Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 115 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC THÚY

CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC THÚY

CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. HỒ TRỌNG NGŨ



HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM..................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm tình hình tội phạm ..................................................................................... 7
1.2. Khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm ................................................. 9
1.3. Đặc điểm của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm .............................................. 11
1.4. Các chủ thể phòng ngừa tội phạm trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm ... 14
1.5. Các nguyên tắc của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm ..................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, TP. HỒ CHÍ MINH ................... 27
2.1. Khái quát tình hình quận Bình Tân có liên quan đến cơ chế phòng ngừa tình hình
tội phạm............................................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng nhận thức về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................. 32
2.3. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của các chủ thể trong cơ chế phòng ngừa tình
hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ............................. 34
CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 55
3.1. Dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh 55
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................... 59
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANTT

: An ninh trật tự

CAND

: Công an nhân dân

CQBVPL

: Cơ quan bảo vệ pháp luật

CQCA

: Cơ quan Công an

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HĐND

: Hội đồng nhân dân

PNTHTP

: Phòng ngừa tình hình tội phạm


TAND

: Tòa án nhân dân

THTP

: Tình hình tội phạm

UBMTTQ

: Ủy ban mặt trận tổ quốc

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân
từ năm 2013-2017
Bảng 2.2.So sánh tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân và TP. Hồ
Chí Minh từ năm 2013 – 2017
Bảng 2.3.Số vụ án và số bị cáo đã xét xử trên địa bàn quận Bình Tân từ
2013-2017
Bảng 2.4. Cơ số tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân từ năm 2013-2017
Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm của 10 phường trên địa

bàn quận Bình Tân từ năm 2013 đến năm 2017 tính theo dân số
Bảng 2.6. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm của 10 phường trên địa
bàn quận Bình Tân từ năm 2013 đến năm 2017 tính theo diện tích
Bảng 2.7. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội phạm của 10 phường trên địa
bàn bàn quận Bình Tân được xác định trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích
từ năm 2013 – 2017
Bảng 2.8.Tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Bình Tân từ năm
2013 – 2017
Bảng 2.9.Cơ cấu theo giới tính và độ tuổi của các bị cáo trên địa bàn quận
Bình tân từ năm 2013-2017
Bảng 2.10. Cơ cấu theo nghề nghiệp của các bị cáo trên địa bàn quận Bình
Tân từ năm 2013-2017
Bảng 2.11.Cơ cấu theo tiền án, tiền sự của các bị cáo trên địa bàn quận Bình
Tân từ năm 2013 – 2017
Bảng 2.12.Cơ cấu theo nơi cư trú của các bị cáo trên địa bàn quận Bình Tân
từ năm 2013-2017
Bảng 2.13.Cơ cấu theo trình độ học vấn của bị cáo địa bàn quận Bình Tân
năm 2013-2017
Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ % các loại phạm pháp hình sự trên địa bàn quận Bình Tân
từ năm 2013-2017


Biểu đồ 2.2.Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân và TP. Hồ Chí
Minh từ năm 2013 – 2017


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình Tân là quận vùng ven của Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên
cơ sở Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ,

được chia tách từ huyện Bình Chánh cũ, với diện tích tự nhiên 5.188,67 ha, gồm 3
xã: Tân Tạo, Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông và Thị trấn An Lạc. Lúc mới thành lập
quận có 10 phường (An Lạc, An Lạc A, Tân Tạo, Tân Tạo A, Bình Trị Đông, Bình
Trị Đông A, Bình Trị Đông B, Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa
B), 121 khu phố với 50.823 hộ dân. Địa giới hành chính quận Bình Tân: phía Đông
giáp các quận 6, 8, Tân Phú; phía Tây giáp huyện Bình Chánh; phía Nam giáp quận
8; phía Bắc giáp quận 12 và huyện Hóc Môn.
Khi mới thành lập, mặc dù có nhiều khó khăn như: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội còn nhiều yếu kém, phát triển chưa đồng bộ, kinh tế phát triển chưa vững
chắc, sức cạnh tranh thấp, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp. Nhưng với
những nổ lực, quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quận Bình Tân, sau
hơn 10 năm thành lập, quận Bình Tân đã có bước phát triển quan trọng trên các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh.“Trong những năm gần đây, dưới
tác động của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với lợi thế về diện tích
quận Bình Tân đã thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư trong và nước ngoài. Tại đây
nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập, kéo theo các loại hình dịch vụ
như nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí... không chỉ
thu hút một lực lượng lớn lao động từ các tỉnh phía Bắc, miền Trung và miền Tây
Nam Bộ về đây tìm kiếm việc làm cùng với lượng khách đến thăm thân nhân, học
tập, du lịch nên đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo về kinh tế, văn hóa xã hội, đời
sống vật chất và tinh thần của người dân, trong đó có nhiều thay đổi tích cực”.
Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm, lợi thế đem lại cũng đã làm nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự, đặc biệt là tình hình tội phạm có chiều
hướng ngày càng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Công an quận Bình Tân từ
năm 2013 đến năm 2017 cho thấy tình hình tội phạm có diễn biến phức tạp với tính
1


chất, mức độ nguy hiểm ngày càng cao.Tình hình đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến
an ninh trật tự, tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân.
Thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền của quận Bình Tân đã có nhiều cố

gắng trong việc xây dựng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm, góp phần vào hiệu
quả trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm. Tuy nhiên, mức độ nhận
thức về tầm quan trọng của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm của các cơ quan
chức năng trên địa bàn quận vẫn còn những hạn chế nhất định, các chủ thể trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình còn nhiều thiếu sót, bất
cập. Mặc dù, hệ thống pháp luật đang ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho các hoạt động phòng ngừa của các chủ thể. Song cơ chế phối hợp hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm giữa các chủ thể vẫn chưa được cụ thể hoá, thể
hiện rõ nhất là ở sự phân công phân cấp chưa rõ ràng và thiếu cơ chế phối hợp nhịp
nhàng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa
tình hình tội phạm, nhằm sắp xếp về mặt tổ chức các chủ thể, với sự phân công
trách nhiệm và minh bạch các mối quan hệ phối kết hợp giữa các chủ thể, sẽ làm cơ
sở cho việc hoàn thiện pháp luật. Từ đó, cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm được
thực hiện một cách có hiệu lực, hiệu quả cao, hoạt động phòng ngừa được bảo đảm
thực hiện đúng pháp luật.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải nghiên cứu làm rõ hơn nữa về
cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp hữu hiệu
nhằm ngăn chặn và hạn chế tối đa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân,
thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó tác giả lựa chọn đề tài:
“Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình khoa học có liên quan nghiên
cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như
sau:
2


- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Công

an nhân dân, năm 2003.
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, năm 2013.
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, của GS. TS Nguyễn
Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001.
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của PGS. TS
Phạm Văn Tỉnh, Nhà xuất bản Tư Pháp, năm 2007.
- “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam”, Trường Đại học Cảnh sát nhân
dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2013.
- “Tội phạm ở Việt Nam thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”,Đề tài
KX.04.14, của các tác giả Lê Tự Phả và Lê Thế Tiệm chủ biên, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, năm 1994.
- “Phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới”,Đề tài khoa học cấp Nhà nước
(giai đoạn 1996 – 2000) KHXH. 07.08 của GS. TS Nguyễn Phùng Hồng, GS. TS
Hồ Trọng Ngũ và tập thể các tác giả.
- “Phòng ngừa một số tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh”, sách chuyên khảo của TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, năm 2016.
- “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12, Thành phố Hồ Chí
Minh” - Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam của tác giả
Lê Huỳnh Như, năm 2015.
- “Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh”,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội của tác giả Lê Công Nguyên,
năm 2014.
- “Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ
Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội của tác giả Lê
Phong Toàn, năm 2017.
Đánh giá chung:
3



Có thể thấy, thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan
ít nhiều đến phòng ngừa tình hình tội phạm. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu
trên đây chỉ mới nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm hay đấu tranh phòng,
chống tội phạm trên phạm vi cả nước hoặc ở một số địa phương nào đó. Cũng có đề
tài nghiên cứu đến phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn các Quận của Thành
phố Hồ Chí Minh nhưng chủ yếu nghiên cứu về các giải pháp phòng ngừa. Cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là hướng tiếp cận
nghiên cứu của đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm, thực trạng của cơ chế phòng
ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ
đó đề xuất những giải giải nhằm tăng cường cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm
trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõnhững vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Thực trạng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Làm rõ những hạn chế, nguyên nhân của các mặt hạn chế trong cơ chế
phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Làm rõ những vấn đề đặt ra trong tăng cường cơ chế phòng ngừa tình hình
tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu

4


Đối tượng nghiên cứu của Luận văn làcơ chế phối hợp giữa các chủ thể
phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí
Minh.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Luận văn nghiên cứu về THTP trong phạm vi tội phạm học.
+ Về không gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn quận Bình
Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:Luận văn sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường
lối chính sách của Đảng về công tác phòng ngừa tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Chương 1: Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu và
trích dẫn tài liệu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình
tội phạm.
Chương 2: Sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học,
phỏng vấn và tham khảo ý kiến chuyên gia để làm rõ thực trạng cơ chế phòng ngừa
tình hình tội phạm từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về cơ chế phòng ngừa
tình hình tội phạm; qua đó đóng góp thêm tri thức của Tội phạm học.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là một trong những
nguồn tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách phòng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và cơ chế phòng
ngừa tình hình tội phạm nói riêng.
5


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần
nội dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm.
Chương 2: Thực trạng cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3:Tăng cường cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm từ thực tiễn
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm tình hình tội phạm


Trong Tội phạm học nói chung và Tội phạm học Việt Nam nói riêng, khái

niệm THTP là khái niệm cơ bản đầu tiên của Tội phạm học. Đó là một thuật ngữ
khoa học, nhưng đồng thời cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ
thông dụng, ngôn ngữ đời thường .



Theo quan điểm của GS. TS Đỗ Ngọc Quang thì khái niệm “tình hình tội
phạm” là khái niệm được ghép từ hai danh từ “tình hình” và “tội phạm”. “Tình
hình” theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa: “Trạng thái và xu thế phát triển của sự vật”.
“Tội phạm” là các hành vi thoả mãn các dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm theo quy
định của BLHS. Như vậy có thể hiểu “tình hình tội phạm” được hiểu là số liệu về
tội phạm được điều tra, truy tố, xét xử.
Theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội thì “Tình hình tội phạm là
một hiện tượng xã hội tiêu cực trái pháp luật hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi
theo quá trình của của lịch sử; được thể hiện ở một tổng hợp các tội phạm cụ thể đã
xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định" [35, tr.9l].
GS. TS Võ Khánh Vinh đã định nghĩa về THTP như sau: “Tình hình tội
phạm là hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang
tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện
trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian nhất định” [44,
tr.60].
Vậy, có thể hiểu tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, mang
tính lịch sử và pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được thể hiện bằng tổng
hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất
định.
Qua khái niệm trên có thể nhận diện một số đặc điểm cơ bản cùa tình hình
tội phạm như sau:
- Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, điều này nói lên bản chất của


tình hình xã hội của tình hình tội phạm. Sở dĩ nói tình hình tội phạm là một hiện
7


tượng xã hội bởi vì nó tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc xã hội, có nội dung xãhội,

có nguyên nhân xã hội và số phận của nó cũng mang tính chất xã hội. Mặt khác,
tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội vì với tư cách là một biểu hiện, là mặt
trái của xã hội, có tính độc lập tương đối. Biểu hiện đó không chỉ ảnh hưởng tiêu
cực đến các mối quan hệ khác trong xã hội, mà chính nó cũng là một loại quan hệ
tồn tại trong xã hội [44, tr.53]. Và như thế, tình hình không thể tồn tại ngoài xã hội
mà nó có mối liên hệ chặt chẽ với các hiện tượng xã hội khác.



- Tình hình tội phạm là một hiện tượng pháp lý - hình sự. Tội phạm không


những chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà còn là hành vi trái pháp luật hình sự,
tức là bị các bộ luật hình sự cấm bằng việc đe dọa áp dụng hình phạt. Việc cân nhắc
đặc điểm pháp luật của tình hình tội phạm trong việc đánh giá thực trạng (mức độ),
cơ cấu và động thái của nó là rất quan trọng, vì rằng những thay đổi của pháp luật
hình sự theo hướng tội phạm hóa hoặc phi tội phạm hóa những hành vi cụ thể có
ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các chỉ số của nó”[44,tr.54].
- Tình hình tội phạm là một hiện tượng thay đổi về mặt lịch sử. Theo chủ


nghĩa Mác-Lênin cho rằng mọi hiện tượng trong xã hội, trong tự nhiên không phải ở
trạng thái tĩnh, tồn tại bất biến mà nó luôn luôn vận động, thay đổi theo thời gian,
không gian nhất định. Tình hình tội phạm sẽ thay đổi khi xã hội có sự thay đổi của
tình hình kinh tế - xã hội, sự thay đổi về hình thái kinh tế và cơ cấu kinh tế.Khi xã
hội loài người có sự xuất hiện của Nhà nước thì lúc đó tội phạm mới xuất hiện và
khi một hình thái kinh tế xã hội này được thay đổi bởi một hình thái kinh tế -xã hội
mới thì một kiểu Nhà nước mới xuất hiện, lúc này tình hình tội phạm cũng sẽ có sự
thay đổi. Tính thay đổi về mặt lịch sử của tình hình tội phạm cho ta thấy hiện tượng
đó được xuất hiện trong lịch sử như thế nào, nó trải qua các giai đoạn phát triển

nào, hiện nay tồn tại ra sao và cả sự phát triển, tồn tại của chúng trong tương lai”
[44, tr.54].
- Tình hình tội phạm là một hiện tượng mang tính chất giai cấp. Tính giai cấp


của tình hình tội phạm thể hiện ở nguồn gốc xuất hiện, ở nguyên nhân phát sinh, ở
nội dung của các tội phạm cụ thể - các thực thể, tế bào cấu thành nên hiện tượng đó
và cả số phận của nó trong tương lai”[44, tr. 54].

8




Tội phạm ra đời khi xã hội có sự phân chia giai cấp đối kháng, với sự ra đời

của nhà nước. Mỗi giai cấp thống trị khác nhau đều quy định những nhóm hành vi
phạm tội khác nhau và các biện pháp trừng trị các hành vi đó cũng khác nhau, nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp và sự thống trị của mình, và do tình hình tội phạm là tổng
thể biện chứng các tội phạm đã thực hiện trong thực tiễn, cho nên vẫn giữ nguyên
tính giai cấp. Bên cạnh đó, tính giai cấp của tình hình tội phạm còn thể hiện ở việc
nó xâm hại đến những quan hệ xã hội mà giai cấp thống trị bảo vệ, ở các nguyên
nhân gốc rễ phát sinh mà theo V.I.Lênin đó là chế độ người bóc lột người, sự bần
cùng hóa, nạn thất nghiệp.



1.2. Khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm
Khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong phòng ngừa tình hình tội phạm. Nhưng hiện nay, khái niệm này chưa có

cách hiểu thống nhất và chưa được tập trung nghiên cứu, phổ biến rộng rãi.
Trên cơ sở nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của các
chủ thể phòng ngừa để xem xét khái niệm cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm.
Tìm hiểu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm là sự tiếp nối tất yếu từ việc nghiên
cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Nghiên cứu cơ chế phòng ngừa tình
hình tội phạm cần tiếp cận các khái niệm về “cơ chế” và “phòng ngừa tình hình tội
phạm”. Tức là cần tiếp cận từ các góc độ khoa học của ngôn ngữ, triết học, và pháp
lý.
Theo từ điển Nga – Việt, cơ chế (MEXAHUZM) là “máy móc, bộ máy, cơ
chế, cơ cấu”. Theo Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) thì: “Cơ chế là
cách thức, sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [46,
tr. 463]. Theo GS.TS Phạm Ngọc Quang: “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một
chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một lôgic nhất định nhờ vậy mục tiêu được
thực hiện”. Dưới góc độ khoa học pháp lý, “cơ chế” lại được hiểu là: “tổng thể các
bảo đảm về vật chất, chính trị, tư tưởng, pháp lý, tổ chức, nghiệp vụ cho việc thực
hiện một quyền nào đó hoặc một việc nào đó”...
Theo quan điểm của tác giả cho rằng thuật ngữ “cơ chế” gồmhai nội dung là
phương thức tổ chức của một chỉnh thể bao gồm nhiều bộ phận khác nhau hợp thành
có mối liên hệ mật thiết với nhau và phương thức vận hành hay hoạt động của chỉnh
9


thể đó theo những nguyên tắc và quá trình xác định nhằm đạt được một kết quả nhất
định.
Về định nghĩa phòng ngừa tình hình tội phạm cũng có nhiều quan điểm khác
nhau. Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội
phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp
liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành”.
GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa lại đưa ra khái niệm này dưới góc độ tội phạm học
cũng tương đối hợp lý như sau: “Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ

quan, tổ chức và công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào
các nhóm nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần
những nhóm nguyên nhân này…”
Theo GS. TS Võ Khánh Vinh thì:“Việc phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ
thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước –
xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô
hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ
tình hình tội phạm”.
Thống nhất về mặt nhận thức và thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội
phạm có thể hiểu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm là phương thức tổ chức và
phương thức vận hành của hệ thống các cơ quan, tổ chức và công dân có mối liên
hệ mật thiết với nhau, hoạt động theo những nguyên tắc, qui định của pháp luật và
những phương tiện pháp lý khác; để thực hiện các biện pháp hướng đến mục đích
khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nhằm ngăn chặn,
hạn chế và từng bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm
Nghiên cứu Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm có những ý nghĩa cơ bản
sau đây:
- Việc nghiên cứu cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm làcơ sở để xây
dựng, tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm một cách
khoa học và hiệu quả. Chỉ trên cơ sở phân tích làm rõ cơ chế phòng ngừa tình hình
tội phạm mới xây dựng được hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm
một cách toàn diện.

10


- Nghiên cứu làm rõ cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm là cơ sở cho việc
hoạch định các chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm một cách phù hợp.Nâng
cao hiệu quả phòng ngừa nhằm hạn chế và loại trừ dần dần những nguyên nhân và

điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm.
- Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm tốt sẽ hạn chế được tội phạm, điều
đó cũng đồng nghĩa với việc tiết kiệm rất lớn về kinh tế cũng như không gây ra các
hậu quả xấu cho xã hội.
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứucơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm thì các
cơ quan chức năng sẽ có cơ sở hoạch định các chính sách phòng ngừa của địa
phương một cách phù hợp nhằm giảm thiểu các tiêu cực xã hội là nguyên nhân làm
phát sinh tình hình tội phạm.
1.3. Đặc điểm của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm
- Cơ chế phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tình hình tội phạm
được pháp luật ghi nhận và tính chất phối hợp trong quan hệ đó được xác định là
trách nhiệm của các bên.
Các hình thức và các biện pháp của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm
phải do luật định, tức là các hình thức và các biện pháp đó phải được ghi nhận bằng
các văn bản pháp luật của nhà nước - từ Hiến pháp (luật cơ bản của nhà nước) cho
đến các văn bản luật và các văn bản dưới luật. Các loại văn bản khác nhau đó điều
chỉnh hoạt động của một hệ thống các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhân
dân. Đó là hệ thống quy định, quy phạm pháp luật chứa đựng nguyên lý tổ chức vận
hành của toàn bộ cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm. Hệ thống các quy định,
quy phạm pháp luật này điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cơ chế phòng ngừa
tình hình tội phạm. Yếu tố này có tính chất “là môi trường pháp lý” để ràng buộc
các chủ thể phòng ngừa hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo những quy định
chung.
Trên cơ sở của hệ thống quy phạm pháp luật, các chủ thể khi tham gia vào cơ
chế phòng ngừa tình hình tội phạm có thể nhận thức được giới hạn nội dung và
phương thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Mặt khác, hệ thống pháp
luật cũng là cơ sở xác định năng lực của chủ thể khi tham gia vào cơ chế phòng
ngừa tình hình tội phạm.
Ở Việt Nam, cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm được thể hiện trong
11



nhiều quy định của Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Để đảm bảo thắng lợi
cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cần nâng cao trách nhiệm, vai trò chủ
động, sáng tạo của các ngành, các cấp, các tổ chức và mỗi cá nhân trong xã hội vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi
năm 2001 trước đây đã quy định: “Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm
Hiến pháp và pháp luật” (Điều 12). Đến Hiến pháp năm 2013 các quy định này
tương ứng được tiếp tục ghi nhận các điều 2, 8, 46… Điều này thể hiện quan điểm
phòng ngừa tội phạm không phải là nhiệm vụ của riêng của bất cứ cơ quan mà phải
có sự tham gia của các lực lượng xã hội (tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi
côngdân). Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam đã xác định vai trò, vị trí, cơ
chế phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm và đạt được những thành
tựu nhất định trong xây dựng cơ chế này.
Nhận thức về sự cần thiết và hiệu quả từ cơ chế phối hợp phòng ngừa tình
hình tội phạm được khẳng định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự của
nước ta. Tính chất phối hợp trong quan hệ đó cũng được quy định là trách nhiệm
thuộc về cả phía cơ quan Nhà nước lẫn các tổ chức xã hội và công dân. Khoản 1,
Điều 4, Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 xác định trách nhiệm đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm như sau: “Các cơ quan Công an, Kiểm sát,
Tòa án, Tư pháp, Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thi hành
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan
khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng”. Sự hướng dẫn, giúp đỡ của cơ
quan chức năng Nhà nước đối với tổ chức xã hội và nhân dân chính là trách nhiệm
phối hợp từ phía các cơ quan Nhà nước. Cơ quan Nhà nước phải bảo đảm cho
quyền tham gia, phối hợp của các tổ chức và công dân trong phòng ngừa tội phạm.
“Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân

tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết”(khoản 2 Điều 25 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003). Ngược lại, các tổ chức và công dân có trách nhiệm chấp
hành sự hướng dẫn, phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Nhà nước thực
12


hiện tốt chức năng phòng ngừa tội phạm: “Các tổ chức, công dân có trách nhiệm
thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng thực hiện nhiệm vụ” (khoản 3, Điều 25, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
-Trong cơ chế phối hợp, vị trí, vai trò của các chủ thể đã được xác định rõ
ràng.
Khoản 1, Điều 4, Bộ luật hình sự Việt Nam đã quy định các cơ quan chức
năng của Nhà nước như Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra là các cơ
quan chuyên trách, giữ vị trí trung tâm trong cơ chế phòng ngừa tội phạm. Các chức
năng, nhiệm vụ mà điều luật yêu cầu những cơ quan này phải thi hành đầy đủ chính
là chức năng phòng ngừa và phát hiện tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hình sự đã được quy định trong các văn bản như: Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự,
Luật Công an nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, Luật Thanh tra, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành án hình sự...Vị trí
trung tâm, điều hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của các cơ quan
chuyên trách này còn được thể hiện qua nhiệm vụ “hướng dẫn, giúp đỡ” các lực
lượng xã hội khác (các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân) trong đấu
tranh phòng ngừa tội phạm.
Bên cạnh Nhà nước, các tổ chức, cá nhân được xác định có vai trò phối hợp,
hỗ trợ, tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Khoản 2 và khoản 3,
Điều 4 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định trách nhiệm của các lực lượng này như
sau:
+ Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản
lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ pháp luật và tuân theo pháp luật, tôn

trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
+ Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và
chống tộiphạm.
Vai trò tham gia của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 khẳng định lại một cách cụ
thể hơn: “Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi
phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức” (Khoản 1, Điều
13


25, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).
Sự phân định rõ vai trò, vị trí giữa các chủ thể là cơ sở của cơ chế phối hợp.
Xuất phát từ vị trí trong hệ thống bộ máy Nhà nước và các cơ quan, tổ chức xã hội
và nhân dân trách nhiệm phối hợp của các chủ thể mới được xác định cụ thể. Sự
phối hợp hoạt động của các chủ thể phải tuân thủ sự điều hành của Nhà nước.
Phạm vi, khuôn khổ, phương thức hoạt động của các chủ thể được phân định
rõ ràng nhằm bảo đảm cho sự phối hợp nhịp nhàng. Trên cơ sở xác định vai trò, vị
trí của Nhà nước, các tổ chức xã hội, công dân trong cơ chế phòng ngừa tình hình
tội phạm, Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nước ta quy định rõ về phạm vi
hoạt động của các chủ thể này. Các quy định ở trên xác định cơ quan chuyên trách
của Nhà nước “thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình”trong phòng ngừa
tình hình tội phạm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Việc phân định rõ
phạm vi hoạt động là hết sức cần thiết để tránh sự chồng chéo, xâm lấn thẩm quyền
của nhau giữa các chủ thể của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm.
1.4. Các chủ thể phòng ngừa tội phạm trong cơ chế phòng ngừa tình
hình tội phạm
Theo Từ điển Triết học thì: Chủ thể là con người (cá nhân hay tổ chức…)
tiến hành các hoạt động nhận thức cải tạo thế giới và có thể chia thành nhiều loại

chủ thể khác nhau dựa trên đặc điểm tính chất của các hoạt động. Vì vậy chủ thể
của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm cũng là các cá nhân hoặc các tổ chức có
trách nhiệm và quyền hạn tham gia hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một hoạt động xã hội, đòi hỏi phải có sự
tham gia của nhiều lực lượng, các tổ chức cũng như công dân. Tuy nhiên, mỗi lực
lượng, tổ chức mỗi công dân khi tham gia vào cơ chế này lại có những chức năng,
nhiệm vụ khác nhau. Do đó, cần phải xác định rõ vai trò của từng chủ thể tham gia
trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm.
Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm chủ thể lãnh đạo quá trình
phòng ngừa và chủ thể thực hiện quá trình phòng ngừa. Với cách hiểu này chủ thể
của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm:
1.4.1. Chủ thể lãnh đạo của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm
- Đảng Cộng sản Việt Nam:
14


Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam trong đó có hoạt động phòng ngừa tội phạm. Khoản 1,
Điều 4, Hiến pháp 2013 có quy định:"Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…". Nhà nước và xã hội
ta đã thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn bộ xã hội.
Phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động vừa mang tính xã hội, vừa mang tính
Nhà nước, vì vậy rất cần có sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
là chủ thể của cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm nhưng ở vị trí là chủ thể lãnh
đạo.
Với vai trò là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm qua việc định hướng trong từng giai

đoạn, định hướng hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan đấu tranh phòng chống tội
phạm, thông qua các nghị quyết của Đảng. Đảng chỉ đạo tiến hành một cách rộng
rãi những biện pháp kinh tế, tư tưởng, văn hóa và cải tiến, hoàn thiện hoạt động của
các cơ quan bảo vệ pháp luật tiến hành đấu tranh trực tiếp với tội phạm.
Để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm cần phải có sự phối hợp thường xuyên
hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội trong đấu tranh
phòng chống tội phạm. Nhiệm vụ của việc phối hợp này là đề ra những phương
hướng cơ bản trong hoạt động của các cơ quan tổ chức để đấu tranh, phòng chống
tội phạm có hiệu quả. Sự phối hợp này chỉ có thể thực hiện tốt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bên cạnh đó vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm còn thể hiện ở sự tiên phong, giữ vai trò nòng cốt trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm của các đảng viên.
1.4.2. Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa trong cơ chế phòng ngừa
tình hình tội phạm
Quá trình phòng ngừa tội phạm bao gồm từ khâu ban hành các quy định của
pháp luật đến khâu triển khai thực hiện các quy định của pháp luật. Do đó, chủ thể
phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm các chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa
15


tình hình tội phạm và chủ thể triển khai thi hành các quy định pháp luật phòng ngừa
tình hình tội phạm.
Chủ thể ban hành pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm
*Quốc hội
Theo Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước. Quốc hội là chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm có vai trò trong việc
ban hành các đạo luật, nghị quyết, văn bản pháp lý về phòng ngừa tình hình tội

phạm, từng bước hoàn thiện pháp luật tạo cơ sở cho các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội và công dân làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm. Ngoài ra Quốc
hội còn có vai trò trong việc kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước,
của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội và tuyên truyền phổ biến pháp
luật nói chung; được cụ thể hóa ở một số nội dung sau:
- Quốc hội làm luật, hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
góp phần ngăn ngừa tình hình tội phạm.
- Kiểm tra giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước để phòng ngừa tiêu cực
và phạm tội.
- Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật
và tham gia quản lý nhà nước.
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật có quyền yêu cầu các cá nhân,
cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thực hiện những biện pháp cần thiết để chấm dứt
hành vi trái pháp luật đó.
* Hội đồng nhân dân
Theo Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định: “Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. Hội đồng nhân dân thực
hiện toàn bộ quyền lực nhà nước, đảm bảo việc tuân thủ các đạo luật, việc bảo vệ
trật tự nhà nước và xã hội, các quyền lực và lợi ích hợp pháp của công dân [44,
tr.171]. Vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm của Hội đồng nhân dân được cụ thể
hóa ở một số nội dung:
16


- Quyết định những chủ trương, biện pháp kinh tế xã hội quan trọng để phát


huy tiềm năng của địa phương, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân địa phương, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm.



- Ban hành các văn bản pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm ở địa
phương.
- Kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương để phòng
ngừa tiêu cực và phạm tội.
Chủ thể triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm
Chủ thể triển khai thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm
Chính phủ, UBND các cấp, các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan bảo vệ
pháp luật, các tổ chức và các cá nhân, công dân.
*Chính phủ
Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ
quan chấp hành của Quốc hội. Về mặt quản lý Nhà nước trong đấu tranh phòng
chống tội phạm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/
7/1998 “về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”. Chính
phủ quyết định tiến hành những chủ trương và biện pháp chỉ đạo công tác phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới, đã đề ra những chủ trương, biện pháp lớn,
đồng thời phân công trách nhiệm cho các ngành, các cấp trong công tác phòng
chống tội phạm. Cụ thể:
- Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa,


giáo dục trong phạm vi quốc gia, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội, Chính phủ tổ chức


thực hiện các chính sách, biện pháp để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, trật tự an toàn xã hội; tổ chức và thực hiện các biện pháp
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, các vi phạm pháp luật .



- Xây dựng các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm. Lãnh đạo hoạt


động phòng chống tội phạm quốc gia thông qua Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống
tội phạm, cơ quan chuyên môn của Bộ tư pháp, Thanh tra nhà nước chuyên ngành.;
* Ủy ban nhân dân các cấp
17


Là cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ triển khai các chương trình
phòng ngừa tội phạm, triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về
các chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm, vai trò phòng ngừa tình hình tội
phạm của Ủy ban nhân dân các cấp thể hiện như sau:
- Xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo


dục, ở địa phương để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân, từ đó có tác
dụng phòng ngừa tình hình tội phạm.


- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, tùy cấp hành


chính mà Ủy ban nhân dân các cấp có vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm như
sau: xây dựng chương trình, kế hoạch và lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm ở địa phương .


- Phát động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự; quản lý những đối



tượng có tiền án, tiền sự, những đối tượng có nhân thân xấu, phối hợp với các cơ
quan hữu quan giám sát, giáo dục người chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập
tại cộng đồng .


* Các cơ quan hành chính nhà nước chuyên môn
Bao gồm: các bộ, sở, phòng,... từ trung ương đến địa phương. Các chủ thể
này tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mình để tiến hành hoạt động triển khai, thi
hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm trong phạm vi toàn quốc hay ở từng
địa phương nhất định. Cụ thể, các cơ quan tư pháp thuộc Bộ tư pháp thực hiện
nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua các hoạt động sau:
- Đưa ra sáng kiến lập pháp, tham gia vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật;
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân
dân;
- Nghiên cứu, bổ sung vào lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm;
- Phối hợp cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện các nhiệm vụ phòng
ngừa tội phạm.
* Các cơ quan bảo vệ pháp luật
Bao gồm: Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Các cơ quan này có vai
trò rất quan trọng trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm. Vai trò của các cơ
18


quan này được xác định trước hết là ở chức năng và nhiệm vụ của mỗi cơ quan và
sự phối hợp giữa các cơ quan. Các cơ quan bảo vệ pháp luật giữ vai trò nòng cốt
trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Cơ quan Công an

Theo Luật Công an nhân dân năm 2014, cơ quan Công an là lực lượng nòng
cốt trong việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội, cơ quan Công an có vai trò
tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong việc hoạch định các chương trình phòng
chống tội phạm. Trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm thông
qua chức năng, nhiệm vụ của mình như kịp thời phát hiện, điều tra, khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, thông qua các biện pháp quản lý hành chính, tuần tra kiểm soát…;
Trong cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm Công an là chủ thể giữ vai trò quan
trọng trong việc hướng dẫn, tạo điều kiện cho các chủ thể khác, nhất là quần chúng
nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm và chủ động phối
hợp với các chủ thể khác.
Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP, ngày 31/07/1998 Thủ tướng Chính phủ về
“tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” đã nêu rõ vai trò
trong cơ chế phối hợp của lực lượng Công an đối với công tác phòng chống tội
phạm: “Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan, cần nâng cao
hiệu quả các biện pháp quản lý Nhà nước về an ninh trật tự; củng cố các lực lượng
nghiệp vụ trực tiếp phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nhất là các lực lượng ở
cơ sở, bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ chuyên trách, bán chuyên trách các cơ
quan, xí nghiệp; đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, liên tục
phát động quần chúng tấn công trấn áp tội phạm; kịp thời phát hiện, phòng ngừa
đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm nguy hiểm; phối hợp với các ngành nội chính
tiến hành điều tra, truy tố, xét xử kịp thời các đối tượng phạm tội; nghiên cứu, dự
báo tình hình tội phạm, đề xuất chủ trương biện pháp đấu tranh phù hợp”.
- Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân, theo Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm
2014, VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, có vai trò trong việc phối hợp với các chủ thể khác xây dựng, triển khai các
chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm, thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm, thống kê tội phạm, đưa ra những kiến
19



×