Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.29 KB, 10 trang )

CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC

"Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm & "Rừng xà
nu" của Nguyễn Trung Thành
Tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân" qua đoạn thơ này đã chi phối cách
nhìn, cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ trẻ Nguyễn Khoa Điềm trong
những năm chiến tranh chống Mĩ vô cùng ác liệt. Tư tưởng này đã được
diễn tả bằng một hồn thơ đậm đà màu sắc dân gian, nó đã làm phong
phú thêm cho ý niệm về Đất Nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách của giống
nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta hòa quyện với cái cao cả thiêng liêng
cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng của Đất Nước của nền văn hóa Việt Nam và
sự trường tồn của dân tộc.
Bài thơ tuy có chỗ còn dàn trải, nhưng ý tuởng đẹp, cảm hứng và ngôn
ngữ thơ độc đáo. Nó đã khơi dậy tình yêu nước, niềm tự hào dân tộc,
trách nhiệm và khát vọng công dân đối với Đất Nước trong mỗi chúng
ta:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời".


Bài làm (Câu 2)
Nguyễn Khắc Viện là nhà văn hoá nổi tiếng, là một "kẻ sĩ hiện đại" đã
để lại nhiều công trình văn hoá - khoa học có giá trị. Ông mang tầm vóc
một học giả uyên bác, sống giản dị, thanh bạch, rất trung thực và thẳng
thắn được nhiều người hâm mộ, kính trọng.
Bài "Con đường trở thành kẻ sĩ hiện đại" rút trong chương II Noi theo
đạo nhà của tác phẩm Bàn về đạo Nho, xuất bản năm 1993.
Vấn đề tác giả nêu lên rất "xa lạ" đối với số đông bạn trẻ chúng ta ngày


nay, nhưng lối viết giản dị, dễ hiểu, giọng văn nhẹ nhàng, có lúc như
tâm sự, cách biện luận khúc chiết, sắc sảo đã có một sức hấp dẫn, lôi
cuốn kì lạ.
Sinh trưởng và lớn lên trong truyền thống một gia đình Nho giáo, tiếp
thu tinh thần khoa học thực nghiệm kết hợp được nhiều mặt, đó là con
đường hình thành và phát triển nhân cách văn hoá của Nguyễn Khắc
Viện - một kẻ sĩ hiện đại.
Tác giả cho biết cơ sở nhân bản của đạo Nho là lấy con người, lấy cuộc
sống xã hội làm gốc. Đạo Nho đề cao "xử thế", coi trọng việc "xử thế"
mà không có một học thuyết, chủ nghĩa nào đặt vấn đề này đầy đủ và rõ
ràng như thế.
Nguyễn Khắc Viện nhắc lại ba mẩu chuyện về nhà nho đối xử với vua
chúa, mà trong chúng ta, nhiều người đọc sách đã biết. Đi-ô-gien đang
trần trụi nằm trên vỉa hè (sưởi nắng), bỗng cất tiếng nói to: "Kìa ông kia


lùi ra, che hết ánh sáng của tôi" khi vua A-lếch-xan-đơ-rơ đến
thăm. Chuyện Hứa Do chạy ra sông Dĩnh rửa tai sau khi nghe phái viên
hoàng đế mời ra làm quan! Chuyện một nhà nho tâu với vua: "Nhà vua
nên đến thăm tôi hơn là tôi đến thăm nhà vua", để vua thì được tiếng là
trọng người hiền, quý kẻ sĩ, còn kẻ sĩ thì không mang tiếng là nịnh vua.
Cách kể và minh hoạ về cách ứng xử của kẻ sĩ vừa chọn lọc, hóm hỉnh,
vừa ngắn gọn, thú vị. Xưa và nay, thiếu gì những kẻ hám danh và xu
nịnh! Ba mẩu chuyện nhỏ mà tác giả "thích", hoặc "thích hơn cả" có ý
nghĩa ám chỉ sâu xa.
Nguyễn Khắc Viện viết: "Tôi thích thứ tinh thần có mức độ, ứng xử vừa
phải của đạo Nho". Ông chỉ rõ: phải yêu bố mẹ mình, vợ con mình đã
rồi mới đến yêu người khác; phải biết lấy ân báo ân, lấy công bằng khi
báo oán, không được sống nhẫn tâm... vì "cao hơn pháp luật là tình
người, là lòng nhân...". Người đọc cảm thấy "sáng mắt sáng lòng" vì

được tiếp thu bao bài học thấm thía về cách đối nhân xử thế!
Cách giải thích chữ "nhân" của tác giả thật giản dị, sâu sắc, dễ hiểu:
"Thế nào là nhân?” Cả đạo Nho xung quanh một chữ. Nhân là tính
người, khác với thú vật. Nhân là tình người, nối kết người này với người
khác. Có tự kiềm chế, khắc kỉ, khép mình vào lễ nghĩa mới nên người.
Có mở rộng tầm nhìn, lấy "văn" mà tô đẹp mới thành người. Có gắn bó
với người khác thì mới thật là người. Có thấu hiểu bản thân, tri thiên
mệnh mới là con người trưởng thành".


Một đoạn văn gồm 8 câu, mà 4 câu không có chủ ngữ. Ý tưởng được
đúc lại, nén lại như những châm ngôn, cách ngôn về chữ nhân của đạo
Nho, về cách sống, cách ứng xử của ông bà, tổ tiên chúng ta, của những
nhà nho chân chính.
Phần tiếp theo, Nguyễn Khắc Viện tâm sự về cách xử thế, cách sống của
mình. Năm 1992, ông được Viện Hàn lâm Pháp tặng thưởng vì đã có
công to lớn quảng bá văn hoá và ngôn ngữ Pháp. Lúc bấy giờ có một số
người khuyên ông "không nên nhận". Nhưng ông vẫn nhận. Có người
cho ông là "thay đổi ý kiến nhiều lần". Ông đã giải thích việc làm của
mình thật đàng hoàng và minh bạch: "Đúng, thời thế biến chuyển, tôi có
thay đổi chính kiến, nhưng không hề thay đổi đạo lí. Đã gọi là đạo lí,
không thể xa rời dù là chốc lát. Không vì giàu sang mà sa đoạ, không vì
nghèo khó mà xa rời, không khuất phục trước uy quyền, thời buổi nào
cũng giữ được đường đi".
Như nhiều người đã biết, Nguyễn Khắc Viện đã dùng phần lớn số tiền
giải thưởng đó hiến vào quỹ từ thiện. Một cách ứng xử đàng hoàng của
kẻ sĩ hiện đại.
Ông nói về con đường, ông đã lựa chọn và đi suốt cuộc đời, đó là góp
phần mình cho cuộc đấu tranh cứu nước, xây dựng dân chủ. Ông đã
"luyện mình" theo ba hướng: dưỡng sinh, xử thế, tu thân. Thân phụ của

tác giả là một nhà khoa bảng, 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, mà ông gọi là thầy.
Ông tâm sự: "Hình tượng thầy tôi, đạo lí nhà nho, đã góp phần không
nhỏ, tuy không phải tất cả, giúp tôi nên người". Nguyễn Khắc Viện tôn


vinh Khổng Tử, tuy không phải là một ông thánh nhưng "là một trong
những bậc thầy lớn nhất đã giúp cho loài người tiến lên thành người".
Nguyễn Khắc Viện đã tốt nghiệp y khoa tại Pháp, đã sống nhiều năm ở
Pháp, tiếp thu nền văn hoá Pháp mà thành tài. Khi học về Chu Văn An,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Ngô Thì Nhậm, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,... , ông cho biết "chủ
yếu là nhớ đến những con người, những thân phận mà xã hội xưa gọi là
nho sĩ".
Truyền thống đạo lí là cái gốc cho ứng xử. Bài học mà Nguyễn Khắc
Viện nêu lên thật chân thành, thấm thía: "Nhờ truyền thống ấy mà, dù có
hấp thụ sâu sắc chủ nghĩa tự do cá nhân, tôi vẫn thấy mình nặng nợ với
đất nước với xóm làng, với phố phường, thấy mình có gốc, có rễ...".
Tác giả chỉ rõ: mặc dù đạo Nho đã "cùng đường lịch sử", nhưng "truyền
thống đạo lí" vẫn còn. Đất nước ta "đã sang trang lịch sử", đang tiến
mạnh vào thời kì mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Con đường mới
đang mở rộng ra phía trước để những nho sĩ ngày nay trở thành những
kẻ sĩ hiện đại. Đó là một niềm tin đẹp, sáng ngời nhân văn.
Bài "Con đường trở thành kẻ sĩ hiện đại" đã mở rộng tầm nhìn, cách
sống và cách nghĩ cho tuổi trẻ chúng ta. Bài học về chữ "nhân", về cách
ứng xử, về "nếp nhà" và truyền thống đạo lí đối với tuổi trẻ chúng ta thật
vô cùng sâu sắc.


Hãy sống trung thực trên cái gốc đạo lí. Hãy học giỏi để lao động sáng
tạo. Hãy phấn đấu và rèn luyện để trở thành kẻ sĩ hiện đại. Nguyễn Khắc

Viện như đang tâm tình và động viên thế hệ trẻ chúng ta vươn lên phía
trước.
Bài làm (Câu 3)
Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong
kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Truyện "Rừng xà nu" của ông viết vào
năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc. Truyện kể về cuộc "đồng khởi"
của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh
quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, vụ, rựa... quật khởi
đứng lên đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mĩ để giải phóng buôn làng
và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách
mạng ngời chói: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!".
Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít,
bé Heng, anh Quyết,... thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được
tác giả khắc họa và ngợi ca như một dũng sĩ oai hùng.
Ngày ấy..., cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối,
đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm
nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao
vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang
tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết
bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng! Cùng chung số phận, chung


chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại
bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào lúc sáng sớm và xế
chiều, hoặc lúc đứng bóng và sẩm tối, hoặc lúc nửa đêm và trở gà gáy.
Tang tóc bao trùm rừng xà nu. Hàng vạn cây "không cây nào không bị
thương". Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, "cây xà nu đổ ào ào như
một trần bão"; nhựa cây đọng lại, tụ lại "bầm lại đen và đặc quyện lại
thành từng cục máu lớn". Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con
người. Biết bao cây non trúng đạn giặc, vết thương "cứ loét mãi ra" sau

năm, mười hôm thì cây chết!
Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà
nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,... Mỗi lần xuất
hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng
trưng cho khí phách anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô
Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khất!
Người Strá đã hiên ngang trong lửa đạn, người trước ngã, người sau tiến
lên. Rừng xà nu cũng vậy, cạnh cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây
mọc lên, sinh sôi nảy nở "ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng
lên bầu trời". Nếu như cây Kơ nia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và
lòng người thủy chung tình nghĩa, thì cây xà nu là một loại cây "ham
ánh sáng mặt trời", hương cây nhựa cây "bay ra thơm mỡ màng". Ba lần
Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ ca
ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thì ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên
bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất "nhọn hoắt


như những mũi lê", lúc thì rừng xà nu "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra
che chở cho làng". Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí
phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.
Có lúc rừng xà nu được miêu tả dưới cặp mắt của Tnú trong hai thời
điểm chiều và sáng, lúc anh về thăm làng và lúc anh lại ra đi. Sau ba
năm trời anh đi "lực lượng", đi tìm những thằng Dục ác ôn để trả thù,
anh về thăm quê, thăm lũ làng, gặp lại rừng xà nu như gặp lại người bạn
chiến đấu, anh bồi hồi tự hào và say mê ngắm nhìn: "Đứng trên đồi xà
nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài nững
đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Và buổi sáng anh lên đường, cùng cụ
Mết và Dít còn có rừng xà nu trùng điệp tiễn anh với bao trìu mến và lưu
luyến. Anh đã mang theo hình bóng quê hương để ra đi với một sức
mạnh mới: "Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng

không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời".
Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế
trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng "một
rừng cây, một rừng người", về sự hi sinh và đóng góp xương máu của
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến. Chính vì thế mà
trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm
kiêu hãnh và thách thức: "Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước
lớn không? Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất
ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!".


Nét đặc sắc của truyện ngắn "Rừng xà nu" là nghệ thuật tả cảnh, tả
người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng
vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng
cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền
Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dũng sĩ trong sử thi "Bài ca
chàng Đam Săn"! Là một già làng 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực,
mắt sáng, vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần "ngực căng
như một cây xà nu lớn".
Nói đến hình tượng cây xà nu không thể không nói tới ngọn lửa xà nu.
Tác giả đã tạo nên ba nét vẽ về ngọn lửa xà nu, gợi ra một không khí
huyền thoại thiêng liêng. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư "tuyệt
mệnh" của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh hi sinh. Lần
thứ hai, hình ảnh ngọn lửa xà nu rực cháy trên mười ngón tay Tnú, đó là
ngọn lửa uất hận, căm thù "máu kêu trả máu, đầu van trả đầu" (Tố
Hữu). Lần thứ ba, ánh lửa đuốc xà nu bừng sáng đỏ rực, lấp loáng ánh
giáo mác, với tiếng hô: "Chém hết!" của cụ Mết, đã soi tỏ xác mười tên
giặc, trong đó có thằng Dục ác ôn, nằm sóng soài trên vũng máu trong
nhà Ưng. Cây xà nu đã chia ngọt sẻ bùi với đồng bào Xô Man trong
những năm dài đánh Mĩ và lũ tay sai bán nước!

Nếu như nhà thơ Thu bồn lấy cánh chim Chơ rao, một nhà thơ khuyết
danh đã lấy cây Kơ nia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật
khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành
đã thành công khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nói lên khí


phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghĩa anh hùng Việt
Nam. Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thần kì, không khí thiêng liêng,
phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây
Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng rừng xà nu
vậy.
Truyện "Rừng xà nu" là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến
tranh. Cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng
thần kì. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kì lịch sử vô cùng đau
thương và oanh liệt của dân tộc.



×