Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận chính sách công doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.85 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đời
sống kinh tế - xã hội thay đổi ngày một nhanh chóng. Bên cạnh đó, quá trình hội
nhập và toàn cầu hóa cũng như cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới
đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
người dân. Xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội và trình độ dân trí ngày càng
cao đã đặt ra đòi hỏi ngày càng lớn đối với Nhà nước. Đồng thời, các biến động
lớn về môi trường, tài nguyên, dân số…đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi Nhà
nước phải xây dựng và ban hành các chính sách công để giải quyết. Các chính
sách được nhà nước ban hành trong thời gian qua đã tác động tích cực đến đời
sống kinh tế - xã hội, giải quyết nhiều vấn đề bức thiết, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân...
Ở nước ta, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà
nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước; là sự cụ thể
hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng; được thể chế
hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo căn cứ pháp lý cho việc thi
hành, song nó bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc,
mà có tính định hướng, kích thích phát triển.
Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính
sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực hiện cần
tiến hành đánh giá chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách cho phù hợp.
Hoạch định chính sách được coi như là bước khởi đầu trong chu trình chính
sách, đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa
học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc
sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách
không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong
muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ, mà
nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau,...
Từ những lý do trên, em xin được phân tích những nội dung cơ bản về quy
trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam và chỉ ra ưu, nhược điểm của
nó. Một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng này của tiểu luận học phần


hoạch định và thực thi chính sách công.


NỘI DUNG
I. QUY TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
Hoạch định chính sách có thể hiểu là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây
dựng và ban hành đầy đủ một chính sách. Hoạch định chính sách là khâu quan
trọng của chu trình chính sách: khởi sự, hoạch định, thực thi và đánh giá chính
sách. Tuy nhiên, hoạch định chính sách công nằm ở đâu trong chu trình chính
sách là vấn đề cần được làm rõ. Hoạch định chính sách thực hiện theo quy trình
được quy định bởi từng quốc gia. Quy trình hoạch định chính sách là một tập
hợp các bước cần phải thực hiện và được sắp xếp theo một trình tự xác định khi
thiết kế chính sách. Đồng thời chỉ ra các công việc phải thực hiện, thứ tự các
công việc phải làm và chủ thể thực hiện ở từng khâu, từng bước khi tiến hành
hoạch định chính sách công. Chu trình hoạch định chính sách của các nước nhìn
chung là giống nhau, tuy nhiên quy trình hoạch định chính sách có khác nhau.
Hoạch định chính sách nó có vị trí quan trọng trong chu trình chính sách
và là điểm khởi đầu trong tiến trình chính sách. Chính sách được ban hành có
đảm bảo các yêu cầu, tiêu chuẩn của một chính sách tốt hay không đều bắt đầu
từ khâu hoạch định chính sách. Quy trình Hoạch định chính sách công ở Việt
Nam được dựa trên những căn cứ và các bước thực hiện cơ bản sau:
1. Các căn cứ hoạch định chính sách công
1.1. Căn cứ vào định hướng chính trị
Dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền, các nhà nước quản lý xã hội phát
triển theo mục tiêu định hướng. Đường lối phát triển xã hội của đảng cầm quyền
là căn cứ để nhà nước đề ra các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong
dài hạn và ngắn hạn. Mục tiêu định hướng cho các thời kỳ là những giá trị về
lượng và chất của đời sống theo nhu cầu xã hội như thu nhập bình quân đầu
người của một quốc gia, xây dựng một nền kinh tế tri thức, một xã hội công
nghiệp... Để đạt được những mục tiêu đề ra, nhà nước phải sử dụng các công cụ

vĩ mô để quản lý, điều hành các đối tượng vận động theo định hướng. Trong
hàng loạt công cụ quản lý thường dùng thì chính sách công tỏ ra là công cụ đắc
lực nhất của các nhà nước, vì thế mục tiêu chính sách cũng là mục tiêu quản lý 2
nhà nước trong từng thời kỳ. Như vậy, có nghĩa là mục tiêu chính sách phải xuất
phát từ đường lối phát triển của chế độ xã hội do đảng cầm quyền khởi xướng.
Đường lối phát triển của một chế độ xã hội do đảng cầm quyền lựa chọn là ổn
định, lâu dài. Tính ổn định của đường lối sẽ tạo ra sự thống nhất trong quá trình

2


vận hành xã hội theo quy luật, hạn chế hoặc loại bỏ được những biến cố phát
sinh trái quy luật làm tổn hại đến đời sống nhân dân, giúp cho xã hội có những
bước đi vững chắc trên con đường phát triển. Quá trình đi đến mục tiêu phát
triển chung theo đường lối của đảng cầm quyền cần phải có thời gian đủ để các
yếu tố kinh tế, xã hội tồn tại vận động từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện theo yêu cầu xã hội. Thời gian để làm thay đổi trạng thái xã hội từ
mức độ này sang mức độ khác thường mất khoảng 10-15 năm, đó là khoảng thời
gian để các yếu tố tích tụ về lượng trong quá trình vận động đủ để thay đổi được
về chất. Cùng với sự vận động phát triển của các yếu tố kinh tế - xã hội, nhận
thức của các tầng lớp nhân dân trong xã hội cũng không ngừng được nâng cao,
vì thế mà mục tiêu và biện pháp quản lý phát triển do chủ thể đề xướng ngày
càng đầy đủ, hoàn thiện. Tính toàn diện, hợp quy luật từ ý thức giai cấp đến
hành vi ứng xử của chủ thể đối với diễn biến trong thực tế hiện tại và tương lai
chính là quan điểm phát triển của chủ thể. Quan điểm phát triển có thể thay đổi
giữa các thời kỳ tuỳ theo nhận thức của người lãnh đạo, trong khi đường lối phát
triển thì ổn định, ít thay đổi. Như vậy, việc hoạch định chính sách phát triển của
nhà nước trong từng thời kỳ ngoài việc căn cứ vào đường lối chính trị còn phải
dựa vào quan điểm phát triển của đảng cầm quyền trong thời kỳ đó.
1.2. Căn cứ vào năng lực thực tế của chủ thể tham gia thực hiện chính

sách công
Tính khả thi của chính sách công tùy thuộc rất lớn vào ý thức chấp hành
nghiêm túc hay không của các chủ thể tham gia thực hiện chính sách, thậm chí
đây còn là yếu tố ảnh hưởng quyết định đến tính khả thi của một chính sách.
Chủ thể tham gia thực hiện chính sách công bao gồm các tổ chức trong hệ thống
chính trị, tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp nhân dân có cùng nguyện vọng
phát triển vì mục tiêu chung, trong đó bao gồm cả người thụ hưởng lợi ích từ
thực hiện chính sách. Kết quả thực hiện chính sách công của các chủ thể chịu
ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố trực tiếp, quan trọng nhất là trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của từng nhóm chủ thế. Nếu chủ thể tham gia thực hiện 3
chính sách công có trình độ dân trí cao, họ sẽ nhận thức một cách đầy đủ mục
tiêu chính sách để chủ động, tự giác thực hiện. Ngoài đó ra, họ không những có
năng lực vận dụng linh hoạt các biện pháp định hướng của chính sách, mà còn
sáng tạo, tìm kiếm các biện pháp hiệu quả hơn. Vì vậy, khi hoạch định chính
sách công, nhà lãnh đạo nhất thiết phải căn cứ vào trình độ, nhận thức của các
chủ thể tham gia thực hiện để xác định mục tiêu và biện pháp chính sách cho
thích hợp. Để giảm bớt tính phức tạp của chính sách công với các chủ thể tham

3


gia thực hiện, trước hết phải xác định rõ ràng, cụ thể mục tiêu và biện pháp
chính sách để người dân không thể hiểu sai về bản chất các yếu tố cấu thành
chính sách.
1.3. Căn cứ vào tình trạng pháp luật trong xã hội
Chính sách và pháp luật đều là những công cụ quan trọng để nhà nước
quản lý xã hội. Mỗi công cụ đều có tính năng, tác dụng nhất định, nhưng khi sử
dụng lại phải phối hợp các công cụ để hỗ trợ cho nhau mới phát huy tác dụng
của mỗi loại nhằm đạt hiệu quả cao đối với quản lý phát triển kinh tế - xã hội.
Trong hệ thống công cụ quản lý vĩ mô thì chính sách và pháp luật có mối quan

hệ khá đặc biệt, chúng vừa làm cơ sở cho nhau, vừa thúc đẩy nhau phát triển.
Chính sách là công cụ định hướng của các nhà nước nhằm dẫn dắt các chủ thể
trong xã hội hành động hướng đến những mục tiêu chính trị. Pháp luật là công
cụ điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể để bắt buộc họ phải chấp hành
những quy tắc khi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội phù hợp theo định
hướng chính trị. Tình trạng pháp luật của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạch định và thực thi chính sách công. Tình trạng này được hiểu là thực
trạng về số lượng, chất lượng của hệ thống pháp luật hiện có so với yêu cầu phát
triển xã hội và ý thức tuân thủ pháp luật của tổ chức, công dân. Nếu tình hình
pháp luật, pháp chế của xã hội là tốt thì mục tiêu của chính sách công có thể
nhận được sự ủng hộ cao của các chủ thể do có sự ổn định về nếp sống và làm
việc của mỗi người trong xã hội, phù hợp với định hướng chính trị. Để hiện thực
hóa mục tiêu chính sách công, nhà nước chỉ cần xây dựng những biện pháp mềm
dẻo nhưng vẫn có tính khả thi cao. Như vậy, các nhà nước cần dựa vào tình
trạng pháp luật trong một thời kỳ nhất định để hoạch định chính sách công, nhất
là lựa chọn biện pháp chính sách cho thích hợp, hiệu quả.
1.4. Căn cứ vào môi trường tồn tại của chính sách công
Sau khi hoạch định, chính sách công sẽ được tổ chức thực thi. Kết quả
đem lại của mỗi chính sách bị chi phối khá lớn bởi môi trường mà nó tồn tại.
Trong một quốc gia, các chính sách công phải tồn tại với môi trường phong phú,
đa dạng, bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tự nhiên, quốc
tế... Các môi trường này lại biến động không đều nhau trong từng thời kỳ phát
triển, chúng đan xen vào nhau tác động phức tạp đến sự tồn tại của chính sách.
Trong môi trường xã hội lành mạnh có trình độ dân trí cao, đời sống dân cư tốt,
tập quán sinh sống văn minh, truyền thống dân tộc thống nhất và có nền dân chủ
phát triển thì các chính sách sẽ đi vào đời sống được thuận lợi và nhanh chóng

4



phát huy tác dụng. Tuy vậy, nếu xã hội đó lại đặt vào một môi trường quốc tế
không thuận lợi như chiến tranh hay diễn biến hoà bình phức tạp thì chính sách
lại phải mang tính khu vực và quốc tế mới có thể tồn tại trong đời sống xã hội.
Nếu môi trường quốc tế thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia có nhiều cơ
hội phát triển và ngược lại. Vì thế các nhà hoạch định chính sách công phải căn
cứ vào môi trường tồn tại trong thực tế và tương lai để xây dựng những chính
sách phù hợp trong từng giai đoạn phát triển. Những căn cứ trên đây được coi là
cơ sở khoa học để nhà nước nghiên cứu, ban hành chính sách công trong từng
giai đoạn.
2. Các bước hoạch định chính sách công
2.1. Phân tích bối cảnh hoạch định chính sách công
Chính sách là một công cụ trong hệ thống các công cụ của nhà nước dùng
để quản lý xã hội, vì thế chính sách chỉ giải quyết được một số vấn đề trong
hàng loạt vấn đề nảy sinh, vì vậy không phải lúc nào nhà nước cũng ban hành
chính sách. Thậm chí khi nhà nước không ban hành chính sách, nhưng quá trình
hoạt động xã hội làm nảy sinh các biến cô phù hợp với ý chí chính trị của nhà
nước cũng được coi như đã hoạch định chính sách công đối với hoạt động xã hội
này. Theo công dụng của chính sách và điều kiện ra đời chính sách, chúng ta
thấy việc ban hành chính sách công phải được cân nhắc thận trọng để vừa bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, vừa không làm ảnh hưởng đến các công
cụ quản lý khác nhằm củng cố lòng tin của người dân vào nhà nước. 5 Bối cảnh
hoạch định chính sách công bao gồm các yếu tố bên trong hệ thống nhà nước và
bên ngoài xã hội ảnh hưởng đến nhu cầu, nguyện vọng về phát triển bền vững
kinh tế - xã hội của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp dân cư. Thực trạng vận
động của các yếu tố đó ngoài việc gây ảnh hưởng thuận lợi hay khó khăn cho
quá trình hoạch định chính sách công, còn làm xuất hiện những thời cơ và thách
thức đối với quá trình này. Những yếu tố này liên tục vận động theo nhiều
phương, chiều khác nhau, thậm chí còn chuyển hóa cho nhau một cách phức tạp.
Muốn xác định đúng mức độ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố môi trường đến
mục tiêu phát triển, chủ thể quản lý phải thường xuyên phân tích bối cảnh kinh

tế, xã hội. Kết quả việc làm này cho thấy được nguồn gốc phát sinh những vấn
đề cần được giải quyết bằng chính sách; mức độ quan trọng của vấn đề; những
yếu tố liên quan đến giải quyết vấn đề... Từ đó các chủ thể xây dựng thành kịch
bản giải quyết vấn đề làm cơ sở cho hoạch định chính sách công. Tính chất vấn
đề của chính sách công thường được xem xét dưới các góc độ chính như: (1)

5


tính bức xúc của vấn đề chính sách công đối với đời sống xã hội. (2) tính phức
tạp của vấn đề chính sách công. (3) tính quan trọng của vấn đề chính sách
công...
2.2. Hình thành ý tưởng về chính sách công
Ý tưởng chính sách như là một sáng kiến về định hướng giải quyết vấn đề
chính sách công trên thực tế. Sau khi phân tích môi trường chính sách, ngoài
việc tìm thấy vấn đề chính sách, các chủ thể còn xác định được thái độ chính trị
của nhà nước đối với vấn đề chính sách công. Nếu thật sự vấn đề cần phải giải
quyết bằng chính sách thì ý tưởng chính sách sẽ được tiếp diễn. Tuy nhiên, sự
tiếp diễn ý tưởng chính sách còn phải cân nhắc xem khả năng giải quyết vấn đề
đến đâu. Khả năng này bao gồm cả nhà nước và xã hội trong việc huy động
nguồn lực thực có và tiềm tàng. Không những thế, ý tưởng chính sách cũng phải
đặt lên “bàn cân” về tính hiệu quả. Bởi nếu giải quyết vấn đề bằng mọi giá cũng
chưa phải là một ý tưởng chính sách công tốt. 6
2.3. Dự thảo các phương án giải quyết vấn đề chính sách công
Dự thảo các phương án giải quyết vấn đề chính sách công nhằm cho ra đời
những kịch bản chính sách công để các cơ quan có thẩm quyền làm căn cứ tiến
hành hoạch định chính sách. Do hoạt động kinh tế - xã hội chịu tác động của
nhiều quy luật khách quan nên trong thực tế người ta có thể giải quyết các vấn
đề chính sách công bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ, muốn nâng cao thu nhập
bình quân đầu người để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân, nhà

nước có thể đưa ra biện pháp khuyến khích đầu tư để đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, nhưng cũng có thể sử dụng các biện pháp hạn chế tốc độ tăng
dân số trong điều kiện hữu hạn về tăng trưởng kinh tế và cũng có thể sử dụng
đồng thời các biện pháp trên. Để chính thức lựa chọn cách thức tác động nào
trên đây, nhà nước phải ban hành một chính sách công. Như vậy, có thể thấy
việc dự thảo các kịch bản chính sách công là tất yếu khách quan. Mỗi phương án
đều thể hiện một cách ứng xử của nhà nước với các vấn đề kinh tế - xã hội bao
gồm mục tiêu cần đạt được là nâng cao đời sống người dân và cách thức đạt mục
tiêu là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay kiềm chế tốc độ tăng dân số bằng cơ chế
quản lý, bằng nguồn lực kinh tế, xã hội hay bằng mệnh lệnh hành chính. Với ý
nghĩa này, khi dự thảo kịch bản chính sách công cần đưa ra nhiều phương án
khác nhau để cả chủ thể ban hành và chủ thể tham gia thực thi chính sách công
có điều kiện lựa chọn một phương án tốt nhất. Cũng cần biết rằng, quy mô, trình
độ của mục tiêu và biện pháp trong các kịch bản chính sách công là không giống

6


nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Biết điều này để tạo nên sự độc lập giữa các
nhà xây dựng kịch bản chính sách công nhằm bảo đảm tính khách quan, khoa
học của mỗi phương án dự thảo.
2.4. Lựa chọn phương án tối ưu
Lựa chọn phương án chính sách là bước tiếp theo của dự thảo chính sách
nhằm xác định được kịch bản tối ưu trong số các kịch bản chính sách xây dựng.
Khi lựa chọn kịch bản chính sách công cần dựa vào các tiêu chuẩn của một
chính sách tốt để xem xét, đồng thời cũng kiểm tra, đánh giá các căn cứ khoa
học được dùng khi xây dựng phương án chính sách và nghiên cứu phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến mô hình chính sách nếu được triển khai thực hiện. Việc
xem xét trên đây có thể được thực hiện bằng cách cho điểm từng nội dung rồi
tổng hợp lại, hay cũng có thể sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp thay 7

thế, phương pháp loại trừ... từ đó có được một quyết định đúng đắn nhất. Để lựa
chọn được phương án chính sách công tối ưu không nên chỉ dừng lại ở cấp
hoạch định, mà cần mở rộng đến các đối tượng thực thi chính sách để vừa bảo
đảm tính khách quan, vừa tạo nên sự đồng thuận giữa chủ thể và khách thể trong
quá trình lựa chọn.
2.5. Hoàn thiện phương án lựa chọn công
Phương án lựa chọn mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của một
chính sách, còn cần phải bổ sung, hoàn thiện về nội dung theo yêu cầu của cả
chủ thể và đối tượng chính sách. Phương án dự thảo chính sách công mới chỉ là
kết quả nghiên cứu đề xuất của một bộ phận các nhà hoạch định vì thế nó vẫn
thiếu tính thống nhất, toàn diện, sâu sắc cả về mục tiêu và biện pháp. Trước khi
lựa chọn, phương án chính sách công được chuyển đến cho các tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm và có thể đến với các đối tượng thực thi để xin ý kiến tham gia,
đóng góp. Những ý kiến đóng góp được ban dự thảo cân nhắc sử dụng để bổ
sung, hoàn thiện theo yêu cầu của chủ thể quản lý. Trong thực tế, các phương án
chính sách công thường được bổ sung, hoàn thiện về biện pháp, nhất là biện
pháp mang tính cơ chế.
2.6. Thẩm định phương án chính sách công
Sau khi được lựa chọn chính thức, phương án chính sách công mới chỉ là
một mô hình lý thuyết tối ưu, vì thế nó vẫn có khoảng cách với thực tế xã hội.
Do đó, cần làm cho phương án chính sách lựa chọn thật sự gần gũi với đời sống,
có được tiếng nói của thực tế, như thế mới bảo đảm tính khả thi của chính sách
công. Để có được điều này, nhà hoạch định cần thực hiện bước thẩm định

7


phương án chính sách lựa chọn. Thẩm định phương án chính sách công là những
hoạt động thử nghiệm các tính năng của chính sách trong những điều kiện nhất
định theo yêu cầu quản lý. Qua thẩm định, một lần nữa cho phép khẳng định về

kết quả lựa chọn phương án chính sách công, đồng thời kết luận về tính khả thi
của chính sách công. Trong thực tế, phương án chính sách công được thẩm định
bằng nhiều cách, tùy theo quy mô, trình độ và tính chất của chính sách. Người ta
có thể thẩm định bằng cách phân tích các mẫu hình lựa chọn trên cơ sở nguyên
lý cho các phương án chính sách có phạm vi áp dụng hẹp, mục tiêu trực diện
như chính 8 sách cho các đối tượng ưu đãi trong xã hội (phụ nữ, người già, trẻ
em không nơi nương tựa, những người có công). Nhưng có những phương án
chính sách công phải thẩm định bằng thử nghiệm từng bước trong thực tế, thậm
chí phải tiến hành ở nhiều nơi có những điều kiện khác nhau mới kiểm chứng
được chính xác. Cách thẩm định này thường dùng với những chính sách mới,
quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến định hướng phát triển của nhà nước
như chính sách về nhiều thành phần sở hữu ở nước ta (xây dựng hợp tác xã, cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước). Hoặc cũng có thể sử dụng kết hợp cả hai
cách thẩm định trên cho một phương án chính sách. Sau khi thẩm định, phương
án chính sách công có thể bị loại bỏ, hoặc dừng lại chưa được ban hành nếu
không đáp ứng yêu cầu của nhà nước về mục tiêu và biện pháp, nhưng nói
chung các phương án đểu phải tiếp tục điều chỉnh hoàn thiện trước khi đưa vào
quyết nghị.
2.7. Quyết định chính sách công
Đây là bước có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời một chính sách công. Có
không ít chính sách công đã thực hiện đến bước thẩm định, thậm chí còn thẩm
định nhiều lần mà vẫn không được thông qua ở cấp có thẩm quyền. Lý do cũng
có thể do môi trường chính sách bên ngoài đã chuyển hóa theo quy luật vận
động, vấn đề chính sách không còn nhu cầu phải giải quyết. Hoặc cũng có thể vì
mục tiêu phát triển được thay đổi thang giá trị, thay đổi thứ tự ưu tiên. Quyết
nghị chính sách công được thực hiện bởi một cơ quan chính trị trong hệ thống
công quyền theo trình tự, thủ tục luật định.
II. NHỮNG ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CHÍNH VỀ QUY TRÌNH HOẠCH
ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
1. Ưu điểm:

Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời
nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ

8


thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta trong hơn 30
năm thực hiện công cuộc đổi mới. Hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt
được một số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh
vực trọng yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh
xã hội, quân sự, ngoại giao,…).
Một số chính sách công quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn, bám
sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập và
hoàn thiện được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu
cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp ứng
được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị
trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền lương cơ
bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền
gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân
khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách
miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp…
Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế lạm
phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền kinh tế
trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như những phản
ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế toàn cầu và
khu vực.
2. Nhược điểm:

Quy trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam cũng còn bộc lộ một số
tồn tại, hạn chế đó là:
Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ
quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách
thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính phủ,
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện.
Như vậy, chính sách công được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình
hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà
nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào
xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng
bởi chính sách là rất hạn chế.

9


Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những
đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính
sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân
cơ bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem
hiệu quả như nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo chính
sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND tỉnh,
thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên
mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản lý mà
không tính tới tổng thể chung.
Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình hình
quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính sách
trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu
sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện.
Ví dụ: Thực hiện Nghị quyết số 89/2015/QH13 của Quốc hội khóa 13, kỳ

họp thứ 9 thông qua ngày 09/6/2015 về điều chỉnh chương xây dựng luật, pháp
lệnh nhiệm kỳ quốc hội khóa 13, năm 2015 và chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh năm 2016 và Quyết định số 1273/QĐ-TTg ngày 7/8/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư (Cục phát triển doanh nghiệp) được phân công chủ trì xây dựng
dự án Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngày 25/12/2015 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức Phiên họp thứ nhất để
công bố quyết định thành lập và ra mắt Ban soạn thảo và Tổ biên tập của Dự án
Luật và tiến hành bàn bạc, góp ý để xây dựng đề cương, bộ khung cho Dự án
Luật.
Mặc dù trong danh sách Ban soạn thảo và Tổ biên tập có đầy thủ các thành
viên của các Bộ, Ngành (đặc biệt là Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ
Công Thương...), nhưng trong phiên họp quan trọng này đều không có mặt của
các thành viên của các Bộ, Ngành được coi là quan trọng như đã nêu ở trên. Như
vậy, rõ ràng, tính phối hợp trong các chương trình ban hành chính sách giữa các
Bộ, Ban, Ngành là không cao.
Có thể nói rằng hiện tượng việc của Bộ nào thì Bộ ấy lo vẫn còn là điều
phổ biến. Do không có mặt trong cuộc họp nên chắc chắn sự thống nhất trong
từng vấn đề chính sách là không có, do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực

10


thi thì sự chênh chính sách, chồng chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái ngược
về chính sách là rất dễ xảy ra.
Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến
tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít,
nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính
chủ động.
Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân,

các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình
chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch
định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.
Thời gian qua, khi một số biến động về giá cả, tình trạng lạm phát trên thế
giới và ở nước ta, cho thấy việc dự báo chính sách còn nhiều yếu kém. Dự báo
chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định chính
sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự báo
chính sách gặp rất nhiều khó khăn.
Trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin
tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của
chính sách. Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan
nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất
phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách
biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế – xã hội và có các phương
án giải quyết phù hợp với thực tế. Một chính sách đúng đắn phải từ thực tế
khách quan.
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách còn hạn
chế. Điều này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận cách
giải quyết vấn đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch định chính
sách nên khi chính sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất cập hoặc tình
trạng chưa thực thi đã vấp phải phản đối của dư luận và phải sửa (ví dụ điều 60
của Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, công tác hoạch định chính sách công hiện nay chưa theo kịp với
tình hình hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế, các chính sách công bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi
nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố
mang tính toàn cầu.

11



Chẳng hạn như chính sách đối với vấn đề phát triển nông nghiệp. Qua sự
kiện giá gạo trên thị trường thế giới bị đẩy lên cao, vấn đề an ninh lương thực
đặt ra… Chính sách phát triển nông nghiệp ở nước ta cần phải có sự tính toán,
cân nhắc, điều chỉnh lại. Như vậy, chính sách công của một quốc gia cũng đang
phải chịu nhiều sự chi phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn.
Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích,
đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các
biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án
chính sách phù hợp với thực tế.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện
nay tại Việt Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban hành
là việc làm rất quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu cực có thể
do thực thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực tiếp của chính
sách đó. Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện chính sách là một
khâu rất quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này lại bị coi nhẹ.
Do tồn tại những thực trạng trên cho nên dẫn tới hệ quả là các chính sách
thực thi hiệu quả chưa cao như: kết quả phát triển kinh tế - xã hội còn thấp; các
chính sách khi đưa vào thực thi có khi không thực sự phù hợp với địa phương đó
do thiếu sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành; chính sách xóa đói giảm nghèo còn
chồng chéo nên dẫn đến hiệu quả không cao; đào tạo nguồn nhân lực hay là các
chính sách khác triển khai còn nhiều bất cập.v.v.
III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định chính sách
công ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng
tâm vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự
một cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của
cá nhân người lãnh đạo, quản lý vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách
công.

Việt Nam nên bắt đầu một quy trình hoạch định chính sách mới, với sự
tham gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm: Chính phủ, doanh nghiệp, người
tiêu dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia.
Đôi khi, các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến
lược trình Chính phủ. Lấy các nhu cầu thực sự của dân, của Doanh nghiệp để

12


làm cơ sở hoạch định chính sách. Chính sách không đơn thuần chỉ là một văn
bản hành chính của Nhà nước.
Nói cách khác, làm cho chính sách công từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền
của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của toàn xã
hội.
Thứ hai, đổi mới quy trình hoạch định chính sách công theo hướng dân
chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên
gia vào xây dựng chính sách. Tích cực lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến từ các đối
tượng chịu tác động trực tiếp của chính sách.
Cần lấy ý kiến của người dân để có những chính sách sát với thực tế, tránh
việc “chính sách trên trời được ban hành cho dân dưới đất” vì không đủ điều
kiện để thực hiện. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi
nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính
sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu
dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
Thứ ba, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành trong hoạch định
chính sách, tránh mâu thuẫn nhau.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ làm công tác hoạch định chính sách có chất
lượng cao, có tầm nhìn bao quát về các vấn đề (Yếu tố con người là cốt lõi để có
chính sách tốt, hợp lòng dân và hiệu quả thực thi cao).

Thứ năm, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong công tác hoạch định chính
sách, phù hợp với thực tiễn ở nước ta.

13


KẾT LUẬN
Hoạch định chính sách công có vai trò đặc biệt quan trọng trong chu trình
chính sách; là điểm khởi đầu trong tiến trình chính sách nhằm cho ra đời một
chính sách công có tác dụng tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội. Tuy chính
sách công tồn tại thường xuyên và có liên hệ mật thiết với đời sống xã hội,
nhưng nó không phải là sản phẩm xã hội giống như các sản phẩm vật chất, dịch
vụ tiêu dùng khác, mà là một trong những loại sản phẩm đặc biệt của hoạt động
quản lý nhà nước khi chủ thể xác lập một ý chí để ứng phó với các biến cố nảy
sịnh làm hạn chế mục tiêu phát triển. Như vậy, hoạch định chính sách công được
coi là quá trình tạo ra một sản phẩm quản lý của bộ máy nhà nước; chính sách
công có tính năng của một công cụ quản lý vĩ mô giúp nhà nước vừa định
hướng, vừa khuyến khích, vừa điều tiết các chủ thể và quá trình vận động phát
triển kinh tế - xã hội.
Hoạch định chính sách công cũng được coi là quá trình xây dựng một loại
quyết định quản lý đặc biệt của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt và
lâu dài. Nếu quyết định chính sách công khoa học, hợp lý sẽ giúp cho nhà nước
và người dân có được nhiều thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Còn nếu sai sẽ làm cho các chủ thể phông những mất phương hướng trong quá
trình hoạt động, mà còn gây những hậu quả xấu vì những tác động trái quy luật
do chính sách tạo ra. Những tổn hại này không chỉ mang tính nhất thời, cục bộ,
mà nó ảnh hưởng lâu dài, sâu sắc đến nhiều lĩnh vực trong đời sống nhân dân.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách
công bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong lãnh thổ
của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính toàn cầu. Đòi hỏi

trong quá trình hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích,
đánh giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các
biện pháp thực hiện chính sách, và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án
chính sách phù hợp với thực tế. Với những ảnh hưởng lớn của chính sách công
đối với phát triển kinh tế - xã hội, các nhà hoạch định cần hết sức cẩn trọng
trong nghiên cứu xây dựng chính sách để có được những chính sách công tốt
nhất.

14


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

Trang

-

MỞ ĐẦU

1

-

NỘI DUNG

2


I

QUY TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT
NAM

2

1

Các căn cứ hoạch định chính sách công

2

1.1

Căn cứ vào định hướng chính trị

2

1.2

Căn cứ vào năng lực thực tế của chủ thể tham gia thực hiện
chính sách công

3

1.3

Căn cứ vào tình trạng pháp luật trong xã hội


4

1.4

Căn cứ vào môi trường tồn tại của chính sách công

4

Các bước hoạch định chính sách công

5

2.1

Phân tích bối cảnh hoạch định chính sách công

5

2.2

Hình thành ý tưởng về chính sách công

6

2.3

Dự thảo các phương án giải quyết vấn đề chính sách công

6


2.4

Lựa chọn phương án tối ưu

7

2.5

Hoàn thiện phương án lựa chọn công

7

2.6

Thẩm định phương án chính sách công

7

2.7

Quyết định chính sách công

8

II

NHỮNG ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CHÍNH VỀ QUY TRÌNH
HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM

8


1

Ưu điểm

8

2

Nhược điểm

9

III

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP

12

KẾT LUẬN

14

2

-

15




×