Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Từ ngữ chỉ mầu trắng,đen và các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của chúng trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (972.77 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ PHƢƠNG MAI

TỪ NGỮ CHỈ MÀU „TRẮNG‟, „ĐEN‟ VÀ CÁC TỪ NGỮ CHỈ
MÀU SẮC PHỤ CỦA CHÚNG TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ PHƢƠNG MAI

TỪ NGỮ CHỈ MÀU „TRẮNG‟, „ĐEN‟ VÀ CÁC TỪ NGỮ CHỈ
MÀU SẮC PHỤ CỦA CHÚNG TRONG TIẾNG VIỆT

Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 8 22 90 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH

HÀ NỘI, 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã nêu
trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và kết quả của luận văn là trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Ngƣời cam đoan

Trịnh Thị Phƣơng Mai


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................. 10
1.1. Một số khái niệm về từ ngữ và từ ngữ chỉ màu sắc ........................................................... 10
1.1.1 Khái niệm về từ ………………………………………………………………………...10
1.2. Lý thuyết về từ chỉ màu sắc ............................................................................................... 21
1.2.1 Khái niệm về từ chỉ màu sắc……………………………………………………………21
1.2.2 Phân loại từ chỉ màu sắc………………………………………………………………..21
1.3. Cụm từ cố định .................................................................................................................. 24
1.3.1 Khái niệm về cụm từ cố định…………………………………………………………...24
1.3.1 Phân loại cụm từ cố định………………………………………………………………..24
1.4. Ngữ cố định định danh…………………………………………………………………...28
Chƣơng 2 KHẢ NĂNG TẠO TỪ VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CHỈ MÀU SẮC
“TRẮNG” VÀ “ĐEN” TRONG TIẾNG VIỆT ................................................................... 30
2.1. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt ............................. 31
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt ........................... 37
2.2.1 Đặc điểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu trắng ……………………………………………..39
2.2.2. Đặc diểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu "đen"…………………………………………….43
Chƣơng 3 ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CÁC CỤM TỪ CỐ ĐỊNH

CHỈ MÀU SẮC “TRẮNG” VÀ “ĐEN” TRONG TIẾNG VIỆT ....................................... 49
3.1. Đặc điểm cấu tạo của các cụm từ cố định chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt 49
3.1.1 Đặc điểm cấu tạo của cụm từ cố định chỉ màu "trắng"…………………………………50
3.1.2 Đặc điểm cấu tạo của các cụm từ cố định chỉ màu "đen"………………………………52
3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng
Việt ........................................................................................................................................... 52
3.2.1. Ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu "trắng" trong tiếng Việt………………….53
3.2.2. Ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu "đen" trong tiếng Việt…………………...58
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Màu sắc là yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Màu sắc tồn tại
trong thế giới vật chất, được phản ánh qua nhận thức tri giác và gắn bó với đời sống
tinh thần của con người.,. Các sự vật trong thế giới tự nhiên tạo thành một thế giới
muôn hình, muôn vẻ, muôn sắc màu, màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại
một cách khách quan trong thế giới vật chất mà thị giác con người có thể nhận biết
được. Màu sắc có được là do ánh sáng quang phổ tác động vào mắt bằng các trực giác
quang phổ của cơ quan hấp thụ ánh sáng. Sự vật có màu khác nhau là do chúng có tần
số ánh sáng khác nhau, còn sắc là trạng thái màu của sự vật, mỗi màu có một sắc thái
riêng. Các loại màu sắc và các chỉ định về vật lí của màu sắc cũng có liên quan đến
các vật thể, vật liệu, các nguồn sáng…, chúng được dựa vào các đặc tính tự nhiên như
hấp thụ, sự phản chiếu hoặc sự phát ra quang phổ… Mỗi dân tộc trên thế giới tri nhận
và chia cắt thế giới khách quan theo một cách riêng, vì vậy cũng cảm nhận màu sắc
trong tự nhiên và đánh dấu cho chúng bằng một hệ thống chỉ màu sắc riêng biệt.
Sự nhận thức và phân biệt màu sắc hoàn toàn có tính chất chủ quan đối với từng
cộng đồng người nhất định. Trong các ngôn ngữ khác nhau, người ta phân chia dải
màu và ghi nhận các sắc độ, sắc thái về màu sắc theo những cách riêng khác nhau.Vì

thế, hệ thống tên gọi màu sắc của các ngôn ngữ cũng không giống nhau. Vấn đề này đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có cả những nhà ngôn ngữ học.
Những từ chỉ màu là một bộ phận của từ vựng. Chúng có một vị trí đặc biệt, phản ánh
thuộc tính riêng của sự vật và là một bộ phận có cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ pháp riêng
trong cấu trúc chung của từ loại. Chính vì vị trí và vai trò của chúng, những vấn đề về
từ chỉ màu đã được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu, xem xét và phân tích từ trên
100 năm nay. Trong khoa học liên ngành, màu sắc đã được nghiên cứu dưới các góc
độ đa ngành như: triết học, tâm lý học, vật lý học, và đặc biệt là ngôn ngữ học. Ngày
nay, trong xu thế nghiên cứu liên ngành về khoa học xã hội, mối quan hệ giữa bộ ba
ngôn ngữ, văn hóa và tư duy ngày càng được các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Ngôn
ngữ là chất liệu truyền tải văn hóa, mà văn hóa là cái được hàm chứa trong ngôn ngữ.
Sự sáng tạo về văn hóa thường không thể tách rời ngôn ngữ, còn sự biến đổi và phát
1


triển của ngôn ngữ lại luôn đi song song với sự biến đổi và phát triển của văn hóa. Các
nhà khoa học đều thừa nhận rằng, giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ dân tộc và văn
hóa dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, chúng phát triển trong sự qua lại lẫn
nhau. Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên cách suy nghĩ
và tiếp cận thế giới của con người, thậm chí ngôn ngữ còn quyết định cách con người
tư duy về thế giới. Việc định danh lớp từ vựng chỉ màu sắc và cơ sở ngữ nghĩa của
chúng cũng không nằm ngoài quy luật nhận thức và tri nhận nói trên.
Các nhà nghiên cứu khi xem xét các biến thể ngôn ngữ trong hệ quang phổ màu
sắc đã nhận ra rằng, mặc dù số lượng từ ngữ chỉ màu sắc trong mỗi ngôn ngữ là khác
nhau, mỗi ngôn ngữ có thể hạn chế số lượng từ vựng gọi tên cho màu sắc cụ thể đó,
song cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ đó vẫn nhận ra sự khác biệt. Đặc trưng văn
hóa dân tộc được thể hiện rõ thông qua việc chọn ý nghĩa biểu trưng của các sắc màu
trong từng nền văn hóa. Ở các quốc gia khác nhau, các nền văn hóa khác nhau, ngữ
nghĩa và ý nghĩa biểu trưng của hai màu trắng và đen thể hiện các ý nghĩa khác nhau.
Ví dụ trong tiếng Việt, màu đen thường thể hiện cho màu tang tóc, sự kém may mắn,

hoặc cái chết; màu trắng là màu của tang tóc, hoặc tượng trưng cho sự trinh trắng, tinh
khôi; nhưng ở các quốc gia châu Âu, màu đen là màu của sự lịch lãm, sức mạnh và
quyền lực; màu trắng là màu của sự trinh nguyên, tinh khôi.
Hai tính từ chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt có số lượng không
nhỏ và mang ý nghĩa vô cùng đa dạng trong nhiều phong cách văn bản, đặc biệt là
trong phong cách ngôn ngữ khẩu ngữ và ngôn ngữ văn chương. Vì thế, việc nghiên
cứu đặc trưng ngữ nghĩa của từ, ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ “trắng” và “đen”
trong tiếng Việt mang ý nghĩa khoa học nhất định, góp phần làm rõ đặc điểm ngữ
nghĩa, giá trị biểu trưng và đặc điểm tri nhận của nhóm từ này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Nghiên cứu về từ chỉ màu sắc ở nước ngoài
Ngày nay khi Khoa Sắc học (Colour science) đã phát triển mạnh mẽ với những
tên tuổi như Kandinsky, Herbin và Henri Pfeiffer thì hệ ý nghĩa biểu trưng về màu sắc
càng được nâng cao giá trị. Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa khác nhau sẽ có những cách
xem xét màu sắc theo các cách khác nhau. Trong hầu hết các nền văn hóa châu Á, màu
2


vàng được xem như màu của vua chúa, hoàng đế; còn phương Tây là màu tím. Đối với
Trung Quốc, màu đỏ là biểu tượng cho lễ tết, sự may mắn, thịnh vượng; màu trắng
tượng trưng cho sự tang tóc, chết chóc. Ở Châu Âu, màu sắc được liên tưởng mạnh mẽ
đến các đảng phái chính trị. Nhiều nước xem màu đen là biểu tượng của Đảng Bảo thủ,
màu đỏ là biểu tượng của Đảng Cộng sản, màu nâu là biểu tượng của Phát xít. Trong
một số ngôn ngữ, màu xanh dương được dùng với rất nhiều nghĩa tích cực. Các nghiên
cứu cho thấy hầu hết màu sắc có sự liên tưởng theo hướng tích cực nhiều hơn theo
hướng tiêu cực; thậm chí khi nó có hướng liên tưởng tiêu cực thì cũng chỉ được sử dụng
trong những ngữ cảnh đặc biệt. Vì vậy, màu sắc là một trong những biểu tượng mang tính
phổ quát, không chỉ ở phương diện địa lý mà còn ở mọi khía cạnh nhận thức: vũ trụ, tâm
lý, tôn giáo, ngôn ngữ…[15]. Gần đây nhất, Paul Kay - nhà nghiên cứu ngôn ngữ thuộc
trường Đại học California ở Berkeley – khi nghiên cứu về màu sắc đã đưa ra một nhận

định quan trọng là quá trình nhận biết màu sắc bắt đầu từ phần não bên phải và truyền
sang bên trái thông qua sự tiến triển của ngôn ngữ, đồng thời những nhận thức màu sắc
của chúng ta được liên kết chặt chẽ với ngôn ngữ của chúng ta.
Nghiên cứu màu sắc dưới góc độ tâm lý học, G. Alen và U.Mac (người Anh),
Dugan. H (người Mỹ) đã đưa ra ý tưởng về sự khác biệt của hệ thống màu sắc với
nguồn gốc văn hóa xã hội. Qua nghiên cứu của mình, các nhà tâm lý học đã chứng
minh rằng màu sắc là một tồn tại, phản ánh nhận thức của con người ở các dân tộc
khác nhau, nói các thứ tiếng khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Mối quan
tâm đến màu sắc nảy sinh ở loài người trải qua quá trình lao động và sinh hoạt cộng
đồng, và những từ ngữ chỉ màu sắc dần xuất hiện trong ngôn ngữ. Nhận thức về màu
sắc tương đồng ở các cộng đồng ngôn ngữ. Từ ngữ chỉ màu sắc đóng vai trò quan
trọng trong từng nền văn hóa khác nhau.
Nghiên cứu màu sắc dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa, Brent Berlin và Paul Kay đã
kết hợp giữa tính khái niệm và tính thực tiễn, liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa
màu sắc và văn hóa. Từ sự khái quát thực tế 78 ngôn ngữ khác nhau, Brent Berlin và
Paul Kay kết luận: Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có 2 từ chỉ màu đen và màu trắng, có 3
từ thì có thêm màu đỏ, có 4 từ thì có thêm màu xanh lá hoặc vàng, có 5 từ thì thêm cả
màu xanh lá và vàng, có 6 từ thì thêm màu xanh da trời, có 7 từ thì có thêm màu nâu,
3


có trên 7 từ thì có thêm màu tím, hồng, da cam, xám hoặc hỗn hợp những màu này.
Nghiên cứu màu sắc dưới góc độ ngôn ngữ học, tác giả Micheal Quinion trong
bài viết “Những tên gọi nhất thời của màu sắc” (The fugitive names of hues) đã nghiên
cứu từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Anh bằng phương pháp từ nguyên học. Ông đã xác định
màu từ màu xanh da trời (blue) bắt nguồn từ tiếng Pháp, xanh lá cây (green) có cùng
gốc với “grow” và xuất xứ từ tiếng Đức, màu đỏ (red) được vay mượn từ tiếng Hy
Lạp, màu hồng (pink) cùng gốc từ với tiếng Hà Lan,… Trong Từ điển biểu tượng văn
hóa thế giới, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã trình bày khá chi tiết về biểu
tượng màu sắc của các nước trên thế giới, chủ yếu là phương Tây.

2.2. Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những vấn đề về từ chỉ màu đã được các nhà nghiên cứu đem ra
xem xét và phân tích trên 100 năm nay. Nguyễn Khánh Hà (1995) “Hệ thống từ chỉ
màu sắc trong Tiếng Việt” đã thống kê và lập một bảng từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng
Việt, phân loại chúng, sắp xếp chúng thành hệ thống và phân tích ý nghĩa từ vựng và
bối cảnh sử dụng chúng. Qua đó tác giả đã làm sáng tỏ những mối liên hệ của chúng
với văn hóa truyền thống. Trên cơ sởhệ thống hóa các từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
trên dưới góc độ ngôn ngữ và văn hóa, luận văn đãchỉ ra những đặc điểm của các lớp
từ chỉ màu sắc như: lớp từ chỉ màu cơ sở, lớp từ chỉ màu thứ cấp vàlớp từ chỉ màu đặc
trưng; đặt trong mối tương quanso sánh để tìm ra mối quan hệ và kết cấu giữa các lớp
từ này. Tuy nhiên, luận văn chưa đi sâu vào đặc điểm tạo từ, tạo cụm từ chỉ màu sắc
cũng như làm rõ con đường chuyển nghĩa của các từ chỉ màu sắc trong ngữ cảnh sử
dụng, đặc biệt, luận văn cũng chưa khai thác giá trị biểu trưng của các thành ngữ có
chứa từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, để tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của ngôn ngữ,
văn hóa, tư duy dân tộc đến việc sử dụng chúng.
Chu Bích Thu (1996) trong luận án tiến sĩ “Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính
từ tiếng Việt hiện đại” cũng đã sử dụng phương pháp thành tố nghĩa để phân tích các
nhóm tính từ trong đó có nhóm tính từ chỉ màu sắc [78]. Tuy nhiên, trong luận án, khi
đề cập đến tính từ chỉ màu sắc, tác giả mới chỉ dừng lại ở chỗ phân tích cấu trúc ngữ
nghĩa của nhóm tính từ này.Trịnh Thị Minh Hương (2009) trong luận văn thạc sĩ
“Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những
4


văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương)” đã nghiên cứu phương thức tạo
tính biểu trưng cho các từ ngữ chỉ màu sắc, nêu được một số điểm tương đồng và khác
biệt trong cách tri nhận về các nhóm màu và hàm nghĩa biểu trưng được thể hiện trong
từ ngữ chỉ màu sắc trong phạm vi hoạt động là thành ngữ [47]. Với mục đích hướng
vào tính biểu trưng của từ chỉ màu sắc, nên tác giả không đi sâu vào bình diện ngôn
ngữ văn hóa của từ, cũng như chưa đi vào nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa văn hóa của

thành ngữ tục ngữ có chứa từ ngữ chỉ màu sắc. Trương Thị Sương Mai (2012) trong
luận văn thạc sĩ “Đặc trưng ngôn ngữ- văn hóa Việt qua thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ
màu sắc (so sánh với tiếng Anh)” đã dựa trên cứ liệu là thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ
màu sắc trong tiếng Việt, tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ văn hoá của người Việt đặt
trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Anh, từ đó tìm ra mối quan hệ mật thiết giữa ngôn
ngữ và văn hoá và góp phần làm rõ vấn đề hàm nghĩa văn hoá thể hiện qua ngôn ngữ
[54]. Bùi Thị Thùy Phương (2004) nghiên cứu các từ chỉ màu sắc đỏ, vàng, đen, trắng,
xanh và hàm nghĩa văn hóa của chúng trong tiếng Hán (đối chiếu với các từ tương ứng
trong tiếng Việt) [66]. Nguyễn Thị Hải Yến (2007) nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc
tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt [93]. Phương Thần Minh (2005), so sánh từ ngữ chỉ
màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt [56]. Nguyễn Hoàng Phương Linh (2014),
nghiên cứu về các thành ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt, tập trung vào
một số thành ngữ có chứa một số màu cơ bản như đỏ, vàng, xanh da trời và hai màu
đen, trắng nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt trong cách sử dụng của các
thành ngữ này trong hai ngôn ngữ và tìm ra các lỗi mà trong quá trình học tiếng Anh
sinh viên thường gặp phải [53]. Trịnh Thị Thu Hiền (2015) đã khảo sát hai từ chỉ màu
sắc trong tiếng Việt là xanh và đỏ cùng các từ phái sinh của hai từ này trong từ điển và
trong ca dao, từ đó làm sáng tỏ những đặc điểm ngữ nghĩa cơ bản như nội dung ngữ
nghĩa, sự biến đổi nghĩa, những hướng biểu trưng của chúng, cũng như khả năng hoạt
động của chúng trong ngôn ngữ và trong thực tế ngôn ngữ là ca dao Việt Nam [41].
Trần Thị Thùy Hương (2016) có nghiên cứu về nhóm từ ngữ chỉ màu sắc phụ của hai
màu xanh và đỏ trong tiếng Việt và làm rõ những đặc trưng về cấu trúc, ngữ nghĩa của
nhóm từ này [48].Các bài viết nghiên cứu về màu sắc khá nhiều, có thể kể đến: Trần
Thị Thu Huyền với bài viết “Hoa cỏ và màu sắc trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng
5


Việt”, (Ngôn ngữ và đời sống, số 12, 2001) đã nêu ra những nhận xét mang tính khái
quát từ những điểm tương đồng về hình thức đến những điểm tương đồng và dị biệt
trong nhận thức của hai dân tộc về “màu sắc, hoa, cỏ” trong thành ngữ - tục ngữ do

xuất phát từ hai nền văn hóa khác nhau [49,35 – 36]. Phạm Văn Tình với các bài viết:
Hai từ xanh và xanh xanh; Phấn trắng, bảng đen, tóc trắng- hình tượng đẹp về người
thầy (Tiếng Việt từ cuộc sống), 2004 [78]; Lê Thị Vy với Đặc trưng văn hóa dân tộc
thể hiện qua các từ chỉ màu sắc (Ngôn ngữ và Đời sống số 6), 2006 [91]. Các bài viết
này đã đề cập đến một màu (hoặc nhiều màu) như biểu tượng của văn hóa hoặc nét đặc
thù của dân tộc. Từ đó các tác giả nêu lên mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực tại
khách quan, ngôn ngữ và văn hóa, tuy nhiên, vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu ảnh
hưởng của ngôn ngữ và văn hóa đến cách sử dụng các từ chỉ màu sắc như thế nào.
Trong “Đặc trưng âm thanh và màu sắc trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng
Tám” (khóa luận tốt nghiệp ĐH Sư phạm TPHCM 1996), Lê Thị Thanh Điệp đã bàn
về ý nghĩa của các từ chỉ màu sắc trong thơ Xuân Diệu [25]; Biện Minh Điền, với bài
viết Về tính từ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn Khuyến (Ngôn ngữ số 7- 2000) đã thống
kê tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ và câu đối của Nguyễn Khuyến và đã xác định tỉ
lệ màu sắc tươi chiếm ưu thế, đặc biệt là cách dùng màu xanh và màu trong [24,48 -

55]; tương tự, trong bài Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Thị Thành Thắng
(Ngôn ngữ số 11-2001) đã khái quát được sự đa dạng về nghĩa của cùng một màu
xanh, từ đó, nêu bật vài điểm trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính [74];
Năm 2005, trong công trình Một số vấn đề về kí hiệu học (Đề tài khoa học cấp Đại học
Quốc gia), Nguyễn Đức Dân có một phần đề cập đến màu sắc như một biểu tượng
mang tính phổ quát trong một số nghi thức văn hóa, tôn giáo trên thế giới [20]. trong
nghiên cứu của mình có một phần đề cập đến màu sắc như một biểu tượng mang tính
phổ quát trong một số nghi thức văn hóa, tôn giáo trên thế giới. Đây chính là hướng
tiếp cận màu sắc dưới góc độ ký hiệu học, là một hướng nghiên cứu mà rất nhiều nhà
ngôn ngữ học trên thế giới tiếp cận và khai thác. Trên Ngôn ngữ và Đời sống số 8 năm
2006, Hà Thị Thu Hoài viết Từ chỉ màu sắc để miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm
Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã phân tích nét
đặc sắc sáng tạo trong việc tạo ra nhiều sắc độ của màu trắng, đỏ, vàng trên những
6



trang văn Tô Hoài [45,9-12]. Nguyễn Văn Trào (2014) trong bài viết “Bàn về dịch
thành ngữ Anh-Việt (trên cơ sở ngữ liệu các thành ngữ có yếu tố màu sắc xanh, đen,
đỏ, trắng)”, (Ngôn ngữ và Đời sống, số 7 (225)-2014) đã đưa ra chiến lược dịch các
thành ngữ có yếu tố màu sắc sao cho ý nghĩa của thành ngữ ở ngôn ngữ nguồn đảm
bảo được dịch sát nghĩa hoặc được thể hiện tương đương ở ngôn ngữ đích, trong đó tác
giả có đưa ra năm cách dịch như: Dùng một thành ngữ tương đương về nghĩa và hình
thức ở ngôn ngữ đích; Sử dụng thành ngữ giống nhau về nghĩa nhưng khác nhau về
cấu trúc; Dịch thành ngữ bằng cụm từ không mang tính thành ngữ; Dịch bằng việc giải
thích thành ngữ; Dịch vay mượn hoặc sao phỏng [87].
Với hai tính từ chỉ màu trắng đen, Trần Thị Thu Phượng trong luận văn thạc sĩ
ngôn ngữ năm 2016 đã nghiên cứu và đưa ra những đặc điểm của 2 từ chỉ màu này
trong tiếng Hàn (có so sánh với tiếng Việt) [67]. Đào Mạnh Toàn (2015), Đối chiếu
cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ hồng, đỏ trong tiếng Việt với các từ 红, 赤
trong tiếng Hán hiện đại [85]. Ngô Thị Khánh Ngọc (2015), có đối chiếu về các ý
nghĩa hàm ngôn của các từ chỉ màu sắc trong thành ngữ Tiếng Anh và tiếng Việt [59].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn khảo sát các từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai màu đen và trắng
trong tiếng Việt nhằm làm rõ những đặc trưng về cấu trúc, ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng
của nhóm từ ngữ này, tìm ra mối liên hệ giữa bộ ba ngôn ngữ, văn hóa và tư duy.
Kết quả nghiên cứu sẽ phục vụ cho thực tiễn giảng dạy tiếng Việt nói chung, cho
những người nước ngoài học tiếng Việt nói riêng. Kết quả nghiên cứu cũng góp phần
giải thích sự cảm nhận màu sắc qua ngôn ngữ, văn hóa của người Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
- Dựa trên cơ sở các lý thuyết ngữ nghĩa đã học, luận văn khảo sát các từ ngữ chỉ
màu sắc và màu sắc phụ của hai màu đen và trắng trong tiếng Việt, để xác lập phạm trù
chỉ màu sắc phụ của nhóm từ ngữ này trong tiếng Việt ở mức độ toàn diện nhất có thể,

với những đặc điểm hình thức, ngữ nghĩa của chúng. Qua đó, luận văn làm rõ tiêu chí
7


xác định các từ chỉ màu sắc phụ trong tiếng Việt. Luận văn cũng đặt nhiệm vụ khai thác
nghĩa gốc, nghĩa phái sinh và nghĩa biểu trưng của nhóm từ này để thấy được việc nhận
thức và phản ánh sự nhận thức về màu sắc của người Việt với thế giới xung quanh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là những từ và ngữ
chỉ màu và màu sắc phụ của hai tính từ “trắng” và “đen” trong tiếng Việt.
- Phạm vi nghiên cứu: các đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của từ và ngữ chỉ màu
sắc và màu sắc phụ của hai tính từ “trắng” và “đen” trong tiếng Việt dưới góc nhìn của
ngôn ngữ, văn hóa và tư duy.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chính sau:
- Thủ pháp thống kê, phân loại: Mục đích của thủ pháp này nhằm thống kê và
phân loại tất cả các từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai tính từ đen và trắng
trong tiếng tiếng Việt, tiến hành phân loại dựa trên những cơ sở, tiêu chí cụ thể, để từ
đó đi vào khảo sát các đặc điểm về cấu trúc và nội dung của từng nhóm.
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa : Phương pháp này được sử dụng
nhằm phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa của các từ, ngữ chỉ màu sắc, màu sắc phụ của
hai tính từ đen và trắng trong tiếng Việt, tìm ra các nét nghĩa trong các ngữ cảnh sử
dụng khác nhau cũng như chỉ ra vai trò của các từ ngữ này trên bình diện hoạt động
của chúng.
- Phương pháp miêu tả: Miêu tả nghĩa các từ, ngữ chỉ màu và màu sắc phụ của
hai tính từ đen và trắng trong tiếng Việt nhằm phát hiện các đặc điểm ngữ nghĩa và
giá trị biểu trưng của chúng.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có đóng góp trên phương diện lý luận về
ngữ nghĩa nói chung, đặc biệt lý giải đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt qua
mảng từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ qua nghiên cứu trường hợp hai tính từ chỉ
màu sắc đen và trắng.
8


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn đưa ra một cái nhìn tổng thể về từ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của
hai tính từ đen và trắng trong tiếng Việt, bao gồm các đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa,
các phương thức chuyển nghĩa và giá trị biểu trưng của từng từ, ngữ trong sử dụng.
- Kết quả của luận văn có thể được ứng dụng cho việc học tập và giảng dạy
tiếng Việt trong nhà trường và cho người nước ngoài học tiếng Việt về mảng từ ngữ
chỉ màu sắc. Bên cạnh đó, có thể góp phần làm rõ mối quan hệ giữa bộ ba ngôn ngữ,
văn hóa và tư duy.
- Kết quả của luận văn còn có thể được ứng dụng cho việc biên soạn từ điển
giải thích, đối với lớp từ ngữ chỉ màu sắc phụ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết.
Chương 2: Khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc “trắng” và “ đen”
trong tiếng Việt.
Chương 3: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu sắc “
trắng” và “đen” trong tiếng Việt.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Một số khái niệm về từ ngữ và từ ngữ chỉ màu sắc
1.1.1. Khái niệm về từ
Theo F. De Sausure thì “Từ mặc dù khó định nghĩa, vẫn là một đơn vị trung tâm
trong toàn bộ cơ cấu của ngôn ngữ [68]
Các nhà ngôn ngữ học Châu Âu cho rằng bất cứ ngôn ngữ nào cũng bao gồm ba
bộ phận phân biệt nhau là thành phần cấu tạo âm thanh, các phương tiện từ vựng, các
phương tiện ngữ pháp và đề cập đến những kiểu đơn vị ngôn ngữ sau: âm vị, hình vị,
từ, cụm từ, câu. Nhưng ngôn ngữ học truyền thống Châu Âu đã nêu các kiểu từ sau
đây: từ đơn, từ phái sinh, từ phức, từ ghép và từ láy. Từ đơn là từ chỉ có một hình vị
chính tố, từ phái sinh là từ gồm có chính tố kết hợp với phụ tố cấu tạo từ, từ phức là từ
có hai chính tố trở lên kết hợp với nhau, từ ghép là những từ được cấu tạo bằng cách
ghép hai hoặc hơn hai từ độc lập, từ láy là từ được cấu tạo bằng cách lặp lại thành
phần âm thanh của một hình vị hoặc một từ. Từ láy phổ biến ở các ngôn ngữ Đông
Nam Á. [80]
Theo F. De Sausure, từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng của chúng ta
như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ, mặc dù khái niệm này khó
định nghĩa. [68]
Các nhà ngôn ngữ học đã dùng thuật ngữ từ để gọi những hiện tượng khác nhau
nhưng có quan hệ với nhau. Ít nhất có năm quan niệm khác nhau về cái được gọi là từ.
Đó là: (1) Từ chính tả: Là khoảng cách giữa hai chỗ trống trên chữ viết; (2) Từ từ điển
học: Là đơn vị mà căn cứ vào các đặc điểm ý nghĩa của nó phải xếp riêng trong từ
điển; (3) Từ ngữ âm: Là nhóm các hình vị được thống nhất bởi hiện tượng ngữ âm nào
đó như trọng âm, sự hài hòa nguyên âm, sự biến đổi của các âm tố nào đó trong phạm
vi một từ… (4) Từ biến hình: Là một phức thể luôn luôn gồm hai phần: một phần có
nghĩa là đối tượng, còn phần kia biểu thị mối liên hệ của từ đó đối với các từ khác
trong câu. Tiếng Việt không có từ biến hình; (5) Từ hoàn chỉnh: Là nhóm các hình vị
không thể tách hoặc hoán vị các hình vị đó mà lại không làm thay đổi ý nghĩa của
chúng hoặc không vi phạm mối liên hệ giữa chúng [34].
10



Các tác giả cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học coi từ là “ Đơn vị
cấu trúc – ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ dùng để gọi tên các sự vật và các thuộc tính
của chúng, các sự vật, các hiện tượng, các quan hệ của thực tiễn, là tổng thể các dấu
hiệu ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp đặc trưng cho từng ngôn ngữ” [92].
Định nghĩa từ của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê: “Từ là âm có nghĩa, dùng
trong ngôn ngữ để diễn tả một ý nghĩa đơn giản nhất, nghĩa là ý không thể phân tích ra
được” [16].
Nguyễn Kim Thản cho rằng: “Từ là một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách
khỏi các đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn
chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng hoặc ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp” [69].
Định nghĩa của Hồ Lê: “Từ là đơn vị ngữ ngôn có chức năng định danh phi liên kết
hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có tính
vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về nghĩa” [33].
Theo Nguyễn Thiện Giáp, “Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn
ngữ. Do tính chất hiển nhiên, có sẵn của các từ mà ngôn ngữ của loài người bao giờ
cũng được gọi là ngôn ngữ của các từ. Chính tổng thể cả các từ là vật liệu xây dựng
mà thiếu nó thì không thể hình dung được một ngôn ngữ. Có thể chấp nhận một định
nghĩa chung về từ như sau: Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và
hình thức” [33].
Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình thức và mặt ý
nghĩa. Mặt hình thức theo chúng tôi, là một hợp thể của một số thành phần: thành phần
của ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn gọi là cấu trúc của từ) và
thành phần ngữ pháp” [8, 21].
Theo khái niệm về từ của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi cho rằng: Từ là một đơn vị
hai mặt là mặt hình thức và mặt nội dung. Mặt hình thức là một hợp thể của một số
thành phần: thành phần của ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn
gọi là cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp.
1.1.1.1 .Phương thức cấu tạo từ
Theo Đỗ Hữu Châu (Đỗ Hữu Châu – 1999, Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt,

NXB Giáo dục) về nguyên tắc, do những ảnh hưởng và tác động của xã hội, lớp từ
11


vựng trong mỗi ngôn ngữ luôn vận động, để sản sinh và làm giàu vốn từ vựng của
ngôn ngữ mình để phục vụ những nhu cầu diễn đạt mới, những nhu cầu giao tiếp mà
xã hội đặt ra. Các từ mới được sinh ra cũng đồng thời kéo theo các nghĩa mới. Chúng
làm phong phú thêm vốn từ vựng và giúp con người có thể dễ dàng diễn đạt những suy
nghĩ của mình. Vận động cấu tạo từ không phải chỉ để tạo ra một từ riêng lẻ mà là để
tạo ra một loạt các từ cùng kiểu. Trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình
thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất, được gọi là hình vị. Các hình vị được dùng để cấu tạo
ra các từ theo các phương thức cấu tạo của từ tiếng Việt, hay dựa trên các phương thức
tạo từ, ngôn ngữ tác động vào các hình vị để sản sinh ra các từ. Trong tiếng Việt,
chúng ta có ba phương thức cấu tạo từ là từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị.
Trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ
nhất, được gọi là hình vị. Các hình vị được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương
thức cấu tạo của từ tiếng Việt, hay dựa trên các phương thức tạo từ, ngôn ngữ tác động
vào các hình vị để sản sinh ra các từ.
Theo Đỗ Hữu Châu (1999), tiếng Việt có ba phương thức cấu tạo từ là từ hóa
hình vị, ghép hình vị và láy hình vị [8, 21].
Phương thức hóa từ hình vị là phương thức tác động trực tiếp vào hình vị để
tạo cho nó các đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà
không thêm bớt gì vào hình thức của hình vị. Phương thức ghép là phương thức kết
hợp hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa để tạo ra một từ mới mang đặc điểm ngữ
pháp và ý nghĩa như một từ. Phương thức thứ ba là phương thức láy. Phương thức
này tác động vào một hình vị cơ sở để sinh ra một hình vị láy giống nó toàn bộ hay
bộ phận về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ, hay có đặc
điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ.
Ngoài ba phương thức tác động vào hình vị trên, ta còn gặp phương thức tạo từ
theo lối chuyển nghĩa một từ đã sẵn có. Phương thức chuyển nghĩa không tạo ra từ mới

mà chỉ tạo ra ý nghĩa của hình vị đóng vai trò hết sức quan trọng trong chức năng này.
Tuy nhiên, xét theo khả năng cấu tạo thì từ có những hình vị có khả năng cấu tạo từ
cao, tức là nó có thể tạo ra một số lượng từ lớn hơn và có thể đi vào nhiều phương thức
cấu tạo hơn. Vì vậy, có thể nói hình vị là yếu tố đầu tiên, yếu tố gốc để cấu tạo từ.
12


Khi nghiên cứu để phân loại từ đã có một số ý kiến khác nhau. Phần lớn tác giả
đều căn cứ vào số lượng hình vị để chia thành từ đơn và từ kép (từ phức hợp). Các từ
phức hợp lại được chia thành từ láy và từ ghép. Căn cứ vào quan hệ cú pháp, từ ghép
lại được chia thành ghép đẳng lập và ghép chính phụ. Khi phân loại các từ về mặt cấu
tạo, cần phải chú ý đến tất cả các yếu tố tham gia cấu tạo từ. Phân loại từ không chỉ là
để sắp xếp các từ thành loại mà còn để phát hiện ra cách thức cấu tạo, tạo điều kiện
cho quá trình nhận thức từ. Do vậy, nói một cách đơn giản, chúng ta có thể phân chia
từ tiếng Việt về mặt cấu tạo thành từ đơn và từ phức, trong đó từ phức bao gồm từ láy
và từ ghép. Từ đơn được tạo thành từ phương thức từ hóa, từ láy từ phương thức láy và
từ ghép từ phương thức ghép. Từ việc phân loại này, chúng ta có thể hình dung ra các
phương thức để sản sinh ra từ mới từ từ đơn gốc trong tiếng Việt.
1.1.2. Nghĩa của từ
1.1.2.1. Khái niệm về nghĩa của từ
Theo Richmond H. Thomason (1966), ngữ nghĩa học là việc nghiên cứu nghĩa
trong phạm vi ngôn ngữ học. Ngôn ngữ có thể là ngôn ngữ tự nhiên của con người
hay ngôn như nhân tạo như ngôn ngữ chương trình máy tính. Các nhà ngôn ngữ học
chủ yếu nghiên cứu nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Trên thực tế, ngôn ngữ học là
một trong những nhánh chính của ngôn ngữ học đương thời. Các nhà nghiên cứu
logic học và các nhà khoa học máy tính luôn nghĩ đến việc nghiên cứu ngôn nhữ
nhân tạo. Ở một số phạm vi của khoa học máy tính, sự phân chia này có chồng
chéo. Như, trong việc dịch về máy móc, các nhà khoa học máy tính muốn sự dụng
ngôn ngữ tự nhiên để giải thích.
Theo Leech (1990), ngôn ngữ học là trung tâm của việc nghiên cứu giao tiếp và

giao tiếp càng ngày càng trở nên là một yếu tố mang tính chất quyết định hệ thống xã
hội. Ngữ nghĩa học là trung tâm nghiên cứu suy nghĩ của con người, đó là quá trình
suy nghĩ, nhận thức, khái niệm hóa.
Theo tác giả Goddard C. và Wierzbicka A. (2014), ngữ nghĩa cũng được xem là
một thành phần của ngôn ngữ học hơn là một quan điểm về ngôn ngữ và ngôn ngữ
học. Tuy nhiên, ý nghĩa chính là tất cả những gì ngôn ngữ diễn đạt. Đối với hầu hết
người dùng ngôn ngữ - người nói và người nghe, nhà văn và người đọc – từ là luôn
13


luôn sống và “ xanh”, trong khi các hình thức, biểu tượng và các công thức trừu tượng
có thể dần dần mất đi hoặc không được dùng nữa.
Theo các nhà Việt ngữ học, nghĩa của từ là một trong những khái niệm quan
trọng nhất. Song để xác định được nghĩa của từ và cơ sở nào để xác nhận định nghĩa là
một việc khó. Vì vậy khi nghiên cứu về nghĩa của từ, các nhà ngôn ngữ có các khái
niệm khác nhau. Theo Nguyễn Thiện Giáp “Nghĩa của từ (cũng như ở các đơn vị ngôn
ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân đó. Hiểu nghĩa của một
đơn vị nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì” [33].
Theo ông, điều này có thể thấy rõ khi quan sát cách người lớn và trẻ con nắm
nghĩa của từ như thế nào. Đối với người lớn, khi muốn hiểu nghĩa của một từ nào đó
người ta tra từ điển còn trẻ con thì lại liên hệ âm thanh của từ với sự vật.
Theo tác giả, cần phân biệt nghĩa của từ với sự hiểu biết vì trong nhận thức của
con người không tồn tại bản thân nghĩa của các từ mà chỉ có sự hiểu biết, nghĩa của từ
tồn tại khách quan trong lời nói, còn trong nhận thức chỉ có sự phản ánh những nghĩa
đó mà thôi.
Ở Việt Nam tác giả Đỗ Hữu Châu chính là người nghiên cứu tập trung nhất về
nghĩa của từ. Theo ông, “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện
hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ”. Nói cụ thể hơn, “nghĩa của từ là hợp
điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố tạo nên nghĩa.
Trong số các nhân tố đó, có nhưng nhân tố ngoài ngôn ngữ và có những nhân tố nằm

trong ngôn ngữ” [11] .Theo ông, hai yếu tố ngoài ngôn ngữ là: Sự vật, hiện tượng của
thế giới khách quan, có thể thuộc thế giới nội tâm hoặc thế giới ảo tưởng và các hiểu
biết về nhân tố thứ nhất. Từ đó, Đỗ Hữu Châu đã ra hình tháp nghĩa hình học không
gian hay thế tam giác hình học, Đỗ Hữu Châu cho rằng: Ở đỉnh cao nhất của hình tháp
là từ (trừu tượng) với hai thành phần chính thức và ý nghĩa (trừu tượng). Hai phần này
quy định lẫn nhau và đều thuộc về từ. Ở mỗi đỉnh của đáy là từng nhân tố góp phần
làm thành ý nghĩa, lần lượt là sự vật, hiện tượng, những hiểu biết của nhân tố tư duy
(khái niệm); nhân tố người sự dụng (nhân tố lịch sử - xã hội); các chức năng tín hiệu
học, cấu trúc của ngôn ngữ. Số lượng các đỉnh của đáy sẽ tăng lên tùy theo số lượng
những nhân tố được phát hiện thêm. Có thể nói, ưu điểm của hình tháp này là, một mặt
14


tách được những thực thể đang xem xét (từ các nhân tố) ra khỏi nhau, đồng thời vạch
ra được mối quan hệ giữa chúng.
Theo tác giả Đỗ Việt Hùng (2013): “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần có
quan hệ ổn định với hình thứ từ” [46, 37].
Như vậy, qua những định nghĩa trên, có thể nhận thấy căn cứ để định nghĩa và
nhận biết căn cứ từ đều được các nhà nghiên cứu xuất phát từ khái niệm tín hiệu và
tính hai mặt của tín hiệu theo lí thuyết của F. De Saussure. Theo Saussure, lưỡng phân
tín hiệu ngôn ngữ ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm thanh) và mặt được
biểu hiện (nội dung). Và ý nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai. Hai mặt này gắn bó với
nhay như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì cũng không có mặt kia.
Luận văn dựa vào khái niệm về nghĩa của từ của Đỗ Hữu Châu, cho rằng “Nghĩa
của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức lập thành một thể
thống nhất gọi là từ”. Cụ thể là “nghĩa của từ là hợp điểm, là kết quả của những nhân
tố và tác động giữa những nhân tố tạo nên nghĩa. Trong số các nhân tố đó, có nhưng
nhân tố ngoài ngôn ngữ và có những nhân tố nằm trong ngôn ngữ”. [11]
1.1.2.2. Các thành phần nghĩa của từ
Khi đưa ra hình tháp nghĩa hình học không gian, tác giả Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra

mối quan hệ giữa và các nhân tố góp phần hình thành ý nghĩa. Tác giả nhấn mạnh từ
mối quan hệ giữa từ và sự vật hình thành ý nghĩa biểu vật, từ mối quan hệ với cấu trúc
của ngôn ngữ với các từ khác sẽ hình thành các ý nghĩa, cấu trúc và quan hệ giữa ý
nghĩa với các thành phần hình thức mà hình thành các ý nghĩa cấu tạo từ, các ý nghĩa
ngữ pháp. Từ sự phân định trên của tác giả Đỗ Hữu Châu, ta thấy có hai thành phần
nghĩa lớn là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Trong đó, ý nghĩa từ vựng là ý
nghĩa của riêng từng từ, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa mang tính đồng loạt chung
cho nhiều từ. Cụ thể như sau:
1.1.2.3. Ý nghĩa từ vựng
Trong ngôn ngữ có những từ có chức năng định danh, hay còn gọi là khả năng
gọi tên cho các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất, quan hệ… trong thực tại khách
quan, ta gọi là các từ định danh (đen, trắng, đỏ,…). Bên cạnh các từ định danh, có các
từ không có khả năng gọi tên như trên mà chỉ vó vai trò thực hiện chức năng ngữ pháp
15


khác nhau khi tạo câu, tạo văn bản, ta gọi đó là các từ phi định danh (vì, nên, hoặc…).
Nghĩa của từ định danh không phải là một khối không phân hóa. Nó là một thể thống
nhất gồm bốn thành phần nghĩa: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa ngữ pháp, và
nghĩa biểu thái (nghĩa ngữ dụng). Trong đó ba thành phần nghĩa biểu vật, nghĩa biểu
niệm và nghĩa biểu thái gộp thành nghĩa từ vựng của từ. Vì vậy, hễ nói đến nghĩa từ
vựng của từ thì ta chỉ đề cập đến loại từ định danh. Dưới đây, ta sẽ lần lượt xem xét
từng thành phần nghĩa của từ.
a. Ý nghĩa biểu vật
Là thành phần của từ liên quan đến sự vật hoặc phạm vi sự vật mà từ đố được sử
dụng trong thế giới mà từ gợi ra khi ta tiếp xúc với nó. Ý nghĩa biểu vật ứng với chức
năng biểu vật. Nói cách khác, ý nghĩa biểu vật của từ là các ánh xạ của các sự vật,
thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ánh xạ của các sự vật, thuộc
tính trong thực tế được phản ánh vào ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với các ánh
xạ được phản ánh trong tự nhiên. Đó là nhưng mảnh, đoạn cắt của thực tế nhưng

không hoàn toàn trùng khớp với thực tế. Nghĩa là, ánh xạ trong ngôn ngữ có sự cải tạo
lại, sáng tạo lại những cái có trong thực tế.
b. Ý nghĩa biểu niệm
Là phần nghĩa của từ liên quan hiểu biết về ý nghĩa biểu vật của từ. Sự vật, hiện
tượng trong thực tế khách quan có các thuộc tính, các thuộc tính đó được phản ánh vào
tư duy và hình thành nên khái niệm. Vậy nên, khái niệm là một phạm trù của tư duy
được hình thành từ những hiểu biết trong thực tế. Đấy là những dấu hiệu bản chất về
sự vật, hiện tượng. Khi các dấu hiệu bản chất đó được phản ánh qua ngôn ngữ sẽ hình
thành nên nét nghĩa. Tập hợp các nét nghĩa đó trong ngôn ngữ chính là ý nghĩa biểu
niệm của từ. Như vậy, ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung
và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét
nghĩa có những quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu vật của
từ. Tập hợp các nét nghĩa phạm trù, khái quát chung cho nhiều từ được gọi là cấu trúc
biểu niệm. Khi đề cập đến ý nghĩa biểu niệm của từ, ta cần có sự phân biệt thành phần
nghĩa này với khái niệm. Khái niệm và ý nghĩa biểu niệm giống nhau ở chỗ chúng đểu
sử dụng những vật liệu tinh thần của tư duy. Khái niệm có vai trò quyết định đối với ý
16


nghĩa biểu niệm, không có khai niệm sẽ không có ý nghĩa biểu niệm. Tuy nhiên, khái
niệm không đồng nhất với ý nghĩa biểu niệm về mặt chức năng và tính phổ quát. Đó
là: Về chức năng, khái niệm có chức năng nhận thức, phản ánh những thuộc tính, bản
chất của sự vật, hiện tượng khách quan còn ý nghĩa biểu niệm có chức năng công cụ,
tổ chức lời nói. Về tính phổ quát, khái niệm có tính chất chân lý, chung cho nhân loại
trong khi ý nghĩa biểu niệm có tính dân tộc (có những ý nghĩa biểu niệm có mặt ở
ngôn ngữ này mà không có mặt ở ngôn ngữ nào khác).
c. Ý nghĩa biểu thái
Là phần nghĩa của từ liên quan đến thái độ, cảm xúc, cách đánh giá. Sự vật, hiện
tượng biểu thị trong ngôn ngữ đều là những sự vật, hiện tượng đã được nhận thức,
được trải nghiệm bởi con người. Do đó khi gọi tên sự vật, hiện tượng, con người

thường gửi kèm theo những cảm xúc, thái độ và cách đánh giá của bản thân vào ngôn
ngữ. Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân tố đánh giá, nhân tố
cảm xúc, nhân tố thái độ… mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. Do đó, ý nghĩa
biểu thái độ có vai trò quan trọng trong việc định hướng dùng từ trong hoạt động giao
tiếp cụ thể.
d. Ý nghĩa ngữ pháp
Theo Nguyễn Thiện Giáp (1998), khi nói đến ý nghĩa trong ngôn ngữ người ta
thường nghĩ ngay đến nghĩa riêng của từng đơn vị (từ, câu…). Ý nghĩa riêng của từng
từ được gọi là ý nghĩa từ vựng, còn ý nghĩa riêng của từng câu cũng thuộc phạm trù ý
nghĩa từ vựng vì nó do ý nghĩa từng vựng của các từ trong câu trực tiếp tạo nên. Bên
cạnh loại ý nghĩa trên, mỗi loại đơn vị còn có ít nhất một ý nghĩa chung bao trùm lên.
Có thể đưa ta một định nghĩa tóm lược những điểm chính yếu về ý nghĩa ngữ
pháp: Ý nghĩa ngữ pháp là loại ý nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngữ và được
thể hiện bằng những phương tiện ngữ pháp nhất định. Có nhiều hướng phân loại ý
nghĩa ngữ pháp.
1.1.2.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Để có thể phản ánh được cái vô hạn và không ngừng phát triển của các sự vật
trong đời sống cũng như sự phát triển của nhận thức con người, ngoài việc xuất hiện
các từ mới với nội dung và hình thức hoàn toàn mới, sự xuất hiện các nghĩa chuyển là
17


cách tiết kiệm nhất của ngôn ngữ để phản ánh sự phát triển không ngừng của thế giới
khách quan, đời sống và nhận thức của con người. Nguyễn Thiện Giáp đã chỉ ra “ sự
biến đổi và phát triển không ngững của đời sống, sự phát triển của nhận thức và sự
phát triển của hệ thống ngôn ngữ là ba nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chuyển nghĩa
– hiện tượng phái sinh ngữ nghĩa trong từ, khiến cho một từ có thể trở nên nhiều
nghĩa” (từ đa nghĩa). [34]
a. Nghĩa gốc
Nghĩa gốc hay còn gọi là nghĩa cơ bản hay nghĩa cơ sở được hiểu là nghĩa đầu

tiên hoặc nghĩa có trước, trê cở sở nghĩa đó mà người ta xây dựng nên nghĩa khác [18].
b. Nghĩa phái sinh (nghĩa chuyển )
Nghĩa phái sinh hay còn gọi là nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành dựa trên
cơ sở nghĩa gốc, vì vậy chúng thường có nghĩa có lí do, được nhận ra qua nghĩa gốc
của từ [18].
c. Mối quan hệ giữa nghĩa gốc và nghĩa phái sinh
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nghĩa của từ được xem như
một cấu trúc có thể tổ hợp từ các bộ phận, thành tố kết hợp thành, và ngược lại, cũng
có thể phân tích nghĩa ra thành các thành tố cấu tạo nên nó. Nói cách khác, nghĩa của
từ bao gồm các nét nghĩa được sắp xếp theo một trật tự nhất định, mang tính hệ thống.
Tính hệ thống và cấu trúc thể hiện tròn quan hệ giữa các nét nghĩa trong một nghĩa,
hay quan hệ giữa nghĩa gốc với các nghĩa phái sinh hoặc quan hệ giữa nghĩa của các từ
cùng loại, … Trong một từ nhiều nghĩa, luôn tồn tại nghĩa gốc (nghĩa cơ bản, nghĩa cơ
sở) và nghĩa phái sinh (nghĩa chuyển). Nghĩa gốc là nghĩa có trước. Còn nghĩa phái
sinh là các nghĩa được hình thành sau này và dựa trên nghĩa gốc. Việc xác định nghĩa
của từ, một mặt cần phải tách ra các nghĩa khác nhau, mặt khác phải làm sáng tỏ
những mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các nghĩa đó. Theo các nhà Việt ngữ
học, các nghĩa phái sinh có thể quan hệ trực tiếp với các nghĩa gốc hoặc cũng có thể
quan hệ gián tiếp với nghĩa gốc qua một ý nghĩa khác, song tất cả các nghĩa đều liên
hệ lẫn nhau và làm thành một hệ thống.
1.1.2.5. Các phương thức chuyển nghĩa cơ bản
Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của các từ, trong ngôn ngữ học có nhiều
18


cách. Tuy nhiên, có hai cách quan trọng nhất thường gặp trong các ngôn ngữ là cách
chuyển nghĩa ẩn dụ và chuyển nghĩa hoán dụ.
a. Ẩn dụ
Ẩn dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên sự liên tưởng so sánh nhưng
mặt, những thuộc tính… giống nhau giữa các đối tượng được gọi tên.

Ví dụ: Đàn bà dễ có mấy tay/Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan (thơ Nguyễn
Du), thì các từ tay, mặt, gan không mang nghĩa đen chỉ đối tượng (cái tay, khuôn mặt,
bộ gan) mà dùng để trỏ con người trong nghĩa bóng của nó, như vậy bộ phận của con
người được dùng để trỏ chính con người)
b. Hoán dụ
Hoán dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên mối liên hệ logic giữa các
đối tượng được gọi tên [18].
Định nghĩa này có thể được thuyết minh lại như sau:
Giả sử ta có từ T là tên gọi của đối tượng DD1 và từ này có nghĩa S1.
Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 mà giữa Đ2 và Đ1 có mối liên hệ logic
nào đó (như liên hệ giữa bộ phận với toàn thể; giữa nguyên liệu với sản phẩm tạo
thành chẳng hạn) thì người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả DD2. Lúc này từ T
được xây dựng thêm, được cấp thêm cho một nghĩa S2. Người ta bảo như thế là đã có
một phép chuyển nghĩa hoán dụ [18].
Ví dụ: nói vàng bạc đeo đầy người thì vàng, và bạc là chất liệu lại được hoán dụ
để trỏ đồ vật như nhẫn, hoa tai, dây chuyền v.v. của người đeo nó).
c. Nghĩa biểu trưng
Chức năng chính của ngôn ngữ là giao tiếp và công cụ của tư duy. Ý nghĩa biểu
vật là một trong những ý nghĩa chính của từ. Trong quá trình hành chức có khi ý nghĩa
biểu vật, tính trực quan của thông điệp trở nên mờ đi do một thông điệp khác tuy có
liên quan nhưng rộng lớn hơn, đi xa hơn, đó là nghĩa biểu trưng.
Theo Lê Quang Thiêm, trong ngôn ngữ có ba tầng nghĩa là tầng nghĩa trí tuệ,
tầng nghĩa thực tiễn và tầng nghĩa biểu trưng. Về tầng nghĩa biểu trưng, tác giả phân
biệt nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng qua các định nghĩa sau: “Nghĩa biểu trưng là
loại nghĩa dành cho nội dung nghĩa những từ mà hình thức ngữ âm (mô phỏng âm
19


thanh) hoặc hình thức cấu âm (mô phỏng cấu hình) như có liên hệ đến nội dung được
biểu hiện của từ” [76]. Ông cho rằng các từ thuộc loại này là kết quả của quá trình

biểu trưng hóa như Hoàng Tuệ nhận xét là “Quá trình biểu trưng hóa của tín hiệu, một
quá trình vốn có nguồn gốc tâm lý của nó trong đời sống xã hội và được ghi lại một
cách tế nhị độc đáo trong ngôn ngữ”. Ngược lại, nghĩa biểu tượng được định nghĩa và
giải thích “Nghĩa biểu tượng là nội dung có được do hình dung, tưởng tượng. Chẳng
hạn, nội dung nghĩa của các từ rồng, phượng là do hình dung, tưởng tượng chứ không
có trong thực tế… nói chung là những sự vật, hoạt động, tính chất của thế giới tưởng
tượng, viễn tưởng, giả tưởng mà người nói gán cho nội dung tín hiệu. Nghĩa biểu
tượng là hình ánh xạ cảm tính của sáng tạo cá nhân, nhưng có mối liên hệ mật thiết
với những nội dung xã hội và bao giờ cũng lĩnh hội được và nhận thức được. Biểu
tượng là một yếu tố của ý nghĩa vởi vì ý thức được thể hiện bằng ngôn ngữ với hình
ảnh của sự vật, hiện tượng được quy chiếu” [61]
Diệp Quang Ban trong “Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học” cho rằng: Biểu
trưng (symbol) “Trong ký hiệu học, một ký hiệu mà đặc tính của nó là thuần túy võ
đoán hoặc hoàn toàn quy ước, tuy không có sở cứ, như màu đen hay trắng tượng
trưng cho sự tang tóc. Trong ngôn ngữ, phần lớn các từ mang tính biểu trưng thuần
khiết xét trong quan hệ với vật được gọi tên, như để làm tên gọi cho con gà, con cá,
điều này giải thích cho hiện tượng cùng là con cá mà mỗi ngôn ngữ có một tên gọi
khác nhau” [4, 67].
Về biểu tượng, theo Bích Hạnh “là vấn đề có tính chất liên ngành, ngày càng
được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học nhân văn. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra
rằng: Biểu tượng là vấn đề của trung tâm nghiên cứu nghệ thuật” [39]. Theo tổng hợp
của Bích Hạnh từ các nghiên cứu về biểu tượng, hiểu theo nghĩa Triết học, tất cả các
sự vật trong thế giới khách quan, khi được con người tiếp nhận đều sẽ trở thành biểu
tượng trong nhận thức của con người. Dưới góc độ Tâm lí học, biểu tượng là hình thức
cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính trực quan. Trên cơ sở cảm giác, tri giác,
trong óc con người xuất hiện một hình thức cao hơn – đó là biểu tượng, bởi bộ não của
con người có khả năng tái sinh trong ý thức hình ảnh của đối tượng đã được tri giác,
phản ánh trước đây. Dưới cái nhìn Phân tâm học, cái được biểu trưng bao giờ cũng là
20



vô thức và luôn luôn biến đổi. Dưới góc độ Tín hiệu học, nghĩa biểu trưng thường dựa
vào những đặc điểm tồn tại khách quan bên cạnh dựa vào sự “gán ghép” của con
người. Theo quan điểm của Ngữ nghĩa học, ngữ cảnh là một nhân tố chủ yếu dẫn đến
sự biến đổi nghĩa của biểu tượng. Dưới góc độ Văn hóa học, biểu tượng vốn có bản
chất khó xác định và biến ảo một cách sống động trong mọi nền văn hóa ngôn ngữ.
Thế giới biểu tượng có những địa hạt mang tính phổ quát, lại có những địa hạt mang
tính duy nhất, dị biệt. Biểu tượng dưới góc độ văn hóa là một đối tượng nghiên cứu cơ
bản bởi lẽ không thể xác định được đặc trưng của một nền văn hóa cũng như mối quan
hệ giữa các nền văn hóa khác nhau nếu không xác định được hệ biểu tượng cấu thành
nên các nền văn hóa ấy [39; 20-25].
Cũng theo Bích Hạnh “Tín hiệu ngôn ngữ mang tính biểu tượng là một hiện
tượng lí thú và phổ biến ở các dân tộc và liên quan đến các hiện tượng trong đời sống
xã hội, lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán của nhân dân” [39, 13].
1.2. Lý thuyết về từ chỉ màu sắc
1.2.1. Khái niệm về từ chỉ màu sắc
Màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách khách quan trong thế giới
vật chất mà thị giác con người có thể nhận biết được. Sự vật có màu khác nhau là do
chúng có tần số ánh sáng khác nhau, còn sắc tức là trạng thái màu của sự vật, mỗi màu
có một sắc thái riêng. Trang web Wikipedia định nghĩa: Màu sắc là đặc tính giác quan
của thị giác con người. Màu sắc có được do ánh sáng quang phổ vào mắt bằng các trực
giác quang phổ của cơ quan hấp thụ ánh sáng. Các loại màu sắc và các chỉ định về vật
lý của màu sắc cũng có liên quan đến các vật thể, vật liệu, các nguồn ánh sáng,.. chúng
được dựa vào các đặc tính tự nhiên như sự hấp thụ, sự phản chiếu hoặc là sự phát ra
quang phổ. Như vậy, chúng ta sử dụng định nghĩa về màu sắc của Đào Thản: “Màu sắc
là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách khách quan trong thế giới vật chất, mà
thị giác con người có thể nhận biết được [ 70, 111-115].
1.2.2. Phân loại từ chỉ màu sắc
Sự nhận thức và phân biệt màu sắc hoàn toàn có tính chất chủ quan đối với từng
cộng đồng người nhất định. Trong các ngôn ngữ khác nhau, người ta phân chia dải

màu và ghi nhận các sắc độ, sắc thái về màu sắc theo những cách riêng. Vì thế, hệ
21


×