Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở trường chính trị tỉnh bà rịa – vũng tàu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.91 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO VIẾT SƠN

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở TRƢỜNG CHÍNH TRỊ
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết Học
Mã số: 82 29 001

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN........................................................7
1.1. Khái niệm lý luận chính trị ..............................................................................7
1.2. Vai trò của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên hiện nay ...................22
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở
TRƢỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU HIỆN NAY ..................33
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và con người của tỉnh


Bà Rịa - Vũng Tàu ................................................................................................33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................................33
2.1.2. Kinh tế - xã hội, văn hóa và con người .......................................................37
2.2. Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu………………………………………………………………………………40
2.2.1. Tổng quan về tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu hiện nay................................................................................................40
2.2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế trong công tác đào tạo lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai
đoạn hiện nay ........................................................................................................43
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
ĐẢNG VIÊN Ở TRƢỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
HIỆN NAY...........................................................................................................59
3.1. Nâng cao nhận thức, vai trò dạy và học lý luận chính trị cho giảng viên và
học viên Ttrường Chính trị trong giai đoạn hiện nay ...........................................59
3.2. Đổi mới căn bản về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho học viên .........................................60


3.3. Nâng cao chất lượng và phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ giảng viên
giảng dạy lý luận chính trị tại Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu trong thời
gian tới ..................................................................................................................63
3.4. Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng về tổ chức và quản lý, đầu tư về trang
thiết bị hỗ trợ dạy và học, chế độ chính sách tại Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu trong thời gian tới ................................................................................66
3.5. Cần coi trọng khâu đánh giá cán bộ, đảng viên sau đào tạo và tiếp tục đổi
mới hoàn thiện chính sách, tạo động lực khuyến khích cán bộ, đảng viên tham gia
học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị ...........................................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của Đảng, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi là “công việc gốc của Đảng”. Nhận thức được điều đó, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ
phục vụ cho nhiệm vụ chiến lược của Đảng và của cách mạng. Bước vào giai đoạn
cách mạng mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và giai
đoạn hội nhập quốc tế, Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương, chiến lược cán bộ, trong
đó tập trung chấn chỉnh, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng ta nêu rõ: “Sớm xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỳ đổi
mới”, “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo
đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn” [21, tr. 420]. Bên cạnh đó, những
biến động về kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và khu vực đã tác động không
nhỏ vào Việt Nam. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải
nắm chắc lý luận và có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng. Trong đó, đặc biệt
coi trọng việc học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, xác định học tập lý luận
chính trị là một trong những nhiệm vụ chính trị của của cán bộ, đảng viên.
Ở Việt Nam hiện nay, “tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên … Những biểu hiện xa rời mục
tiêu chủ nghĩa xã hội”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các
thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật
đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính
trị ở nước ta”. Từ thực tiễn đó, công tác đào tào, nâng cao trình độ lý luận chính trị
của Đảng nói chung và Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng càng trở nên cấp
thiết.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Trường Chính trị tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu đã ngày càng đổi mới về nội dung, phương pháp dạy và học lý

1


luận chính trị; luôn luôn phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên.
Giáo dục nhà trường, đặc biệt là giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên là đào tạo và bồi dưỡng những cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên” để giúp họ
thực sự trở thành đầy tớ, công bộc của nhân dân, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp
chung của toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên,
công tác đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức và những hạn chế, khuyết điểm. Là một giảng viên trực tiếp giảng dạy
môn lý luận chính trị ở trường Đảng, qua thời gian công tác, tôi nhận thấy rằng, việc
nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thực trạng để qua đó đề xuất một số giải pháp cụ thể,
thiết thực nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên hiện nay
có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Qua đó, góp phần quan
trọng vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống
chính trị của tỉnh nói chung và đào tạo trung cấp lý luận chính trị - hành chính ở
Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng. Vì vậy, tôi chọn đề tài:“Nâng
cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Trường
Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay” làm luận văn thạc sĩ khoa học triết học,
với mong muốn góp phần vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ, đảng viên ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời gian tới được hiệu quả hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Đảng được thành lập đến nay, Đảng luôn coi trọng vấn đề giáo dục, rèn
luyện, nâng cao trình độ lý lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế trước những biến động của tình hình chính trị
thế giới và khu vực. Đảng đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách và có những yêu
cầu, quy định về trình độ lý luận chính trị đối với mọi đối tượng cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam. Là một trong những định hướng góp phần

nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong tình hình mới.
Trong những thập kỷ gần đây, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên được nhiều tổ chức và cá nhân quan tâm nghiên cứu, với nhiều

2


góc độ phương diện khác nhau như: “Quan hệ giữa lý luận và chính trị” của Nguyễn
Thế Phấn, Tạp chí Cộng sản số 8/1992; “Mấy vấn đề trong công tác lý luận” của Đỗ
Nguyên Phương, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa số 7/1992; Bài viết trên Tạp chí Tư
tưởng - Văn hóa (số 6) của TS Đào Duy Quát (2006) về “Đổi mới toàn diện, nâng
cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới”; bài
viết trên Tạp chí Tuyên giáo (số 11) của GS.TS Mạch Quang Thắng (2008),
“Phương pháp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị theo quan điểm Hồ
Chí Minh”; Đề tài cấp Bộ Mã số B08 – 22 do PGS.TS Ngô Ngọc Thắng chủ nhiệm
(2008), “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục lý luận chính trị
trong hệ thống các trường chính trị hiện nay” Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn
Đình Trãi (2011) về “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, giảng viên lý
luận Mác – Lê nin ở các trường chính trị tỉnh”; “Vai trò của lý luận đối với quá
trình đổi mới xã hội ở nước ta hiện nay” của Phạm Đình Đạt, Luận văn Thạc sĩ
Triết học năm 1993; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cơ sở
ở miền núi Hòa Bình” của Bùi Văn Tính, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 1995;
“Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh
trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay của Trần Thị Yến Linh,
Luận văn Thạc sĩ Triết học năm 1996; “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay” của Vũ Đình Chuyên,
Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2000; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay”
của Nguyễn Thị Hồng Lê, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004;…

Tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí đề cập đến vấn đề lý
luận chính trị và sự cần thiết phải nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong thời kỳ mới, với mọi đối tượng khác nhau, với nhiều góc nhìn
khác nhau, nhưng cho đến nay việc nghiên cứu vấn đề lý luận chính trị, về tầm quan
trọng của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chưa
có bài viết, nghiên cứu nào đề cập tới. Do đó, việc thực hiện nghiên cứu đề tài này
là rất cần thiết.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ một số vấn đế về lý luận chính trị và tầm
quan trọng của công tác đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên để trên cơ sở
đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị ở Trường
Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ
sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề về lý luận chính trị, vai trò của lý luận chính
trị đối với cán bộ, đảng viên hiện nay.
Thứ hai, phân tích thực trạng đào tạo chương trình Trung cấp lý luận chính trị
- hành chính cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận
chính trị cho học viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn đề cập đến đào tạo lý luận chính trị, tác giả không đi sâu nghiên cứu
về lý luận chính trị nói chung mà chỉ làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về lý luận Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của
Đảng và làm sáng tỏ vai trò và tầm quan trọng của việc đào tạo lý luận chính trị cho

học viên ở trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Luận văn chủ yếu tập trung vào
công tác đào tạo lý luận chính trị, mà không đi sâu về mãng đào tạo hành chính.
Cũng như định hướng để nâng cao chất lượng đào tạo chương trình Trung cấp lý
luận chính trị - hành chính ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn
2018 – 2020, qua đó góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, chính

4


sách và pháp luật của Nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011). Hội nghị Trung ương 4 khóa XI ban hành Nghị quyết số 12NQ/TW, ngày 16/01/2012, về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng những tài liệu, Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định
của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Dự thảo Đề án 162 tháng 9 năm 2017 của
Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức đến năm 2020, định hướng đến năm 2025” (Lưu hành nội bộ).
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với một số phương pháp khoa học cụ thể như: Lôgic –
lịch sử; phân tích, tổng hợp thống kê...
Nguồn tài liệu của luận văn:
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Văn kiện đại hội Đảng các cấp, các Tạp chí Cộng sản, Triết học và các công trình
nghiên cứu trước đó…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nghiên cứu về đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có lý
luận khoa học vừa thực tiễn, góp phần quan trọng trong quá trình thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay.
Về ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, quan điểm
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới và trang bị về mặt lý
luận cho cán bộ, đảng viên, góp phần vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo, chủ chốt, cán bộ nguồn của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu nói riêng, của Đảng và Nhà nước ta nói chung.
Về ý nghĩa thực tiễn, từ việc phân tích thực trạng đào tạo lý luận chính trị cho
học viên ở Trường Chính trị tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong thời gian qua, luận văn

5


đã đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, cho việc học, tập nghiên cứu và
giảng dạy về lý luận chính trị. Hoặc có thể tham khảo cho việc xây dựng, kế hoạch
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn được cơ cấu gồm 3 chương, 9 tiết.

6


Chƣơng 1
ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm lý luận chính trị

Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng Việt Nam,
cán bộ đảng viên luôn là một trong những nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng, quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Cho nên nhà triết học C. Mác đã khẳng định rằng muốn thực hiện tốt
những tư tưởng cần có con người sử dụng một thực tiễn.
Lịch sử xã hội loài người, lịch sử của quá trình cách mạng đã chứng minh rằng,
mọi chính đảng, giai cấp nào muốn giữ vững được quyền thống trị xã hội thì điều
quan trọng là phải chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên của giai cấp mình không ngừng nâng cao về trình độ, rèn luyện về kỹ năng và
bồi dưỡng lý luận chính trị trong thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy
rằng:“Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Muốn làm được điều đó, Đảng phải có lý luận cách mạng của
mình”.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lại quan điểm
rất quan trọng của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách
mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới
làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [29, tr. 259]. Vì vậy, chỉ có chính đảng
nào có được lý luận tiên phong dẫn đường thì đảng đó mới hoàn thành cách mạng
tiền phong. Cho nên, khi nói đến Đảng chính trị là nói đến hệ thống lý luận – nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ấy.
Như vậy, để làm rõ lý luận chính trị thì tác giả cũng đã xuất phát từ nhiều
phương diện, góc độ, quan niệm khác nhau và làm rõ một số khái niệm có liên quan
như :“lý luận” và “chính trị”.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát
từ những kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những

7


kiến thức được khái quát hóa và hệ thống hóa trong một lĩnh vực nào đó” [46, tr.

544-545].
Từ điển Triết học định nghĩa: “Lý luận là những tri thức đã được khái quát, tạo
ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên hệ cơ bản của hiện thực …
Lý luận là sự khái quát hoạt động nhận thức và những kết quả của thực tiễn, lý luận
góp phần cải tạo tự nhiên và đời sống xã hội” [42, tr. 341].
Trong giáo dục lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy “lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [25, tr. 497]. Có thể thấy rằng, dưới góc nhìn
của Người không giống như nhiều học giả khác, khi họ chỉ nhìn lý luận ở góc độ lý
luận chính trị. Với ý nghĩa trên, lý luận rất quan trọng vì nó đóng vai trò định hướng
cho hoạt động nhận thức và là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của con người
nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Bởi vì, lý luận được tổng kết từ
thực tiễn và quay trở lại chỉ đạo thực tiễn nên chủ thể nhận thức và hoạt động cần
phải nắm bắt nguyên tắc này, nắm vững lý luận như người vĩ đại đứng trên vai của
những người khổng lồ, để tổng kết và sáng tạo ra lý luận, phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng của chính đảng, của giai cấp và của dân tộc mình.
Tuy có rất nhiều cách tiếp cận, quan niệm ở những phương diện khác nhau,
nhưng xét cho cùng thì cũng có nhiều quan điểm đồng nhất với nhau. Vậy, lý luận
là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự
nhiên, xã hội được tích lũy trong quá trình hoạt động sống của con người; là sự
phản ánh bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và
có vai trò chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Trong
mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn thì thực tiễn đống vai trò là cơ sở, động lực,
mục đích và là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Hay, thực
tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý, bởi lẽ chỉ có thông qua thực tiễn con
người mới “vật chất hóa” được tri thức, “hiện thực hóa” được tư tưởng. Thông qua
quá trình đó, chủ thể nhận thức có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm của lý
luận. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định lý luận chân chính là: “Đem

8



thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh
kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh trong thực tế”
[30, tr. 233].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, lịch sử xã hội loài người tất yếu
trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội, trong đó có những giai đoạn, thời kỳ hay ở
mỗi hình thái thì xã hội loài người không tồn tại giai cấp, nhà nước và đảng phái.
Cụ thể, trong xã hội công xã nguyên thủy, sản xuất vật chất chưa phát triển, chưa
xuất hiện tư hữu, chưa xuất hiện giai cấp, cũng vì thế trong xã hội chưa xảy ra mâu
thuẫn và sự đối lập về lợi ích trong xã hội. Từ thực tiễn đó, chúng ta thấy rằng
không có giai cấp, không có quan hệ giai cấp, không có nhà nước, tổ chức để giải
quyết quan hệ đó thì cũng không có chính trị và hoạt động chính trị. Vậy thì trong
xã hội công xã nguyên thủy, ai và tổ chức nào sẽ điều chỉnh sinh hoạt, duy trì sự tồn
tại và phát triển của xã hội công xã, đó chính là các tộc trưởng, tù trưởng, những
người cao tuổi có đạo đức và uy tín, hay tự quản theo tập quán. Cho nên Ph.
Ăngghen viết:“Với tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ
chức đẹp đẽ biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc,
vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa, không có nhà tù, không có những vụ
xử án - thế mà mọi việc đều trôi chảy”. Từ đó, có thể khẳng định rằng trong xã hội
nguyên thủy chưa có chính trị, chưa có tổ chức và hoạt động chính trị, tuy nhiên đó
là mầm mống tiền đề cho sự nảy sinh vận động, phát triển của chính trị và hoạt
động chính trị sau này.
Vậy, chính trị là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của xã hội, xuất hiện trong
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử - xã hội loài người, gắn liền với sự
phân chia xã hội thành những lực lượng đối kháng và sự chuyển đổi của một nền
kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất khi lực lượng sản xuất phát triển, mà kết
quả tất yếu của sự chuyển biến xã hội này là sự ra đời của Nhà nước và các tổ chức
chính trị. Chính trị là hình thái ý thức xã hội, là một trong những yếu tố của kiến
trúc thượng tầng có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và đối với các yếu

tố khác trong kiến trúc thượng tầng. Từ khi ra đời, chính trị được hiểu ở rất nhiều

9


phương diện và nhìn nhận khác nhau từ thời cổ đại, trung đại và cận đại, các học giả
phương Đông, phương Tây cố gắng tìm kiếm một hình thức nhà nước tối ưu để cai
trị đất nước. Theo tiếng Hy Lạp cổ, thì chính trị là “politica” - tức là những công
việc liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật cai trị đất nước, quản lý xã hội. Cho nên:
“Chính trị theo nguyên nghĩa của nó là sự tham gia vào các công việc của nhà nước,
việc quy định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Lĩnh
vực chính trị bao hàm các vấn đề chế độ nhà nước, quản lý đất nước, lãnh đạo các
giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái, v.v… Những lợi ích căn bản của các giai cấp
và những quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện ra trong chính tri, cũng là sự
biểu hiện những quan hệ giữa các dân tộc và giữa các quốc gia” [42, tr. 85-86]. Hay
“Chính trị theo nguyên nghĩa của nó là những công việc của nhà nước, là phạm vi
hoạt động gắn với những giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt
nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [43, tr. 507].
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) C. Mác và Ph. Ăngghen
đã phân tích và làm rõ nội hàm của chính trị, các ông đã chỉ ra thực chất của chính
trị, nguồn gốc xuất hiện và mất đi của chính trị, bản chất của chính trị và điều đặc
biệt là hai ông đã phát hiện ra yếu tố cơ bản, giữ vị trí quan trọng của chính trị là
yếu tố kinh tế, do vậy C. Mác và Ph. Ăngghen đã cho rằng chính trị thực chất là
quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng người đối với vấn đề Nhà nước và xã
hội. Chính trị là sự phản ánh tập trung của đời sống xã hội, giai cấp. Các ông quan
niệm: “Mỗi bước phát triển của giai cấp tư sản đều cấp một bước tiến bộ chính trị
tương ứng”. Khi bàn đến chính trị là nói đến chính trị của Đảng phái, để đảm bảo
cho sự phát triển của kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc thì phải thông qua
một hệ thống chính trị như: chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách, pháp
pháp luật của Đảng và Nhà nước một cách khoa học, không được sai lầm, mơ hồ về

chính trị. Do phạm trù chính trị có tính đặc thù và tầm quan trọng như vậy, nên V.I.
Lênin đã khẳng định: “Chính trị giống đại số hơn là số học, càng giống toán học cao
cấp hơn toán học sơ cấp”, “Chính trị là vận mệnh thực tế của hàng chục triệu con
người” [56, tr. 150]. Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, xem xét

10


chính trị với tư cách là một hiện tượng xã hội - nó mang tính lịch sử và chính trị có
vai trò to lớn trong đời sống xã hội, vì “Chính trị là sự tham gia vào công việc nhà
nước, là sự vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung của nhà nước” [61, tr. 404]. Do đó, mục đích thống trị của một giai cấp, một
chính đảng bất kỳ nào suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế, duy trì sự thống trị giai
cấp về kinh tế. Vì thế, Lênin đã khẳng định: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế” [57 tr. 349].
Từ những phân tích trên, có thể đi đến một quan điểm chung về chính trị như
sau: Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành
chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của
nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước.
Với góc độ tiếp cận khái niệm “lý luận” và “chính trị” như trên, có thể khái
quát về khái niệm lý luận chính trị đó là: Lý luận chính trị là hệ thống các quan
điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một đảng, một giai cấp để giành, giữ và
thực thi quyền lực nhà nước. Như vậy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận
chính trị của giai cấp vô sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất của giai cấp vô sản và
chính đảng của nó - Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
trong những năm ba mươi của thế kỷ XIX, đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn, khoa
học và cách mạng; giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào đấu tranh của công nhân

với chủ nghĩa yêu nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng luôn lấy chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động của mình. Luận điểm đó được Đảng khẳng định rất rõ trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 6 năm 1991
tại Thủ đô Hà Nội: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [17, tr. 21].

11


Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về những quy luật chung nhất về sự vận
động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, là lý luận cách mạng của giai cấp vô
sản và quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bộc lột của
chủ nghĩa tư bản đế quốc, là môn khoa học về xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, V.I. Lênin đã nhận xét: “Chúng ta không hề coi lý luận
của Mác như là một cái gì đó đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng
ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội
chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc
hậu đối với cuộc sống … vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung,
còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở
Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga” [62, tr. 232].
Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận cơ bản đó là Triết học
Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong
đó, Triết học Mác - Lênin là hệ thống tri thức lý luận nghiên cứu những quy luật
vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, về vai trò, vị trí của
con người trong thế giới đó, Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy
luật kinh tế của xã hội loài người, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra
đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát
triển của phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Chủ

nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu làm sáng tỏ, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, bước
chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản và tiến tới cộng sản chủ nghĩa.
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp chúng ta từng bước xây dựng
và hình thành thế giới quan khoa học, có phương pháp tiếp thu một cách hiệu quả lý
luận mới, những thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, có niềm tin vào sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, có cơ sở khoa học chống lại tư tưởng lạc hậu,
phản động. Hiểu và nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi người có điều kiện hiểu
rõ mục đích, con đường, lực lượng, cách thức bước đi của sự nghiệp giải phóng con
người, không sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng, chủ quan, duy ý chí.

12


Có cách nhìn xa trông rộng, chủ động sáng tạo trong công việc, khắc phục chủ
nghĩa giáo điều, máy móc, tư tưởng nôn nóng, đốt cháy giai đoạn và các sai lầm
khác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và tiến tới giải phóng con người. Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa
hết sức to lớn, nhằm trang bị hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng
của mỗi người. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh chính là việc nghiên cứu và vận
dụng hệ thống các quan điểm của Người, bao gồm các tư tưởng chủ yếu như: giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân,

xây dựng Nhà nước của dân do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế văn hóa, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Trên cơ sở đó, chúng ta nắm bắt
được yếu tố cốt lõi trong tư tưởng của Người, đó là: tư tưởng về độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Từ đó, làm cho
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trang bị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên những hiểu biết cơ bản về sự ra đời của Đảng, đường lối của Đảng

13


trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
là đường lối của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Học tập môn Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bồi
dưỡng cho người học niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định hướng phấn đấu theo
mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm công dân,
trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trước những nhiệm vụ, thách thức của đất
nước. Qua học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, học
viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực giải quyết
những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo đường lối, chính sách của
Đảng.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta khẳng định: Lý luận chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam là lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

là lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, về đoàn kết dân tộc và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân, là lý luận về xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh. Đảng đã chỉ rõ: “Ở những bước ngoặt cách mạng, trước những diễn biến
phức tạp của tình hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng đúng dắn, uốn nắn
những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho thống nhất
tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân” [19, tr. 136].
Đất nước trải qua hơn ba mươi năm đổi mới, từ Đại hội VI (1986) - Đại hội đề
ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đến Đại hội XII (2016) qua quá trình tổng
kết thực tiễn, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thực tế chỉ rõ, ba
mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển
của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và Nhân
dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc,
toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, bên cạnh đó
còn một số khó khăn, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất

14


nước phát triển bền vững, trong đó công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định
hướng thực tiễn, cung cấp lý luận khoa học làm cơ sở cho hoạch định đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề phải qua tổng kết
thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng (1994) nêu lên vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc
chống phá Nhà nước ta. Đặc biệt, trong Nghị quyết 04/NQ-TW của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
ký ban hành ngày 30/10/2016, về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng
thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Theo đó, Trung ương chỉ rõ các biểu hiện
suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng - chính trị, đạo đức - lối sống, và những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Theo như nhận diện những biểu hiện
thì thực trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang ở mức nguy hiểm; bởi
vì nó xuất hiện ở nhiều trạng thái, diễn ra ở mọi cấp độ, trong mọi hoạt động, mọi
đối tượng, bất kể đó là “cấp thấp” hay “cấp cao” và không loại trừ chủ chốt hay
không chủ chốt. Có thể nói, đây là “bộ quy tắc” làm gương soi cho tất cả cán bộ,
đảng viên và công chức; nhìn vào 27 biểu hiện thuộc 03 nhóm trên ít ai có thể
“miễn dịch” 100%. Nhưng đó cũng là lúc mà tất cả những người đang hưởng lương
từ ngân sách, mang danh phận “công bộc” làm việc trong những trụ sở nguy nga,
lộng lẫy, ngồi trên những chiếc xe tiền tỷ, tiêu xài những đồng tiền mồ hôi nước mắt
của nhân dân, cần đối chiếu lại mình với những gì mà Nghị quyết đã nói. Trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, đòi hỏi sự
nghiệp giáo dục, đào tạo phải đổi mới để nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng ngày càng cao, đạt trình độ của khu vực
và theo kịp thế giới.

15


Từ thực tiễn của yêu cầu cách mạng đó, Đảng đã xây dựng hệ thống lý luận
chính trị cho mình và chú trọng công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị của Đảng, Nhà nước. Lý luận chính trị của
Đảng ta hiện nay, được thông qua các chương trình đào tạo với những hình thức
khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng cán bộ, đảng viên của Đảng, với mục đích
không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cũng như nhận thức lý luận chính
trị của Đảng trong tình hình mới.

Khi đề cấp đến học tập lý luận chính trị, đó là lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước, trong đó Đảng luôn quán triệt tinh thần học tập chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên đó là nhiệm vụ chính trị,
bắt buộc và cần thiết.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận cốt lõi của Đảng mang
những đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, đó là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là cơ sơ phương pháp luận nhận thức
của chủ nghĩa duy vật mácxit, là nguyên tắc cơ bản của triết học Mác - Lênin có vai
trò rất quan trọng đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người
nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Điểm yếu và thiếu của các nhà
triết học trước Mác, là họ không thấy được vai trò của thực tiễn đối với sự tồn tại
của xã hội cũng như với sự nhận thức và cải tạo xã hội. Vì thế, họ không giải thích
được những động lực của sự phát triển một cách khoa học, như quan điểm của
Phoiơbắc nhà triết học duy vật cao nhất trước Mác vẫn xem thực tiễn có tính chất
bẩn thỉu của con buôn.
Triết học Mác - Lênin ra đời là một trong những thành tựu vĩ đại của của trí tuệ
nhân loại đã thấy được vai trò của thực tiễn, triết học Mác là duy vật, nói một cách
khác, nhờ vận dụng và quán triệt chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã
hội, Mác đã giải quyết vấn đề xã hội một cách duy vật trên quan điểm thực tiễn.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử xã hội của

16


con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Hoạt động thực tiễn
có nhiều hình thức, nhưng có thể quy về ba những hình thức cơ bản, chủ yếu là:
Hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học. Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những

mối liên hệ bản chất, qui luật phổ biến của sự vật, hiện tượng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [33, tr. 788].
Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo Người phải được hiểu trên tinh
thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận (khoa học) soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo,
hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, không rơi vào mò
mẫm, vòng vo, mù quáng mất thời gian. Còn lý luận (khoa học) phải dựa trên cơ sở
thực tiễn, nảy sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn, luôn liên hệ với thực tiễn và
được bổ sung, hoàn thiện, phát triển thông qua tổng kết thực tiễn có lý luận nếu
không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn và lý luận cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, hậu thuẫn và bổ sung cho nhau. Không có thực tiễn sẽ không
có lý luận và ngược lại không có lý luận thì thực tiễn sẽ mất phương hướng. Thấm
nhuần tinh thần ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi
mới luôn quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là rất quan trọng, chỉ đạo sự phát triển của chúng ta. Lý luận phải luôn luôn bám sát
thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm
của thực tiễn. Yêu cầu quan trọng đối với hoạt động thực tiễn và nhận thức của con
người là phải bám sát vào thực tiễn để khái quát, rút ra được những kinh nghiệm từ
thực tiễn, thống nhất được lý luận vào thực tiễn và thực tế của con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã chứng minh cho ý nghĩa phương pháp luận này.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác lý luận của Đảng hiện nay, là
đẩy mạnh việc tổng hợp thực tiễn, mọi lĩnh vực đều phải tổng hợp và khái quát

17


thành lý luận, bổ sung lý luận, một trong những sức mạnh của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là thường xuyên tổng hợp lý luận.
Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp

điều kiện lịch sử cụ thể, phải khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Bệnh
kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng
máy móc vào thực tiễn hiện nay mặc dù nó đã thay đổi. Vi phạm quan điểm lịch sử
cụ thể, đây chính là tư duy siêu hình, không thấy được sự vận động của lịch sử - xã
hội, dẫn đến xem thường lớp trẻ - những người được xem là ít kinh nghiệm thực
tiễn. Từ đó, làm mất đi tính sáng tạo, chủ động trong hoạt động thực tiễn của họ, đó
chính là bệnh xem thường lý luận. Để khắc phục bệnh này thì không được xa rời
thực tiễn, phải bám sát thực tiễn, phải tăng cường học tập, nâng cao trình độ lý luận,
bổ sung lý luận thường xuyên để đáp ứng với sự thay đổi của thực tiễn. Bệnh giáo
điều là bệnh tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi
nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính đến
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nguyên nhân là do hiểu lý luận một cách nông cạn, chưa
nắm được bản chất của lý luận. Lý luận chưa được vận dụng vào thực tiễn, chưa
được thực tiễn kiểm nghiệm nên vẫn chỉ là lý luận thuần túy. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô (cũ) và Đông Âu. Để khắc phục bệnh giáo điều, cần quán triệt sâu sắc nguyên
tắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận luôn gắn với thực tiễn và phải
vận dụng lý luận một cách sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không
ngừng phát triển trong thực tiễn. Vì vậy, C. Mác đã khẳng định: “Vũ khí của sự
phên phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng của vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở
thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [13, tr. 580].
Trong học tập và nghiên cứu lý luận, phải gắn với thực tiễn công tác, vậy học lý
luận chính trị là học “tinh tập tinh thần của chủ nghĩa mác - Lênin; lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, để áp dụng lập trường, quan điểm

18


và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách

mạng của chúng ta” [1, tr. 177].
Như vây, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, sự
nghiệp đổi mới nói riêng, Đảng đã vận dụng tốt nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước,
đồng thời Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong tám mươi sáu năm qua,
Đảng luôn hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo của mình, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa
tính đảng, tính khoa học và cách mạng.
Một chính đảng, một giai cấp muốn tồn tại và duy trì sự lãnh đạo của mình đối
với xã hội, thì chính đảng đó phải xây dựng cho mình hệ thống lý luận chính trị, về
nguyên tắc lý luận chính trị phải mang tính đảng và mang tính giai cấp, tính dân tộc
và nhân loại. Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công
nhân khẳng định: Chính đảng ra đời là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp,
tồn tại gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, thì vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng
đầu là giai cấp vô sản phải tổ chức ra được chính đảng độc lập của mình. Đảng
Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, một bộ phận của giai cấp công
nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân, được trang bị bằng lý luận tiên tiến, có
trình độ giác ngộ cao. Trong thực tiễn, Đảng lãnh đạo và hành động kiên quyết nhất,
đồng thời biết tổ chức, tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện mục tiêu, lý
tưởng của Đảng. V.I. Lênin khẳng định: “Đảng là của giai cấp nhưng là đội tiên
phong của giai cấp chứ không phải toàn bộ giai cấp là Đảng”. “Đảng phải là đội tiên
phong, là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai cấp công nhân; toàn thể (hay
hầu như toàn thể) giai cấp này hành động dưới sự kiểm soát và lãnh đạo của Đảng,

19



nhưng họ không gia nhập tất cả và những không được gia nhập tất cả vào Đảng”
[59, tr. 352]. Từ đó, V.I.Lênin khẳng định đảng là đảng của giai cấp, gắn liền với
giai cấp, lý luận chính trị mang tính đảng mang tính giai cấp.
Lý luận chính trị của Đảng ta mà nội dụng cơ bản, cốt lõi là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời trên cơ sở những tri thức tiên tiến nhất của thời
đại về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Kế thừa và tiếp thu những thành tựu trí
tuệ của nhân loại, các nhà kinh điển Mác - Lênin, đã sáng tạo ra học thuyết khoa
học và cách mạng cho giai cấp vô sản - đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó:
“Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ chung của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh
thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [26, tr. 69].
Tính khoa học cách mạng của lý luận chính trị còn được thể hiện ở tính hệ
thống lý luận hoàn chỉnh, chặt chẽ, là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng trong triết học Mác làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép
biện chứng trở thành lý luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ rõ sự
chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội
khác như một quá trình lịch sử tự nhiên. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện sự vận động thay thế của các phương
thức sản xuất trong xã hội. Đó là cơ sở để khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ
nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, còn khẳng
định giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh xóa
bỏ ách áp bức, bất công và tình trạng người bốc lột người. Chủ nghĩa Mác - Lênin là
hệ tư tưởng là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp mình, qua đó giải phóng xã hội và giải phóng con người.


20


Tính đảng, tính khoa học và cách mạng luôn thống nhất biện chứng với nhau, vì
về nguyên tắc, tính đảng càng cao thì tính khoa học cách mạng càng sâu sắc, tính
đảng, tính khoa học và cách mạng là điều kiện, tiền đề cho nhau cùng tồn tại. Do
dó, Ph.Ăngghen viết: “Khoa học càng được tiến hành một cách dũng cảm và vô tư
thì nó cũng phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của giai cấp công nhân” [14, tr.
451].
Thứ ba, lý luận chính trị là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương
pháp luận.
Trên nền tảng của triết học Mác, giúp cho con người hiểu rõ bản chất về sự vận
động và phát triển của thế giới vật chất và tư duy của con người vận động, biến đổi
theo những quy luật khách quan. Bên cạnh đó, còn giúp cho con người xem xét sự
vật, hiện tượng một cách khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn, có
thể nhận thức, giải thích và cải tạo thế giới. Phương pháp luận mácxít là phương
pháp khoa học và cách mạng nhất, là nền tảng lý luận về phương pháp, nên có vai
vai trò rất quan trọng đối với hoạt nhận thức và hoạt động thữc tiễn của con người.
Như vậy, lý luận chính trị của Đảng ta là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với tổng kết, đúc kết những kinh nghiệm từ
thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc ta và phong trào đấu tranh của
nhân dân trên toàn thế giới và sự khái quát những thành tựu khoa học công nghệ
tiên tiến của nhân loại. Nên lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc
cung cấp luận cứ khoa học cho việc bổ sung, xây dựng đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng như trang bị phương pháp, cách
thức đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
giai đoạn hội nhập quốc tế và khu vực. Vì vậy, V.I.Lênin đã nói: “Chỉ Đảng nào
được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến
sĩ tiên phong” [55, tr. 32].
Tóm lại, lý luận chính trị vừa mang tính đảng, tính khoa cách mạng và tính
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan và phương pháp luận, là cơ sở, nền tảng cho

cán bộ, đảng viên thực hành đạo đức công vụ của mình.

21


1.2. Vai trò của lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên hiện nay
Cán bộ, theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2000,
thì đươc hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà
nước
Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người không có chức vụ [41, tr. 109].
Qua hai cách hiểu trên, cho chúng ta hai khái niêm cán bộ như sau:
Thứ nhất: Cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc
trong cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các doanh nghiệp
nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến cơ sở.
Thứ hai: Cán bộ là những người giữ chức vụ trong cơ quan hay tổ chức để phân
biệt với người không có chưc vụ trong cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị. Mỗi
loại cán bộ có vai trò, vị trí khác nhau trong tổ chức, cơ quan, đoàn thể và đời sống
xã hội.
Tuy nhiên, cùng với sự hình thành và phát triển của hệ thống chính trị, các lực
lượng vũ trang và các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập, khái
niệm cán bộ được mở rộng. Để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về nhân lực,
Quốc hội đã ban hành các văn bản pháp luật quy định những người là cán bộ, công
chức, viên chức. Theo khoản 1, điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (cấp huyện), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách”. Như vậy, qua các khái niệm trên thì cán bộ là đội

ngũ có vai trò và vị trí rất quan trọng là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức
đoàn thể trong hệ thống chính trị với nhân dân.
Theo Điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân

22


×