Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.19 KB, 35 trang )

TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ

I.Tiền tệ và thị trường tiền tệ
1.Tiền tệ
1.1.Bản chất và chức năng của tiền tệ
1.1.1 Sự ra đời và bản chất của tiền tệ
Mọi hàng hoá đều có giá trị,giá trị của hàng hoá do lao động của con
người sáng tạo ra trong quá trình sản suất, nhưng nó chỉ bộc lộ ra bên
ngoài trong quá trình lưu thông. Ngày nay giá trị của mọi thứ hàng hoá
đều biểu hiện bằng tiền.
Tiền đã xuất hiện cách đây trên 2000 năm trước công nguyên, sau may
nghìn năm phát triển của sản xuất va trao đổi trong xã hội loài người, trải
qua nhiều hình thức trao đổi khác nhau như: trao đổi sản phẩm trực tiếp,
trao đổi mở rộng qua nhiều sản phẩm khác, trao đổi gián tiếp qua vật
ngang giá chung của từng khu vực, từng bộ lạc... đến khi tất cả các địa
phương các quốc gia đều thống nhất sử dụng vàng bạc làm vật ngang giá
chung, thì tiền tệ trở thành vật ngang giá chung của toàn thế giới.
Vật ngang giá chung là hình thái biểu hiện giá trị của nhiều hàng hoá
nên nó có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá khác. Trong thời gian
đầu, vật ngang giá chung chưa cố định vào một hàng hoá nào, mỗi địa
phương mỗi dân tộc đều có một thứ hàng hoá riêng biệt làm vật ngang giá
chung. Trong thời cổ đại ,Trung Quốc đã từng sử dụng da súc vật ,vỏ trai,
gạo, ngọc trai, vàng bạc làm vật ngang giá chung...

1



TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Trong quá trình phát triển của sản xuất trao đổi hàng hoá, những hàng
hoá thông thường mất dần vai trò làm vật ngang giá chung vì thị trường
trong nước và thị trường thế giới ngày càng mở rộng, đòi hỏi phải có một
vật ngang giá chung thống nhất,cố định,có giá trị thực tế, dễ bảo quản vận
chuyển, dễ sử dụng có thể chia nhỏ để dùng trong những giao dịch nhỏ,
không bị thiên nhiên phá hoại . Trong các loạ hàng hoá làm vật ngang giá
chung, chỉ có vàng bạc là đủ những tính chất như vậy, nên vàng bạc đã
được dùng làm vật ngang giá chung .
Đến cuôí thế kỉ 19, vàng loại bỏ bạc, làm vật ngang giá chung độc nhất,
duy nhất của thị trường thế giới cũng như thị trường của từng dân tộc.
Vàng trở thành thước đo giá trị chung của toàn thế giới.
Xét về bản chất tiền tệ là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá đã phát
triển cao, một thứ hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung,
thước đo giá trị chung của mọi hàng hoá và tài sản khác. Tiền có khả năng
trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá: vật chất và phi vật chất,mọi tài sản lớn
nhỏ.
Bản chất của tiền là một loại hàng hoá đặc biệt, độc quyền làm vật
ngang giá chung, vật trung gian trao đổi hàng hoá, vật biểu hiện quan hệ
xã hội của mọi người trong nền kinh tế. Bản chất của tiền tệ được biểu
hiện đầy đủ qua các chức năng của nó.
1.1.2.Chức năng của tiền tệ
- Phương tiện thanh toán:
Tiền được dùng trong giao dịch mua, bán hàng hoá, dịch vụ.Vậy tiền
cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá trực tiếp. Nó tạo
thuận lợi đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng hoá , được xem là dầu bôi
trơn cho mọi hoạt động kinh tế, thúc đẩy phân công lao động và mở rộng

2



TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu thông tiền tệ trở thành hệ thống huyết
mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị trường.
- Dự trữ giá trị :
Tiền hôm nay có thể được tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai. Vì thế
nó tạo khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh,tăng thêm thu nhập trong
hiện tại, nhưng có thể để dành một phần kết quả đạt được cho tiêu dùng
ngày mai. Như vậy tiền là một loại tài sản tài chính má nhờ nó đã mở
rộng cho hoạt động tín dụng,thúc đấy quá trinh tích tụ để mở rộng sản
xuất.
- Đơn vị hoạch toán:
Tiền cung cấp một đơn vị tiêu chuẩn giá trị, được dùng để đo lường giá
trị của các hàng hoá khác nhau. Đặc biệt, nó cần thiết cho mọi nền kinh tế,
vì khả năng so sánh các chi phí và lợi ích của các phương án kinh tế. Nó
còn là cơ sở để hoạch toán mọi hoạt động kinh tế từ sản xuất đến lưu
thông và tiêu dùng của mọi quốc gia.
1.2. Các khối tiền tệ trong lưu thông
Các khối tiền tệ trong lưu thông tập hợp các phương tiện được sử dụng
chung làm phương tiện trao đổi, được phân chia tuỳ theo “độlỏng” của các
phương tiện đó trong những khoảng thời gian nhất định của một quốc gia.
Độ lỏng của phương tiện trao đổi được hiểu là khả năng chuyển đổi từ
phương tiện đó ra hàng hoá dịch vụ, tức là phạm vi và mức độ có thể sử
dụng những phương tiện đó trong việc thanh toán chi trả.
Các phép đo khối lượng tiền được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương
tiện hệ thống tài chính cung cấp và thường xuyên có sự thay đổi cho phù
hợp, nhưng nhìn chung các khối tiền trong lưu thông bao gồm :
1.2.1. Khối tiền giao dịch(M1)


3


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Gồm những phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán chi trả
về hàng hoá dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất :
- Tiền mặt trong lưu hành : Bộ phận tiền mặt(giấy bạc ngân hàng và tiền
đúc) nằm ngoài hệ thống ngân hàng.
- Tiền gửi không kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng.
- Một số phương tiện khác như ngân phiếu thanh toán, tiền gửi khác có
thể phát séc ...
1.2.2. Khối tiền mở rộng (M2) gồm:
- M1
- Tiền gửi có kỳ hạn
Bộ phận tiền gửi có kì hạn mặc dù không trực tiếp sử dụng làm phương
tiện trao đổi, nhưng chúng cũng co thể được chuyển đổi sang tiền giao
dịch một cách nhanh chóng và với phí tổn thấp. Bộ phận này còn có thể
được chia ra theo kì hạn hoặc số lượng.
1.2.3 Khối tài sản (M3)gồm:
- M2
- Trái khoán có mức lỏng cao như: Hối phiếu, Tín phiếu kho bạc... Bộ
phận trái khoán này là tài sản tài chính nhưng vẫn có thể được chuyển đổi
ra tiền giao dịch tương đối nhanh chóng .
Mặc dù số liệu về các khối tiền tệ được công bố và sử dụng vào những
mục đích nhất định, nhưng việc đưa ra các phép đo lượng tiền chỉ có ý
nghĩa khi nó vừa tập hợp được các phương tiện trao đổi trong nền kinh tế,
vừa tạo cơ sở dự báo lạm phát và chu kì kinh doanh. Vì vậy, hiện nay một
số nước đang nghiên cứu đưa ra phép đo “tổng lượng tiền có tỉ trọng”

trong đó mỗi loạ tài sản có một tỉ trọng khác nhau tuỳ theo độ lỏng của nó
khi cộng lại với nhau. Việc lựa chọn phép đo nào phụ thuộc vào nhận thực

4


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
và khả năng của ngân hàng TW trong điều hành chính sách thực tế. Tuy
nhiên, sử dụng trực tiếp trong các giao dịch làm phương tiện giao dịch chủ
yếu là khối tiền M1, vì vậy định ngiã M1 được sử dụng thường xuyên khi
nói tới tiền trong giao dịch trực tiếp
2. Thị trường tiền tệ
2.1 Định nghĩa
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi mua
bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn.
Theo nghĩa hẹp, thị trường tiền tệ là thị trường thuần tuý liên ngân
hàng, với hai chức năng cơ bản là cân đối và điều hoà nguồn vốn vay, cho
vay các tổ chức tín dụng và giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín
dụng ,cân đối khả năng chi trả giữa các tổ chức tín dụng.
Thị trường tiền tệ có một số đặc điểm sau:
- Công cụ của thi trường tiền tệ là các khoản vay, hay các chứng khoán
có thời hạn trong vòng một năm
- Thị trường này có độ an toàn tương đối cao.
2.2. Cấu trúc của thị trường tiền tệ
2.2.1 Theo hình thức vận đọng của vốn, thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường tiền gửi .
Trên thị trường này các tổ chức tín dụng thu hút vốn bằng nhiều hình
thức: Tiền gửi tiết kiểm, phát hành các công cụ nợ, cung ứng tín dụng đối
với nền kinh tế

- Thị trường mua bán ngoại tệ(thị trường ngoại hối) là nơi mua bán
trao đổi ngoại tệ và các giấy tờ có giá trị ngoại tệ.

5


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
- Thị trường mua bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn: là nơi mua bán,
trao đổi các giấy tờ có giá trị ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, kì phiếu
thương mại, kì phiếu ngân hàng...
2.2.2 Căn cứ vào phạm vi, thị trường tiền tệ chia làm hai loại:
- Thị trường ngân hàng, là nơi trao đổi vốn khả dụng giữa các tổ chức
tín dụng.
- Thị trường mở, là nơi mua đi bán lại các chứng khoán có giá trị ngắn
hạn của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội .
2.2.3 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức thị trường ,thị trường tiền tệ bao gồm:
- Thị trường sơ cấp là nơi gặp gỡ trực tiếp giữa các nhà phát hành các
giấy tờ có giá trị với nhà đầu tư để thoả mãn nhu cầu vốn cho các chủ thể
trong nền kinh tế.
-Thị trường thứ cấp, là nơi mua đi bán lại các giấy tờ có giá đã được
phát hành ở thị trường sơ cấp.
2.3 Chủ thể tham gia thị trường tiền tệ
2.3.1 Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Các doanh ngiệp sản xuất kinh doanh khi bán sản phẩm nhận được
các giấy nợ, hối phiếu họ thường đem chúng ra thị trường bán đẻ nhận
tiền.Khi họ là người mua hàng, họ lại có thể mua loại giấy tờ có giá trị
thích hợp tại thị trường tiền tệ. Các doanh nghiệp lớn, khi có thừa vốn tiền
tệ, còn có thể bỏ ra mua các loại chứng khoán ngắn hạn để kiếm lời .
2.3.2 Tổ chức tín dụng.

Đóng vai trò chủ lực, các tổ chức tín dụng tham gia thị trường tiền tệ
để duy trì khả năng thanh toán, hoặc tận dụng triệt để vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế để phục vụ cho mục đích kinh doanh.
2.3.3 Ngân hàng TW
6


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Ngân hàng TW tham gia thị trường tiền tệ với tư cách là người chỉ
đạo thị trường
2.3.4 Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Như quĩ đầu tư ,quĩ hưu trí,công ty bảo hiểm... Tham gia tích cực vào
thị trường này để tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua bán các giấy tờ
có giá ngắn hạn.
2.3.5 Các nhà môi giới chuyên nghiệp
Nhà môi giới với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các
giấy tờ có giá giữa các bên.
2.3.6 Các tổ chức phi tài chính
Các tổ chức phi tài như: Chính Phủ, chính quyền địa phương, các công
ty...Những người đã tạo hàng hoá cho thị trường như tín phiếu kho bạc,
thương phiếu, trái phiếu... Các chủ thể này tham gia vào thị trường với tư
cách là người đi vay thông qua việc phát hành các công cụ vay vốn ngắn
hạn.
2.4 Hàng hoá trên thị trường tiền tệ
2.4.1 Tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạclà giấy nợ do Chính Phủ phát hành với thời hạn 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng. Chúng có tính thanh khoản cao, được phát hành
dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc ghi sổ.
Tín phiếu kho bạc loại kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng đượng phát hành hàng

tuần, loại kỳ hạn 1 năm được phát hành hàng tháng. Vì vậy gần như có
một nguồn liên tục các tín phiếu kho bạc mới phát hành được trên thị
trường .

7


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Hình thức mua bán chủ yếu của tín phiếu kho bạc là Bộ tài chính bán
buôn cho ngân hàng TW, sau đó bán đấu giá lại cho các đơn vị dự thầu,
tiếp tục bán lại cho các nhà đầu tư.
Tín phiếu kho bạc là loại công cụ quan trọng nhất của thị trường tiền tệ,
nó có độ an toàn cao. Khối lượng tín phiếu kho bạc mỗi lần phát hành
thường rất lớn, song do có tính lỏng cao ,nên tín phiếu kho bạc rất hấp dẫn
với các nhà đầu tư.
2.4.2 Chứng chỉ tiền gửi
Chứng chỉ tiền gửi là công cụ do ngân hàng phát hành, được thanh toán
lãi theo định kì và thanh toán gốc khi đến hạn cho người sử dụng nó
2.4.3 Thương phiếu
Là chứng chỉ co giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một khoảng thời
gian nhất định. Thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu.
2.5 Hoạt động của thị trường tiền tệ
Hoạt động vay mượn giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín dụng
cũng như giữa các tổ chức tín dụng với nhau được tiến hành trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng .
2.5.1 Hoạt động tín dụng giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín dụng
Ngân hàng TW có thể cấp tín dụng cho các tổ chức tín dụng qua các
phương thức: Tái cấp vốn, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, cho vay có

đảm bảo bằng các giấy tờ có giá ngắn hạn...
2.5.2 Hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tín dụng
Các tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường để tìm nguồn tài trợ tạm
thời về vốn thiêú hụt hay tranh thủ kiếm lời trên số vốn tạm thời nhàn rỗi
trong khoảng thời gian ngắn.

8


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Khi thị trường tiền tệ ở trạng thái cân bằng, ngân háng TW xuất hiện
với tư cách là người tổ chức đơn thuần. Khi thị trường tiền tệ có biến động
,ngân hàng TW xuất hiện với tư cách người can thiệp thị trường thông qua
nghiệp vụ thị trường mở.
2.6 Vai trò của thị trường tiền tệ
2.6.1 Thị trường tiền tệ tạo môi trường sinh lời cho các pháp nhân và thể
nhân có tiền nhàn rỗi , đẩy nhanh vòng quay vốn, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế .
2.6.2 Thị trường tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng
điều chỉnh các phương tiện chi trả, đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong
những điều kiện nhất định của nền kinh tế .
2.6.3 Thị trường tiền tệ nơi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân
hàng TW. Bằng việc mua bán chứng khoán trên thị trường, ngân hàng TW
đã tác động đến khối lượng tiền cung ứng, dẫn đến làm gia tăng sức mua
hoặc thu hẹp sức mua của xã hội, kích thích tăng trưởng hoặc làm chậm đà
tăng trưởng của kinh tế .

II. Chính sách tiền tệ
1. Khái niệm và cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ

1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một hệ thống những quan điểm, giải pháp, những
cách thức mà NHTW thực hiện nhằm tác động tới cung ứng tiền trong nền
kinh tế và ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mà trong
đó NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và
điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm đặt được các mục tiêu về sản
lượng, giá cả và công ăn việc làm.

9


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
1.2. Cơ chế thực hiện.
Quá trình thực hiện chính sách tiền tệ bao giờ cũng diễn ra theo một
cơ chế nhất định. Trong cơ chế này, NHTW sẽ là người thiết kế và điều
hành chính sách tiền tệ. Một chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể
được thực hiện theo hai hướng.
1.2.1. Chính sách tiền tệ "nới lỏng" là chính sách nhằm tăng thêm khối
lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền trở nên dôì dào, lãi
suất hạ xuống từ đó kích thích tiêu dùng và đầu tư.
1.2.2. Chính sách tiền tệ "thắt chặt" là chính sách nhằm giảm khối lượng
tiền cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền tệ trở nên khan hiếm về số
lượng, lãi suất bị đẩy lên cao, tổng cầu giảm và do đó giá cả trên thị
trường giảm sút, lạm phát bị đẩy lùi.
2. Công cụ sử dụng trong chính sách tiền tệ
Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp mà Ngân
hàng Trung ương có thể sử dụng để tác động vào các mục tiêu của chính
sách tiền tệ.

Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương đã sử dụng
hàng loạt các công cụ như công công cụ tài cấp vốn, lãi suất tín dụng dự
trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở... Mỗi loại công cụ đều có cơ chế
tác động riêng và đem lại những kết quả trên những khía cạnh khác nhau.
Tuy nhiên các công cụ này đều nhằm ảnh hưởng trực tiếp hany gián tiếp
đến lượng tiền cung ứngvà lãi suất để từ đó đạt được các mục tiêu của
chính sách tiền tệ.
2. 1. Công cụ trực tiếp:
Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượngvà Ngân hàng Trung
ương kiểm soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi Ngân hàng Trung

10


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
ương sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động vào mục tiêu trung gian, từ
mục tiêu trung gian đã tác động đến tổng cầu.
2.1.1. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương
buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín dụng cho nền
kinh tế.
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp
này cho phép Ngân hàng Trung ương ấn định trước khối lượng tín dụng
phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm
con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Việc quy định hạn mức tín dụng thường được Ngân hàng Trung ương
sử dụng khi nền kinh tế có nhiều biến động để kiểm soát khối lượng tiền
trong lưu thông đảm bảo cho sự bình ổn của tiền tệ, giá cả. Hạn mức tín
dụng sé phát huy được tác dụng trong điều kiện có lạm phát. Song trong

nền kinh tế thị trường, cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện
pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ của các Ngân hàng
thương mại, từ đó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì
mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương
mại thì tương ứng với nó là một lượng nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó
ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi
Ngân hàng Trung ương tăng hạn mức tín dụng dẫn đến tăng khả năng tạo
tiền qua hệ thống Ngân hàng, do đó làm tăng lượng tiền cung ứng và
ngược lại. Hạn mức tín dụng tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ nên tác
động vào lượng tiền cung ứng.
2.1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay.

11


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Ngân hàng Trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho
vay buộc các Ngân hàng kinh doanh phải thi hành.
Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng
nguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh
tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho Ngân hàng thương mại mất tính
chủ động linh hoạt trong kinh doanh.
Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức
lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn khi cần hạn chế đầu
tư, Ngân hàng Trung ương ấn định mức lãi suất cao.
2. 2. Các công cụ gián tiếp.
Công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của nó được là nhờ cơ
chế thị trường (Hay công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác

động vào mục tiêu trung gian thông qua việc điều chỉnh các mục tiêu cuối
cùng.
2.2.1. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng giử tại Ngân hàng
Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định
bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tuy theo tính
chất và thời hạn mà các tổ chức tín dụng huy động được.
Dự tữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự tứ bắt
buộc do Ngân hàng Trung ương quy định bằng việc tăng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho
vay và đầu tư của Ngân hàng thương mại, từ đó giảm lượng
tiền trong lưu thông, góp phần giảm cầu tiền để cân bằng
với sự giảm cung xã hội. Như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng
cao mức độ an toàn trong hoát động của các Ngân hàng
thương mại càng cao, tuy nhiên nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc
12


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các Ngân hàng thương
mại mất khả năng tạo tiền - một khả năng cần có của Ngân
hàng. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả
năng mở rộng cho vay của Ngân hàng thương mại sẽ tăng
lên, đẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp
phần tăng cung xã hội để có thể cân đối tăng cầu về tiền.
2.2.2. Lãi suất tài chiết khấu.
Chính sách tài chiết khấu thể hiện qua việc Ngân hàng Trung ương
cung ứng vốn tín dụng cho Ngân hàng thương mại. Chính sách tài chiết
khấu được thực hiện thông qua các cửa sổ chiết khấu. Ngân hàng Trung

ương áp dụng lãi suất chiêt khấu và qui định các điều kiện để tài chiết
khấu cho các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách tài chiết khấu: Là lãi suất
mà Ngân hàng Trung ương áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá
của Ngân hàng thương mại. Đây là loại cho vay có đảm bảo.
Lãi suất tài chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tài
chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu tư của Ngân hàng
thương mại, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, thu hẹp khả
năng cho vay của Ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và
ngược lại. Việc tăng lãi suất tài chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo,
nhà kinh doanh sẽ biết tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua
chính sách chiết khấu tối thị trường. Người đầu tư giám sát sự thông báo
lãi suất của Ngân hàng Trung ương để dự tính được xu hướng thay đổi lãi
suất để tìm biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn làm thay đổi tiền gửi và lãi
xuất cho vay đồng thời tác động giá chứng khoán.
Đi kèm với lãi suất tài chiết khấu Ngân hàng Trung ương còn qui
định hạn mức tài chiết khấu tức là qui định cho vay tối đa trên cơ sở lãi

13


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
suất đã qui định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các tổ chức tín dụng
vay của Ngân hàng Trung ương. Đồng thời Ngân hàng Trung ương còn
qui định các tiêu chuẩn thể hiện tài chiết khấu như về thời hạn về thể loại
giấy tờ có giá, chất lượng giấy tờ có giá, và uy tín của tổ chức tín dụng khi
vay vốn của Ngân hàng Trung ương.
2.2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đố người ta thực hiện việc

mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách
tiền tệ cả về mặt giá và lượng.
Về mặt lượng: Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ
của Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện việc
mua chứng từ có giá trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của Ngân hàng
thương mại tăng lên và khi Ngân hàng Trung ương bán các chứng từ có
giá trên thị trường mở dẫn đến dự trữ của Ngân hàng thương mại giảm đi.
Như vậy khi Ngân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở
nó sẽ tác động vào dự trữ của Ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến
khối lượng tiền cung ứng.
Về mặt giá: Khi Ngân hàng Trung ương mua các giấy tờ có giá sẽ làm
tăng dự trữ của Ngân hàng thương mại , cung vốn tín dụng cũng tăng lên.
Điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn làm lãi suất ngắn hạncó xu
hướng giảm xuống và tác đôngj vào lãi suất có kỳ hạn giảm xuống. Bên
cạnh đó Ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị
trường mở sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá, đẫn
đến có sự chuyển dịch vốn đầu tư làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường,
tác động vào cung cầu vốn trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền
cung ứng.

14


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện mua, bán các chứng từ có giá
trên thị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ cá giá và khi Ngân
hàng Trung ương thực hiện can thiệp vào giá cả của các chứng từ có khối
lượng chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò can thiệp của Ngân hàng Trung ương

càng có ý nghĩa quan trọng tác động vào lượng tiền cung ứng.

15


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
CHƯƠNG 2
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM

I. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ chính sách tiền
tệ những năm qua ở VN.
1. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM).
NVTTM bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động nhất định tới
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trường, đa
dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp
giữa thị trường liên ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán
(TTCK) trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động của NVTTM được ban hành theo quyết định số
85/2000/QD - NHNN 14 ngày 09/3/2000.Qua nửa năm hoạt động,
NVTTM đã góp phần khắc phục khó khăn bước đầu trong thời vận hành.
Thành viên tham gia NVTTM là các TCTD và NHNN, bao gồm 15
thành viên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam , Ngân hàng công thương Việt Nam,
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân hàng CHINFON, NHTM cổ phần
Sài Gòn Thương Tín, NHTM cổ phần Quốc tế, NHTM cổ phần Phương
Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, NHTM cổ
phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty tài
chính bưu điện.Tuy chưa phải là nhiều song số lượng các TCTD này đã

đại diện cho các TCTD hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số
thành viên tham gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành
viên dự thầu, thấp nhất là một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh
tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các TCTD khác hầu như
chưa tham gia dự thầu. Khối lượng giao dịch qua NVTTM từ 12/07/2000
16


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
đến ngày 15/11/2000 của Ngân hàng công thương Việt Nam là 810,420 tỷ
đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là 228,020 tỷ đồng, Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ
có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ
có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN được mua bán. Tín phiếu NHNN
được mua bán nhiều nhất với số lượng 1.070 tỷ/1.448.500 tỷ đồng. Tín
phiếu kho bạc Nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi
đến hạn thanh toán. Như vậy hàng hoá ở thị trướng mở là khá đơn diệu và
chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh.
Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng
phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ
hạn đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít được
thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi . Tính
đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở hình thức mua hẳn ở 13 phiên
giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là 418,50 tỷ đồng,
doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phương thức đấu thầu thường là đấu
thầu lãi suất .
2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu.
Lãi suất tái triết khấu là một công cụ quan trọng giúp NHTƯ thực hiện

CSTT. Nhưng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam những năm vừa qua
còn đang ở trạng thái giản đơn do các phương tiện làm căn cứ để NHNN
thực hiện cho vay triết khấu còn chưa hoàn thiện (đó là các thương phiếu,
hối phiếu).
Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN luôn luôn điều chỉnh lãi suất
cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. Có
thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay triết
17


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHNN
Việt Nam.
Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm vừa
qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả năng
huy động vốn trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều. Cụ thể: Trong năm
1997, lãi suất triết khấu được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn
biến của nền kinh tế. Từ tháng 03 đến tháng 07/1997: mức lãi suất triết
khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi suất triết khấu quy định là
0,9%/tháng. Năm 1998, NHNH quyết định tăng lãi suất cho vay triết khấu
lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho vay chiết
khấu đối với các NHTM lần1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2 còn
0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày
02/08/2000, quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ
chế điều hành theo lãi suất cơ bản đã được ban hành và trên cơ sở đó các
NHTM được chủ động quy định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền
gửi

xoay


quanh

mức

lãi

suất



bản. Trong

những

tháng

08,09,10,11,12/2000, lãi suất cơ bản đối với nội tệ (đồng VN) vẫn giữ
nguyên ở mức 0,75 %/tháng nhưng lãi suất tái triết khấu tăng từ 0,40%
lên 0,45%tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN được điều chỉnh
từ 0,4% lên 0,5%.
3. Công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc( DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để
điều hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng (ban hành
năm1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy
động của các NHTM. Xong xét hoàn cảnh thực tế bấy giờ: tiềm lực của
các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức
đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ DTBB đối với các NHTM ở nước
ta là mức 10%. Song trong thời gian gần đây NHNN cũng liên tục giảm tỷ
18



TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
lệ DTBB đối với các TCTD với mong muốn khuyến khích đầu tư, thúc
đẩy tăng trưởng.
4. Công cụ hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng được NHNN áp dụng để điều hành CSTT
trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để
điều hành CSTT chưa phát huy đầy đủ hiệu quả.Việc đưa ra và áp dụng
công cụ này trong những năm qua đã có những kết quả nhất định, chứng
tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam những năm đầu
chuyển sang kinh tế thị trường.
Chẳng hạn, do lạm phát những năm 1990-1991 còn ở tỷ lệ cao, để
khống chế lạm phát, NHNN chủ trương giảm bớt lượng tiền cung ứng hạn
mức tín dụng đối với tất cả NHTM là 34,5% (năm1992) và đã đạt được
kết quả thực tế rất khả quan là mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so
với dự kiến, mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều tiền tệ dần đi vào ổn
định. Những năm sau đó, để kiểm soát lạm phát, NHNN cũng đưa ra tỷ lệ
hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Nhưng tình hình thực
tế có khác đó là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt quá chỉ tiêu hạn
mức tín dụng theo kế hoạch đã được giao. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến
nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn
chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng
tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo thêm những nhân tố khó
khăn cho các NHTM trong việc mở rộng tín dụng. Vì vậy, từ quý II năm
1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường
xuyên để điều hành CSTT.
5. Công cụ lãi suất.


19


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Ở Việt Nam lãi suất được sử dụng như công cụ của CSTT. Đặc biệt
những năm gần đây, việc điều chỉnh lãi suất theo hướng từng bước nới
lỏng của NHNN được coi như một đối sách nhạy bén trước những thay
đổi của cung - cầu về tiền tệ.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, năm 1989, NHNN thực hiện
một cơ cấu kiểm soát lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phức tạp, ấn định
các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay cụ thể theo đối tượng, nghành
nghề kinh tế và kỳ hạn vay mượn.
Năm 1990, cơ chế lãi suất trần tín dụng và sàn tiền gửi đã được áp
dụng, nhưng vẫn được phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng.
Kể từ năm 1993, NHNN đã bỏ hẳn hình thức lãi suất theo nghành,
chỉ quy định các mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng vào
thời gian này, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được thí điểm áp dụng đối với
nguồn vốn hình thành do phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Trên thị trường,
vì cầu tín dụng cao hơn cung nên lãi suất cho vay đã được đẩy lên rất cao
và cơ chế lãi suất thoả thuận đã bị loại bỏ.
Bắt đầu 01/01/1996, NHNN thực thi chính sách trần lãi suất, tín dụng
và quản lý chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra (bỏ việc điều
tiết trực tiếp lãi suất tiền gửi). Cũng vào thời gian này, chế độ thuế doanh
thu đánh vào hoạt động tín dụng bị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính
được điều chỉnh giảm mạnh, nên trần lãi suất tín dụng cũng đã được điều
chỉnh giảm mạnh. Lãi suất tín dụng trung và dài hạn lần đầu tiên đã đuợc
điều chỉnh cao hơn lãi tín dụng ngắn hạn.
Năm 1998 là năm tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi thông qua xoá

bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra, NHNN chỉ quản lý duy
nhất trần lãi suất tín dụng. Cuối năm 1998, lãi suất cho vay ngắn hạn giảm
xuống còn 1,1%/tháng; cho vay trung hạn, dài hạn còn 1,15%/tháng.

20


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Sau mấy tháng đầu năm 1999, thống đốc NHNN đã ban hành quyết
định số 198/1999/QD-NHNN 1 điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay
ngắn, trung và dài hạn được thống nhất ở mức chung là 1,15%/tháng,
được áp dụng chung cho các NHTM ở cả thành thị và nông thôn. Đến
tháng 10/1999, trần lãi suất cho vay bằng VND của các NHTM được quy
định ở mức chung là 1,05%/tháng.
Vào năm 2000, việc kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ cũng đã
được xoá bỏ. Ngày 05/08/2000, NHNN đã chính thức chuyển sang cơ chế
điều hành theo lãi suất cơ bản, các NHTM được chủ động quy định các
mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi
suất cơ bản, trên cơ sơ đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi.
Theo cơ chế mới hàng tháng, NHNN công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất
tái cấp vốn và lãi suất tái triết khấu.
Trong tất cả các tháng 08,09,10,11 và 12/2000, lãi suất cơ bản đối với
tiền VNĐ vẫn liên tục giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng với biên độ 0,3%
đôí với cho vay ngắn hạn, 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất
cho vay ngoại tệ (USD) được xác định trên cơ sở lãi suất SiBor kỳ hạn 3
tháng cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn; 2,5% đối với cho
vay trung và dài hạn.
Trong các tháng cuối năm 2000, nhu cầu vốn tăng lên, sức ép tăng lãi
suất rất lớn, các NHTM cạnh tranh nhau đồng loạt tăng lãi suất huy động

vốn lên một giới hạn nhất định, còn lãi suất cho vay thì hầu như không
tăng, mức lãi suất tiền gửi VNĐ cao nhất của kỳ hạn 12 tháng ở các
NHTM cổ phần lên tới 0,6-0,65%/tháng; kỳ hạn 6 tháng: 0,4 0,55%/tháng. Tiền gửi USD kỳ hạn 12 tháng phổ biến ở các Ngân hàng là
5,5% - 6,0%/năm.

21


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Như vậy, hiện tại lãi suất cho vay nội tệ (VNĐ) hiện nay ở Việt Nam
7,5% - 10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và lãi suất cơ bản là
0,75%/tháng (bắt đầu từ tháng 3/2001).

22


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«

CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP TẠO ĐIỀU KIỆN NHẤT ĐỊNH CHO VIỆC
TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT

I. Khái niệm về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chế điều hành chính sách lãi
suất và sử dụng công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ.
Như phần đầu của chuyên đề ra nêu ra ,NHTW có thể tác động vào
lãi suất theo trong hai cách sau:
* Dùng qui định hành chính.

* Dùng tác động kinh tế .
Ở nhiều nước, NHTW đã không còn quản lý lãi suất bằng các công
cụ hành chính mà chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của
NHTW đối với ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ
thống tài chính ngân hàng quốc tế, quan điểm về điều hành chính sách lãi
suất theo cơ chế tự do hoá lãi suất tác động bằng công cụ thị trường tới lãi
suất như của:Anh, Mỹ là mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới. Tự do
hoá lãi suất - hạt nhân của tự do hoá tài chính -là để cho lãi suất tự hình
thành thị trườngtrên cơ sở: cung cầu về vốn; mức tiết kiệm; thu nhập và
chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác; loại bỏ những áp đặt mang
tính hành chính nên quá trình hình thành lãi suất; cho phép các tổ chức tín
dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất. NHTW chỉ gián tiếp tác
động lên lãi suất thông qua các công cụ có tính định hướng, dấu hiệu cho
thị trường là các công cụ công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở,
hợp đồng mua lại và dự trữ bắt buộc.

23


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một
cách cứng nhắc thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm
mất đi những tính năng ưu việt của lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế
kiểm soát lãi suất trực tiếp.
Làn sóng tự do hóa lãi suất bắt đầu vào những thập kỷ 80- 90.Vậy
nguyên nhân từ đâu ?

II. Những cản trở đối với việc tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
Quá trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách

lãi suất tiệm cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá
buộc Việt Nam phải chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời
điểm này, đề án tự do hoá lãi suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu
tố sau:
Thứ nhất, cũng như các nước đang phát triển bước đầu chuyển sang cơ
chế thi trường, Việt Nam sẽ gặp những hạn chế chung như các kinh
nghiệm của các nước đã được đề cập ở chương I của chuyên đề này. Đó là
những khó khăn cơ bản nên ngay bây giờ khi các điều kiện tiền đề chưa
cho phép nếu chúng ta thực hiện tự do hoá lãi suất thì tổn hại cho nền kinh
tế sẽ rất nghiêm trọng. Ngoài ra, Việt Nam còn có những khó khăn đặc
thù riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng Việt Nam cho thấy khả năng chống đỡ
của khu vực sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi xuất thực rất thấp, tính
thụ động của hệ thống Ngân hàng đối với môi trường kinh tế còn ở mức
cao trong một cơ chế lãi suất mở - chỉ có trần lãi suất tín dụng - nhưng hầu
như các tổ chức tín dụng vẫn không tự điều chỉnh lãi suất kinh doanh theo
diễn biến giảm phát liên tục của nền kinh tế năm 1999, mà thường chỉ điều
chỉnh khi Ngân hàng nhà nước can thiệp và hầu như cho vay ở mức kịch
trần, thậm chí còn vượt trần bằng cách tăng các chi phí lãi suất. Trong khi

24


TiÓu
luËn kinh tÕ vÜ m«
đó, việc nới lỏng dần hoạt động quản lí lãi suất hướng tới tự do hoá có
khuynh hướng làm tăng lãi suất thực trong nước, khiến luồng vốn quốc tế
đổ vào. Đồng nội tệ bị lên giá cộng với gánh nặng lãi suất sẽ gây khó khăn
cho khu vực doanh nghiệp và khu vực Ngân hàng và sự chạy trốn của các
luồng tư bản là kết quả cuối cùng của quá trình này nếu sự tự do hoá tài

khoản vốn được thực hiện.
Thứ ba, thị trường tài chính của nước ta - nơi mà từ đó lãi suất thị
trường được hình thành và là nơi điều tiết vốn - còn kém phát triển. Thị
trường tiền tệ vẫn trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai.
Tham khảo một số tài liệu của IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho
Việt Nam ( giai đoạn 2) qua mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu
tài chính ( Financial deeping ) của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn
thấp. Chỉ số M2/GDP chỉ là 12,5% so với mức bình quân trên 60% của
nhiều nước đang phát triển; chỉ số Mo/tiền gửi Ngân hàng còn cao là
61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng 12% - có
nghĩa là trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (Monetization) ( điều
quyết định kích cỡ thị trường tiền tệ ) còn rất thấp thì chủng loại "hàng
hoá" cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ ( liên quan đến kết cấu tiền tệ, bán tiền
tệ, các công cụ tiền tệ ngắn hạn ... ) còn hết sức nghèo nàn, phương thức
giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của thị
trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành
một cách hết sức khó khăn diễn ra không bình thường.
Thị trường vốn, mới hình thành một trung t(c)m giao dịch chứng
khoán ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2000. lưu lượng vốn giao
dịch theo thống kê đến tháng 1 năm 2001 mới có 40 tỷ đồng Việt Nam.
Tình trạng đóng băng của trung tâm này thời gian gần đây cùng với sự
nghèo nàn hàng hoá niêm yết chưa cho phép nó trở thành một cửa ngõ
quan trọng để các doanh nghiệp có thể huy động được vốn.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×