết Tịnh Độ Di Lặc thì cái thời gian luân hồi sinh tử vô
cùng tự nó đã là giải thoát rồi, bởi thế nếu đi tìm cầu giải thoát sinh tử ở bên

10


ngoài thì không thể có đƣợc. Chúng ta do tạo nghiệp mà phải lƣu chuyển
trong dòng sinh tử tuy đó là khổ, nhƣng chúng ta đã tự nguyện lăn lộn trong
dòng sinh tử vô hạn để kiến thiết Tịnh Độ Di Lặc thì sinh tử tự nó biến thành
hoạt dụng của đạo Bồ Tát” [7, tr. 554]
Tuy nhiên, để đạt tới cảnh giới của các loại Tịnh Độ, ngƣời tu hành phải
dùng phƣơng pháp nào?
Trong các kinh Phật chúng ta thƣờng gặp luận điểm “Nhất thiết duy tâm
tạo”, chứng tỏ mọi khổ đau hay an lạc đều do tâm quyết định. Cũng trên tinh
thần này trong Kinh Duy Ma có nói: “Tuy kỳ tâm tịnh tắc Phật Độ tịnh” (Hễ
tâm ngƣời thanh tịnh thì có cõi Phật thanh tịnh). Lại nói: “Cõi Phật của Đức
Thích Ca vẫn trang nghiêm thanh tịnh không thua kém gì cõi nƣớc của chƣ
Phật trong mƣời phƣơng, thế mà Ngài Xá Lợi Phất lại thấy không thanh tịnh
chẳng trang nghiêm”. Điều đó cho thấy mƣời phƣơng quốc độ đều là Tịnh
Độ, thế mà chúng ta có khác gì nhƣ ngƣời mù đứng dƣới nắng ban mai trƣớc
cảnh trăm hoa nở mà không hề cảm nhận đƣợc một chút hƣơng vị nào.
Tịnh Độ không chỉ là thế giới của ngƣời niệm Phật vãng sinh, mà còn là
thế giới của mọi tông phái thuộc Đại thừa Phật giáo. Trong quá trình tu tập để
thành tựu Pháp thân, Tịnh Độ là điều cần yếu cho mỗi hành giả Đại thừa. Do
đó, sự vãng sinh về thế giới Cực Lạc Tịnh Độ của Phật ADiĐà là một phƣơng
tiện tối cần thiết, không chỉ dành riêng cho ngƣời tu tông Tịnh Độ, mà còn là

khuôn mẫu chung không thể thiếu của mỗi hành giả Đại thừa. Chính vì vậy
mà “Tịnh Độ tƣ tƣởng tuy phổ biến rất rộng và rất mạnh, nhƣng nếu lại tiến
đến lĩnh vực luân lý của đạo Bồ Tát thì không những có thể vãng sinh Tịnh
Độ, mà tiến lên bậc nữa tự mình có thể thành Phạt, do đó có thể cấu tạo thành
Tịnh Độ mới. Vì mỗi ngƣời đều có Phật tính, mỗi ngƣời đều có thể thành Phật
để có khả năng tính cấu thành Tịnh Độ mà thực hiện Tịnh Độ” [7, tr. 452452].

11


Con đƣờng thể nhập vào cảnh Tịnh Độ là con đƣờng hành giả của Đại
thừa là con đƣờng của Đại Bồ Tát, tức là con đƣờng thực hiện sự thanh tịnh
của toàn thể Pháp giới (chẳng hạn Tỳ khiêu Pháp Tạng đã phát nguyện trang
nghiêm thanh tịnh cảnh giới Tịnh Độ trong lúc thực hành Bồ Tát đạo). Muốn
thực hiện trọn vẹn con đƣờng đƣa hành giả thể nhập vào Tịnh Độ, thể nhập
vào Pháp thân, thì niệm Phật Tam muội là pháp môn căn bản và có tính quyết
định.
Pháp môn niệm Phật vãng sinh là do Phật ADiĐà lập bởi ngài nguyện
Đức Thích Ca Mâu Ni chỉ giáo và đƣợc lục phƣơng chƣ Phật tán dƣơng.
Trong cuốn Đường về Cực Lạc có nói: “Nơi hội Hoa Nghiêm đức Phổ Hiền,
trong hội Bát nhã Văn Thù, cùng vô lƣợng đại Bồ Tát đều có lời phát nguyện
vãng sinh Cực Lạc: Mã Minh đại sỹ có lời khuyên tu niệm Phật trong luận
Khởi Tín; Long Thọ Bồ Tát đƣợc Phật thọ ký vãng sinh nơi Pháp hội Lăng
già, cùng vô số bậc Đại tổ Sƣ của các tông phái đại thừa. Chẳng những Liên
tông mà cả Tịnh Độ, Hoa Nghiêm tông cho đến Duy thức tông Ngài Thiên
Thân, Ngài Khuy Cơ…đều cực lực tán dƣơng và hoằng truyền môn Tịnh Độ”
[25, tr.534]. Đây cũng là lý do tại sao chƣ đại Bồ Tát trong Pháp hội Hoa
Nghiêm lại tán thán sự trang nghiêm của cảnh giới Cực Lạc, năng lực của
Đức Phật ADiĐà và sự lợi ích của chúng sinh khi đƣợc vãng sinh là Tịnh Độ.
Đức Thế Tôn muốn cho chúng sinh thoát khỏi thế giới Sa Bà (nhẫn

nhục) để thể nhập vào đƣợc Pháp thân của chƣ Phật, tức cảnh Tịnh Độ. Tuy
nhiên, Ngài khẳng định rằng, để thể nhập vào cảnh giới Cực Lạc của Phật
ADiĐà thì phải đi theo con đƣờng Bồ Tát Đại thừa. Bởi vì con đƣờng vãng
sinh về cảnh giới Tịnh Độ là con đƣờng dễ đi nhất, cho nên hành giả vào đƣợc
con đƣờng này sẽ dễ dàng đi vào Pháp thân và có đủ năng lực trọn vẹn để đạt
đến quả Phật. Do vậy mà trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Thế Tôn đã ân cần chỉ

12


ra pháp môn “Niệm Phật Tam muội” để hành giả nƣơng theo đó tiến tu và
vững bƣớc trên lộ trình giải thoát.
1.1.2. Các phương pháp niệm Phật và pháp môn niệm Phật tam muội
1.1.2.1. Các phương pháp niệm Phật
Theo Từ điển Phật học Hán Việt, thuật ngữ “Niệm Phật” có hai nghĩa
chung và riêng. Về nghĩa chung có: 1. Xƣng danh niệm Phật: gọi tên Phật
bằng lời nói; 2. Quán tƣởng niệm Phật: tĩnh tọa mà quán niệm công đức tốt
đẹp của Phật; 3. Thực tƣớng niệm Phật: xét nghĩa lý thực tƣớng trung đạo để
hiểu rằng, pháp thân của Phật là không có, mà cũng không phải là không... Về
ý nghĩa riêng thì vì để quán tri về Phật mà phải lập riêng các lời nói niệm
Phật. Ngƣời thời bấy giờ trong lúc quán Phật thu nhiếp cả hai thứ niệm Phật
quán tƣởng và thực tƣớng. Do đó xƣng danh niệm Phật, gọi tắt là Niệm Phật,
nhƣ sự đối xứng giữa Quán Phật Tam muội và và Niệm Phật Tam muội. Nay
lời niệm Phật tuy thông đạt đến chƣ Phật, nhƣng các thuyết Đại thừa đều hạn
chế ở Phật ADiĐà” [4, t.1, tr.1079].
Trì danh niệm Phật là phƣơng pháp niệm ra tiếng hay, niệm thầm bốn
chữ “ADiĐà Phật” hoặc sáu chữ hồng danh “Nam mô ADiĐà Phật”. Trì bốn
chữ “ADiĐà Phật” đƣợc điển lợi dễ nhất tâm, trì sáu chữ thì dễ phát khởi lòng
thành kính cơ cảm và phƣơng pháp này đƣợc đề cập đến trong kinh ADiĐà
mà Đức Thế Tôn đã dạy.

Quán tƣởng niệm Phật: là chiếu theo Kinh Quán Vô lượng thọ để quán
tƣởng y báo, chính báo nơi cõi Cực Lạc. Nếu quán tƣởng thành thục thì bất cứ
lúc nào hành giả cũng thấy mình nhƣ đƣợc sống trong thế giới Cực Lạc, kinh
hành dạo chơi cùng với các vị đại Bồ Tát, đƣợc nghe các loại chim sáo hót lên
lời kệ du dƣơng, lại đƣợc học hỏi chính pháp Đại thừa cùng các vị “Nhất sinh
bổ xứ” Công đức khó hành trì đối với ngƣời căn cơ thấp kém.

13


Thực tƣớng niệm Phật là nhập vào “Đệ nhất nghĩa tâm”, là niệm tính
Phật bản lai của chính mình. Đây là quán Pháp thân thực tƣớng của Phật, kết
quả sẽ chứng đƣợc chân nhƣ tam muội. Phƣơng pháp này thuộc về Thiền,
nhƣng cảnh giới do tâm Thiền hiển lộ lại là Tịnh Độ nên thuộc về Pháp môn
niệm Phật.
Ngoài ra còn thêm một phƣơng pháp niệm Phật là quán tƣợng niệm Phật,
tức là phƣơng pháp chăm chú nhìn vào bức tranh hay một pho tƣợng Phật
ADiĐà bày trƣớc mặt, quan sát vẻ đẹp trang nghiêm của Phật từng chi tiết,
cho đến khi không có ảnh, tƣợng của Phật trƣớc mình mà lúc nào cũng thấy
Phật với đẩy đủ đức tƣớng trang nghiêm. Quá trình từ quán tƣợng niệm Phật
đến “nhất tâm bất loạn” đạt tới mức độ hành giả có thể cảm thông đƣợc với
Phật, và hình tƣớng giả của Phật biến thành thực tƣớng Phật chói sáng rạng
ngời trong tâm thức hành giả. Theo kinh Hoa Nghiêm thì năng lực và vật chất,
hay tâm và vật chỉ là một, tƣợng Phật là cảnh đƣợc quán niệm bởi tâm, khi đã
hiểu rõ lý nhất như rồi thì sự cảm thông giữa hình tƣợng giả bên ngoài biến
thành thực tƣớng trong tâm là sự kiện đƣơng nhiên xảy ra.
Xét bốn phƣơng pháp niệm Phật này chúng ta thấy “Thực tƣớng niệm
Phật” thuộc về “Lý”, ba môn còn lại thuộc về “Sự”. Về “sự”, do công phu
niệm Phật ADiĐà tới nhất tâm bất loạn, hành giả chắc chắn sẽ đƣợc dứt
nghiệp vãng sinh. Về “lý” thì cho rằng, thế giới Cực Lạc ở ngay trong tâm

mình, chỉ cần “Kiến tính” là thành Phật. Nghe qua ta thấy 2 điểm khác nhau
nhƣng thật ra chỉ là hai lối diễn đạt để chỉ một cái đích chung là giác ngộ giải
thoát. Ngài Phổ Hiền đã dạy trong kinh Như Lai bất tư nghị cảnh giới nhƣ
sau: “Nếu ai cầu vô thƣợng Bồ Đề, mà chuyên tu một Pháp môn thời thành
tựu cả”. Bởi vậy hành giả muốn thành công nơi Pháp môn niệm Phật, nhập
vào “Niệm Phật tam muội” thì “Lập chí cầu thành Phật và chuyên cầu tu niệm
Phật”.

14


Theo Từ điển Phật học Hán Việt thì Niệm Phật Tam muội hay “phép tam
muội niệm Phật có hai thứ: 1. Nhất tâm quán tƣởng tƣớng mạo trang nghiêm
vi diệu của Phật hoặc nhất tâm quán tƣởng thực tƣớng pháp thân (cả hai đều
thuộc loại Quán tƣởng niệm Phật), hoặc nhất tâm xƣng danh hiệu Phật (tức
thuộc loại xƣng danh Niệm Phật) mà tu hành gọi là Niệm Phật tam muội, là
phép Niệm Phật tam muội về nhân hành; 2. Do 3 thứ nhân hạnh nói trên sẽ
thành đạt đƣợc những sự nhƣ: tâm nhập thiền định, hoặc thấy Phật thân hiện
ra trƣớc mắt mình, hoặc chứng đắc pháp thân thực tƣớng, v.v. gọi là phép
niệm Phật tam muội, là phép niệm Phật tam muội về quả thành. Phép niệm
Phật tam muội về nhân hành gọi là “tu”, phép niệm Phật tam muội về quả
thành gọi là “phát đắc” [4, t.1, tr.1080]. Trên cơ sở niệm Phật theo luật nhân
quả (nhân hành và quả thành), niệm Phật tam muội đƣợc qui về bốn môn tam
muội là Ban chu tam muội, Nhất hạnh tam muội, Pháp Hoa tam muội và Tùy
tự ý tam muội.
1.1.2.2. Bốn môn tam muội
Ngƣời niệm Phật khi đi đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng duy có một dinh thể
là niệm phật tam muội. Đây là cảnh hƣ linh sáng lặng, vọng giác tiêu tan,
hành giả tuy còn trụ tâm nơi tƣớng hảo hoặc hồng danh của Phật. Nhƣng tuy
nói trụ mà thật ra vô trụ, vì tâm thanh sắc tƣớng đƣơng thể nhƣ huyễn, chính

đó là không. Tƣớng tam muội ấy nhƣ thế nào? Khi hành giả chuyên nhất niệm
Phật quên hết thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả thời gian, không gian, đến lúc sức
cục công thuần, ngày nơi đƣơng niệm trần vọng bỗng thoạt tiêu tan, tâm thể
bừng sáng chứng vào cảnh giới “vô niệm vô bất niệm”. Cảnh ấy nhƣ hƣ
không, mây tan, trời xanh một vẻ, niệm mà không niệm, không niệm mà
niệm, không thấy biết mới là sự thấy biết chân thật, có thấy biết tức lạc theo
trần cảnh. Đến đây thì nƣớc bạc non xanh đều là chân đế, suối đế, suối reo,

15


chim hót, tâm quang bao hàm muôn tƣợng mà không trụ một pháp, tịch mà
chiếu, chiếu mà tịch, đều còn đều mất, tuyệt đối viên dung.
Cảnh giới tam muội đại để là nhƣ thế, khó mà tả nên lời, duy chứng mới
thể nghiệm đƣợc. Niệm Phật tam muội vẫn là một thể, nhƣng đi vào cảnh
định ấy ngƣời xƣa đã căn cứ theo kinh, y nơi ý nghĩa và oai nghi hành trì mà
chia làm bốn môn nhƣ sau:
Thứ nhất: Ban chu tam muội. Ban chu có nghĩa là “Phật lập” hành trì
môn tâm muội này có 3 oai lực phù trợ; oai lực của Phật, oai lực của Pháp
tam muội và oai lực công đức của ngƣời tu. Khi thành công trong tam muội
hành giả thấy đức ADiĐà và chƣ Phật mƣời phƣơng hiện ra đứng trƣớc mình
khuyến tấn khen ngợi.
Thứ hai: Nhất hạnh tam muội, nghĩa là chuyên nhất về một hạnh. Khi tu
môn tam muội này, hành giả thƣờng ngồi và chỉ chuyên nhất quán tƣởng,
hoặc niệm danh hiệu Đức ADiĐà. Lại tuy chỉ tu một hạnh mà đƣợc dung
thông tròn đủ tất cả các hạnh, cho nên “Nhất hạnh” cũng là “Viên hạnh”.
Thứ ba: Pháp Hoa tam muội. Đây là một trong mƣời sáu tam muội mà
kinh Pháp hoa phẩm Diệu Âm Bồ tát đã trần thuật. Theo ý chỉ của thiên thai
tông thì ba đế viên dung là “Pháp”, quyền thực không hai là “hoa”. Ví nhƣ
hoa sen khi cánh hoa (quyền) chƣa nở, mà gƣơng sen (thực) đã thành, gƣơng

với cánh đồng thời, nơi một đóa hoa gồm đủ ý nghĩa quyền và thực.
Nói theo tông Tịnh Độ thì tức niệm Phật, tức sắc là tâm, một câu niệm
Phật bao gồm cả ba đế, nhiếp cả thật quyền. Nếu tỏ ngộ lý này niệm Phật gọi
là tu hạnh Pháp hoa tam muội. Khi tu môn tam muội này hành giả dùng hai
oai nghi ngồi và đi mà thay đổi để quán Phật hoặc niệm Phật cho đến khi nào
chứng nhận chánh định. Pháp nghi tu tập này lại có phần dễ hơn nhất hạnh
tam muội.

16


Thứ tư: Tùy tự ý tam muội. Pháp này có nghĩa là tùy tâm hoặc đi đứng,
hoặc nằm ngồi đều nhiếp niệm không rời danh hiệu đức A Di Đà đề tu chứng
vào tam muội. Pháp này tuy tùy tiện dễ dàng nhƣng phải khéo tránh bớt các
duyên và có tâm bền bỉ mới mong thành tựu.
1.2.

KINH HOA NGHIÊM VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CƠ BẢN CỦA


1.2.1. Vài nét khái quát về kinh Hoa Nghiêm
1.2.1.1. Lịch sử hình thành kinh Hoa Nghiêm
Trong hệ thống giáo lý đại thừa của Phật giáo có rất nhiều bộ kinh lớn
mang y nghĩa lý uyên thâm nhƣ Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Niết
Bàn…và đặc biệt là Hoa Nghiêm.
Kinh Hoa Nghiêm có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka sutra. Hoa
Nghiêm có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt đẹp nhất trần gian, ngát hƣơng
khắp mƣời phƣơng các cõi pháp giới. Bộ kinh này đƣợc coi là kinh Phật đồ sộ
và vĩ đại nhất trong Phật giáo Đại thừa. Theo truyền thuyết thì ngay tức khắc

sau khi đức Thích Ca Mâu Ni thành chính giác dƣới gốc bồ đề, Ngài đã thuyết
giảng về toàn bộ nội dung của nó trong 21 ngày. Qua bộ kinh Hoa Nghiêm
cho thấy đức Phật đã trình bày rõ nguyên lý vạn pháp do tâm sinh, coi tâm là
thực thể của vạn pháp, tức Ngài đã hiển bày một nhân sinh quan và vũ trụ
quan sâu rộng, không bị giới hạn về mặt thời gian, không gian cũng nhƣ phạm
vi nhỏ bé của một cá thể hay một nền văn hóa.
Về Phạn bản của kinh từ xƣa đến nay có rất nhiều thuyết khác nhau.
Nguyên bản của kinh gồm có 3 bộ, đó là: Thƣợng – Trung – Hạ. Bộ Thƣợng
do Pháp thân Phật tức là Đức Tỳ Lƣ Giá Na chuyển, bộ Trung do Báo thân
Phật tức đức Lƣ Xá Na chuyển, bộ Hạ do ứng thân Phật do Đức Thích Ca
Mâu Ni chuyển. Tƣơng truyền Ngài Long Thọ sau khi đã đọc hết tất cả sách

17


vở thế gian, cũng nhƣ xuất giá thế gian, nghe nói rằng ở Long Cung có chứa
nhiều pháp bảo, cho nên Ngài đã dùng thần lực (nhất định) xuống Long Cung
để sao chép, nhƣng do 2 bản thƣợng và trung ý nghĩa rất cao sâu mà lại rất
nhiều bài kệ, sức phàm phu không thể thụ trì đƣợc cho nên Ngài không chép
mang về. Mà chỉ chép bản hạ mang về tức là kinh Hoa Nghiêm mƣời vạn bài
kệ 48 phẩm ngày nay.
Thật ra theo sử học Phật giáo Ấn Độ thì bộ kinh Hoa Nghiêm đã đƣợc
biên soạn trƣớc Bồ tát Long Thọ khoảng từ 1 năm đến 200 năm. Và Ngài Mã
Minh Bồ tát đã có công triển khai tƣ tƣởng Hoa Nghiêm, một thế kỷ trƣớc khi
Ngài Long Thọ ra đời. Nhƣng tại sao truyền thuyết lại viện dẫn ẩn dụ Long
cung? Bởi lẽ, “Long cung hoàn toàn không bị biển làm dao động, Chƣ long là
kẻ cai quản biển cả. Cũng vậy, Phật tánh không bị tâm thức làm dao động,
ngƣợc lại chính Phật tánh thì siêu việt và ngự trị đƣợc tâm thức. Kinh ở trong
Long cung ý nói rằng chánh pháp mà kinh Hoa Nghiêm giản thì lƣu xuất từ
Phật tánh. Ba bản kinh là ám chỉ cho đặc tính của chân lý, tuy vô lƣợng tất

khả tƣ nghì, nhƣng chân lý có thể ứng theo căn cơ thƣợng, trung, hạ bất đồng
của nhân sinh vạn loại” [5, tr.11]. Vì vậy, muốn lấy đƣợc kinh phải nhờ ngài
Long Thọ, và muốn thấu hiểu chân lý thì phải có định lực.
Về mặt văn bản học, sự phiên dịch của kinh này sang Hán văn gồm có ba
bản chính. theo bộ xuất Tam tạng ký tập 9 và Hoa Nghiêm kinh thám huyền
ký I, thì Phạm bản của kinh này 10 vạn bài kệ, đƣợc Ngài Chi Pháp lãnh đời
Đông Tấn mang về từ nƣớc Vu Điền và chỉ có 36.000 bài kệ. Đến đời vua An
Đế thứ 14 (năm 418), Ngài Phật Đà Bạt Đà khởi dịch kinh này ra tiếng Hán
thành 60 quyển, nhƣng phẩm “Nhập Pháp giới” chƣa đƣợc hoàn bị. Mãi đến
năm 680 mới đƣợc bổ sung đầy đủ, nay lƣợc kê các bản dịch thì có ba bản
nhƣ sau:

18


1. Lục thập Hoa Nghiêm, còn gọi là Hoa Nghiêm do Ngài Phật Đà Bạt
Lan Đà (Buddhabhadra) dịch. Gồm 60 quyển trong đó có 7 xứ, 8 hồi, 34
phẩm. Đƣợc xếp vào Đại chính Tạng tập 9.
2. Bát thập Hoa Nghiêm, còn gọi là Tân Hoa Nghiêm Đƣờng kinh, do
Shikshananda, tức Ngài Thực Xoa Nan Đà (652-710) dịch vào đầu đời Đƣờng
gồm có 80 quyển. Đƣợc xếp vào đại chính tạng tập 10.
3. Tứ thập Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phƣơng Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh Nhập Bất Tƣ Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyên Phẩm.
Kinh này còn gọi là Trinh Nguyên kinh bởi năm Trinh Nguyên thứ 11 (795)
vua Sƣ Tử nƣớc Ô Trà ở Nam Ấn Độ phái sứ giả đem dâng bộ kinh Hoa
Nghiêm do tự tay vua viết, cho vua Đƣờng Đức Tông, gồm 40 quyển do
Prajna, tức Ngài Bát Nhã (734-?) dịch vào đời Đƣờng đƣợc xếp vào đại chính
tạng tập 10.
Ngoài ra còn có 3 bản dịch khác là:
Kinh La ma già: ba quyển do Ngài Thánh Tiên dịch vào thời Tây Tấn.

Đại phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới phẩm, một
quyển do Ngài Địa Bà Ha la dịch, vào đời Đƣờng.
1.2.1.2. Vài nét khái quát về tên gọi và yếu chỉ của kinh Hoa Nghiêm
Kinh Hoa Nghiêm bát thập (80 quyển) gồm 9 hội và 39 phẩm. Bản dịch
của Hòa thƣợng Trí Tịnh lấy phẩm nhập bất tƣ nghì giải thoát cảnh giới khổ
hiền hạnh nguyện làm phẩm thứ 40.
Kinh Hoa Nghiêm còn đƣợc gọi là Hoa Nghiêm kinh, tạp Hoa Nghiêm.
Là một trong những bộ kinh trọng yếu của Phật giáo Đại thừa. Là Pháp môn
thuộc về giáo Pháp viên đốn, giáo lý nhất thừa tối thƣợng mà Nhƣ Lai chỉ ra
chân tƣớng chứng ngộ, ngay sau khi thành ngôi chính giác. Đồng thời nó là
đỉnh cao trí huệ của văn học Phật giáo. Nó không những chỉ tẳng bản tính của
mỗi ngƣời, mà còn chỉ ra con đƣờng viên mãn của đạo Bồ Tát. Theo tinh thần

19


của kinh Hoa Nghiêm thì “giác ngộ không phải là giai đoạn chót của đƣờng tu
mà là một điểm nhỏ trong quá trình tu hành độ sinh, thực hành hạnh nguyện
của đức Phổ Hiền (Samantabhadra Visvabhadra, theo âm Hán là Ta mạn đa
bạt đà Bồ tát, Bật thâu bạ đà Bồ tát). Ngài là một trong 4 vị đại Bồ Tát của
Phật giáo Trung Quốc, cùng với ngài Văn Thù là vị hiệp sĩ của đức Thích Ca
Nhƣ Lai.
Với tên gọi của kinh Hoa Nghiêm đã phần nào nói lên tính chất trọng đại
của nội dung giác ngộ giáo nghĩa thậm thâm vi diệu. Thực lý mà nói thì văn
tự có tuyệt xảo đến mấy cũng không trở hết đƣợc ý nghĩa. Cổ nhân đã từng
nói: “Ý tại ngôn ngoại”, còn Đức Thế Tôn thì dạy “Nhất thiết Tu Đa La nhƣ
tiêu Nguyệt chỉ” (tất cả kinh nhƣ ngón tay chỉ mặt trăng). Thế nên qua tên gọi
của kinh thì khó mà hiểu trọn đƣợc nội dung.
Với ba chữ “Đại Phƣơng Quảng” có thể nói đã bao hàm rất nhiều ý
nghĩa, chỉ ngay vào tâm tính nhất niệm hiện tiền, nếu hết cả lý thể đã nói

trong kinh. Vì là căn bản chất nhƣ diệu lý thực tại của vũ trụ biểu hiện theo ba
phƣơng diện Thể - Tƣớng – Dụng. Thể của chân lý thì bao hàm vạn hữu nên
gọi là “Đại” tƣớng của chân lý thì chu biến khắp vặn hữu nên gọi là “Phƣơng”
dụng của chân lý không bờ cõi nên gọi là “Quảng”.
Hai chữ Hoa Nghiêm còn có nghĩa là “Tạp Hoa Nghiêm”, nghĩa là đem
các thứ hoa tƣơi tốt để nghiêm sức đạo tràng và đó cũng là một ẩn dụ để tôn
xƣng Đức Phật đã giác ngộ chân lý.
Nhƣ vậy đề hiệu của Kinh Hoa Nghiêm còn có nghĩa là “Tôn xƣng sự
chứng ngộ của Đức Phật” đã chứng ngộ đƣợc cái chân lý của vũ trụ, của pháp
giới. Đề hiệu của kinh cho ta thấy cảnh giới chứng ngộ của chƣ Phật không
phải là cảnh địa phàm phu. Vậy muốn khai hiển cái diệu pháp ấy tất nhiên
phải mƣợn sự thực tế để tƣợng trƣng, cho nên Đức Phật đã ở trong “Hải Ấn
Tam muội” mà nói ra kinh này. Toàn kinh đức Phật chỉ im lặng trong thiền

20


định và chỉ có sự hoạt động của Bồ Tát, chƣ thiên thần đem hình thức để biểu
hiện cái thần lực chính giác của Đức Phật qua mọi hiện tƣợng của vũ trụ vạn
hữu. Mỗi lời nói mỗi việc làm của chƣ Bồ Tát, chƣ Thiên Thần đều thống
nhất về oai thần của Phật. Đây là tác dụng vô ngại tự tại của Đức Phật và
điểm quan trọng đầu tiên trong kinh.
Kinh Hoa Nghiêm đƣợc viết từ lý duyên khởi, tức nguyên lý quán xuyến
toàn bộ nội dung giác ngộ của Đức Phật. Lý duyên khởi đƣợc chia ra làm 2 bộ
phận: nội duyên và ngoại duyên. Ngoại duyên là thuyết minh toàn bộ vũ trụ,
vạn pháp sinh thành hoại diệt làm nhân tố tác động cho nhau. Cái này sinh ra
thì chính nó thƣờng hƣởng bao nhiêu sự kiện hữu tình khác để sinh, và khi nó
diệt cũng kéo theo bao nhiêu là nhân tố khác để làm nhân cho cái khác lên
đƣờng. Vũ trụ vạn hữu luôn bên nhau trong cái thể “trùng trùng vô tận” diễn
tiến không ngừng. Nội duyên là thuyết minh cái vòng quay khép kín thiên thu

của chúng sinh trong 6 cõi luân hồi là 12 nhân duyên. Phật là ngƣời duy nhất
chỉ ra nguyên nhân và động lực làm cho bánh xe luôn hồi quay mãi đó là Ái –
Thủ. Vì sự khao khát yêu mến ham thích quá độ là động lực để tái sinh. Chặt
đứt mắt xích này thì vòng quay luân hồi tự tháo bung.
Hành giả cần phải biết một nội dung nữa của Kinh Hoa Nghiêm mà
không kém phần quan trọng đó là Pháp thân Tỳ Lƣ Giá Na. Theo Hoa
Nghiêm không chỉ có đức Phật Thích Ca chứng ngộ dƣới cội Bồ Đề, mà trong
thân đó còn bao hàm cả Tỳ Lƣ Giá Na Phật. Tỳ Lƣ Giá Na nghĩa là Quang
Minh Biến Chiếu, để chỉ cho cái chân lý tổng hợp của vạn hữu vận thƣờng trụ
trong ba đời: Quá khứ - Hiện tại - Vị lai và biến mãn khắp 10 phƣơng. Pháp
thân Tỳ Lƣ Giá Na ở đây không phải là một trong ba thân mà là đại Pháp thân
Tỳ Lƣ Giá Na, là đại Pháp thân trong “Mƣời thân cụ túc” của Đức Phật, thế
nên phần nội dung chính giác của Hoa Nghiêm đó là Tỳ Lƣ Giá Na Pháp thân.

21


×