MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia
đình. Nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi được pháp luật công nhận và bảo vệ đáp
ứng nhu cầu to lớn về mặt tình cảm của bên nhận nuôi và bên được nhận nuôi.
Tuy nhiên thực tiễn về nuôi con nuôi còn cho thấy nhiều bất cập, nhiều trường
hợp nhận đặc biệt là trường hợp nuôi dưỡng trẻ em làm con nuôi nhưng
không làm thủ tục đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nuôi dưỡng
với mục đích khác. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi ích
của các bên khi xảy ra tranh chấp. Trong bài tập nhóm tháng của mình, nhóm
chúng em xin tìm hiểu về đề tài: “Nuôi con nuôi trên thực tế và một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”.
Bài làm không tránh khỏi thiếu sót, chúng em mong nhận được ý kiến góp ý
từ thầy cô để có thể hiểu sâu sắc hơn vấn đề. Chúng em xin chân thành cảm
ơn!
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số lí thuyết về vấn đề nuôi con nuôi.
1. Khái niệm nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi là một khái niệm đã được quy định tại khoản 1 Điều 67 của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ
cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.” Đến Luật Nuôi con
nuôi số 52/2010/QH12 tại khoản 1, Điều 3 vẫn tiếp tục kế thừa khái niệm đó
nhằm kiến tạo một hệ thống các thuật ngữ pháp lý về nuôi con nuôi, chứ
không nhằm đưa ra một cách hiểu khác về chế định nuôi con nuôi ở Việt
Nam: "Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận
con nuôi và người được nhận làm con nuôi”
2. Nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.
Điều kiện nuôi con nuôi hợp pháp nói chung:
Đối với người nhận nuôi con nuôi
Theo Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010, người nhận nuôi con nuôi phải có đủ
các điều kiện sau đây: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20
tuổi trở lên; có điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở dảm bảo việc chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt; không thuộc một trong
các trường hợp sau; đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lí hành chính tại cơ sở giáo
dục, cơ sở chữa bệnh; chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi
hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp
luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Đối với người được nhận làm con nuôi
Người được nhận làm con nuôi phải là người dưới 16 tuổi, người từ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi được nhận làm con nuôi nếu được bố dượng, mẹ kế hoặc cô,
dì, chú, bác nhận nuôi (Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010). Một người chỉ được
làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
Về ý chí của chủ thể quan hệ nuôi con nuôi
Khoản 1 Điều 21 Luật nuôi con nuôi quy định:
3
“Việc đồng ý nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của
người được nhận làm con nuôi; nếu cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý
của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám
hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự
đồng ý của trẻ em đó”.
Như vậy, việc nhận nuôi con nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người
đó hoặc của người giám hộ và được thể hiện bằng văn bản thông qua việc lập
Giấy thoả thuận về việc cho và nhận con nuôi (theo mẫu quy định).
Trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên được nhận làm con nuôi phải có sự đồng ý của trẻ
em đó, trừ trường hợp trẻ em đó bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế
năng lực hành vi dân sự. Sư đồng ý này phải được ghi trong Giấy thoả thuận
về việc cho và nhận con nuôi.
a. Nuôi con nuôi trong nước
Nuôi con nuôi trong nước là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
nhau thường trú ở Việt Nam. Những nội dung liên quan đến vấn đề nuôi con
nuôi trong nước được quy định tại chương 2 Luật Nuôi con nuôi 2010; Nghị
định 19/2011/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi
con nuôi; Nghị định 19CP 21/3/2011 qui định chi tiết thi hành một số điều của
Luật nuôi con nuôi, gồm các quy định về điều kiện đối với người nhận con
nuôi và người được nhận làm con nuôi; quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc
nuôi con nuôi, thẩm quyền giải quyết và đăng ký nuôi con nuôi, chấm dứt
việc nuôi con nuôi.
b.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt
Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là
thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và
đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Điều đáng lưu ý là trẻ em Việt Nam chỉ được giải quyết cho làm con nuôi
người nước ngoài khi đã thực hiện các biện pháp tìm gia đình thay thế nhưng
vẫn không được nhận làm con nuôi trong nước, nghĩa là pháp luật hiện hành
của Việt Nam vẫn ưu tiên tìm mái ấm trong nước cho trẻ em. Cụ thể, tại điểm
c, khoản 1, Điều 32 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: tài liệu chứng
4
minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em theo quy
định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Nuôi con nuôi nhưng không thành là một
tài liệu bắt buộc phải có trong hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi
nước ngoài.
Như vậy, giữa khái niệm nuôi con nuôi trong nước và khái niệm nuôi con
nuôi yếu tố nước ngoài có sự khác nhau rõ rệt. Việc công dân trong nước nhận
trẻ em thường trú trong nước hoặc có quốc tịch của nước đó được coi là hiện
tượng nuôi con nuôi trong nước; còn nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là
việc nuôi con nuôi có sự chuyển trẻ em được nhận làm con.
3. Vai trò và sự cần thiết của việc nuôi con nuôi được pháp luật quy định.
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc gia trên
thế giới và được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các nước trên cơ sở
phù hợp với điều kiện kinh tế và mục đích xã hội của mỗi quốc gia.
Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, được Đảng và
nhà nước quan tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước còn phải chịu những di
chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn,
mức thu nhập của nhân dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần
có mái ấm gia đình… thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên cấp thiết trong
đời sống xã hội.
Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc nuôi con nuôi còn góp
phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, đặc biệt là
những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,
sống đơn thân…
Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi nước ta trong những năm qua đã
góp phần quan trọng vào việc bảo đảm thực hiện quyền của trẻ em được chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình; động viên khơi dậy
tinh thần nhân đạo, của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống
tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân.
Sự ra đời của một đạo luật riêng về nuôi con nuôi đã tạo ra được khung pháp
lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, thu hút được sự quan tâm,
ủng hộ và giúp đỡ của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nuôi
dưỡng trẻ em, nâng cao trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, cơ quan, tổ
chức và xã hội trong việc bảo đảm quyền của trẻ em; tạo cơ sở để Chính phủ
ban hành và thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm khuyến khích, động
5
viên và tăng cường trách nhiệm của toàn xã hội trong việc giúp đỡ những trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt để các em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
trong môi trường gia đình, hòa nhập với cộng đồng và có điều kiện phát triển
thành người có ích cho xã hội.
6
II. Nuôi con nuôi trên thực tế.
Trong đời sống xã hội Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã tồn tại từ lâu, với
nhiều lý do và mục đích khác nhau, nhưng lý do cơ bản, phổ biến nhất là vì
lòng từ tâm, lòng thương người, muốn cưu mang, giúp đỡ những người rơi
vào hoàn cảnh khó khăn. Với quan niệm như vậy, việc nhận con nuôi, nhận
cha mẹ nuôi đã được thực hiện khá rộng rãi trong đời sống nhân dân. Với ý
nghĩa là một quyền tự do dân sự của cá nhân, việc xác lập quan hệ nuôi con
nuôi có thể được thực hiện theo những cách thức khác nhau, tuỳ theo sự lựa
chọn của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên hiện
nay có thể thấy, có hai cách thức xác lập quan hệ nuôi con nuôi trong thực tế.
Đó là xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội và xác lập về mặt pháp lý.
Việc nhận nuôi con nuôi có thể được xác lập về mặt pháp lý, thông qua sự
kiện đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuân thủ
những điều kiện, yêu cầu mà pháp luật về nuôi con nuôi quy định. Đối với
những trường hợp có đăng ký, giữa người nhận nuôi và con nuôi phát sinh
quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
giữa người nhận nuôi và con nuôi được nhà nước công nhận và bảo vệ. Tuy
nhiên, trong thực tế đời sống tồn tại khá nhiều các trường hợp nhận con nuôi
nhưng không đăng ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của cha mẹ và con nuôi. Phần sau
đây nhóm sẽ xin trình bày cụ thể từng trạng của từng trường hợp trên thực tế
và phân tích ở mỗi trường hợp nhận nuôi con nuôi và ảnh hưởng của nó đến
việc thực thi pháp luật về hôn nhân gia đình, để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về
tình hình nuôi con nuôi trên thực tế ở nước ta hiện nay.
1. Nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp, trong năm 2012, cả nước đã giải quyết
được 2.362 trường hợp cho, nhận con nuôi trong nước và 214 trường hợp cho,
nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài, đó là một số liệu đáng mừng. Tuy nhiên,
Bộ Tư pháp cũng nhận định, việc triển khai quy định của Luật Nuôi con nuôi
và Công ước Lahay còn chậm; tại một số tỉnh vẫn tồn tại hiện tượng nhà chùa
đăng ký con nuôi như Cà Mau, Hưng Yên, Sóc Trăng,… hoặc lạm dụng chính
sách con nuôi để hưởng lợi như Quảng Nam.
a. Tình hình nuôi con nuôi trong nước
Cùng với sự phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật thì vấn đề nuôi con
nuôi được quy định nuôi con nuôi ngày càng được quan tâm và giải quyết.
7
Sau 3 năm triển khai thực hiện Luật nuôi con nuôi đã thực sự đi vào cuộc
sống và phát huy hiệu quả. Phần lớn các trường hợp nhận nuôi con nuôi đều
xuất phát từ tình cảm và tính nhân đạo, nhiều địa phương đã rất chú trọng đến
việc kiểm tra theo dõi về tình hính phát triển của trẻ em sau khi được cho làm
con nuôi, thậm chí nhiều em còn được địa phương hỗ trợ kinh phí cho các
cháu ốm đau, bệnh tật phải đi viện. Công tác quản lý nuôi con nuôi và công
tác đăng ký nuôi con nuôi thực tế được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền tỉnh, thành phố, đảm bảo trình tự chặt chẽ, tất cả vì
lợi ích của người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm
cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.
Thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký nuôi con nuôi được đảm bảo
chặt chẽ, rõ ràng tạo điều kiện thuận lợi cho người nhận nuôi con nuôi và
người được nhận làm con nuôi đồng thời hạn chế được một số đối tượng lợi
dụng sự thiếu thống nhất, cụ thể của pháp luật để trục lợi, không vì mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em.
Một trường hợp cụ thể, theo thống kê gần đây, trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh
từ ngày 01/01/2011 đến ngày 01/10/2013 đã tiến hành giải quyết việc cho
nhận con nuôi cho 23 trường hợp (10 nam,13 nữ), chủ yếu là trẻ sơ sinh dưới
4 tuổi. Tính đến thời điểm hiện tại chưa có vụ việc nuôi con nuôi nào bị thu
hồi, huỷ bỏ.
Tháng 7/2005, bạn đọc cả nước bàng hoàng và đau xót khi đọc thông tin trên
một số tờ báo về một đứa trẻ sơ sinh bị bỏ rơi ở xã Tam Thạnh, huyện Núi
Thành, tỉnh Quảng Nam bị động vật cắn mất chân phải và bộ phận sinh dục.
Sau khi được phát hiện và đưa đến Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam, đứa trẻ đã
được cứu sống sau hơn 2 giờ cấp cứu, phẫu thuật. Câu chuyện về Thiện Nhân
tưởng như đã để lại một cú sốc tinh thần thoảng qua cho những ai đã từng biết
đến rồi lại lẫn vào bao chuyện đời thường khác. Gần 2 năm sau, những ai đã
từng đau đớn, xót xa cho số phận kia bỗng như bừng tỉnh, như trút được nỗi
nặng nề khi nhận tiếp thông tin: Thiện Nhân đã có bố mẹ nuôi và họ đang dồn
sức khoả lấp sự không vuông tròn của thân thể cho cháu. Chị Trần Mai Anh
(35 tuổi), mẹ nuôi của Thiện Nhân liên tục nhắc đến cậu bé bằng từ: "yêu
lắm!" như một điệp khúc không dứt. Nhìn người mẹ mảnh mai kia chẳng ai
ngờ chị lại làm được một điều kỳ diệu. Điều mà có thể rất nhiều người nghĩ
đến nhưng không ai làm được như chị. Qua trang web trẻ thơ, Mai Anh và rất
nhiều bà mẹ khác đã liên tục cập nhật thông tin về cậu bé bị bỏ rơi, bị động
vật cắn ở Núi Thành. Khi Mai Anh và một số người bạn cùng đến Quảng Nam
thăm Thiện Nhân, họ không cầm được nước mắt. Cậu bé sống hoang dã như
8
cây cỏ, chỉ thích ăn chuối và cơm nguội. Bé bị bệnh đường ruột do ăn uống
không hợp vệ sinh. Đau đớn hơn, bé không thể đi vệ sinh do bộ phận sinh dục
bị cắn cụt. Cùng các bà mẹ của web trẻ thơ tìm kiếm thông tin, liên hệ ra nước
ngoài tìm cách chữa bệnh cho Nhân. Bác sỹ có lời khuyên: với một đứa trẻ
hiếu động như thế thì cần phải chăm sóc đặc biệt ngay lập tức để tránh lệch
xương cột sống và bệnh về đường tiết niệu. Các chị cũng đang nỗ lực tìm một
gia đình nào đó thật giàu có nhận nuôi cháu để có điều kiện chữa bệnh. Sự
thúc bách của thời gian khiến Mai Anh không thể đợi. Chị hoàn tất thủ tục
nhận cháu làm con nuôi và đón về nhà. Mẹ chồng, mẹ đẻ và đặc biệt là chồng
chị anh Phùng Quang Nghinh ủng hộ chị. Anh Nghinh chính là người đưa
Thiện Nhân ra khỏi ngôi nhà nghèo khó, ra khỏi khu vườn mà cậu bé đã trải
qua sự đau đớn về thể xác và tinh thần. Gần đây, chị Trần Mai Anh vừa ra
viện sau đợt mổ nội soi chữa phình động mạch chủ trên não hồi tháng 7 vừa
qua. Chị cười và tâm sự: “Lúc đó, tôi sợ mình sẽ chết. Người tôi lo lắng nhất
là cháu Thiện Nhân. Cháu bé nhất, việc chữa bệnh còn chưa đâu đến đâu.
Thậm chí tôi còn viết di chúc để lại dặn dò các con”. Tình thương người mẹ
đã dành trọn vẹn cho các con yêu của mình. Đó là câu chuyên về tấm lòng của
những bậc phụ huynh nhận nuôi con nuôi hết lòng vì đứa con mà mình nhận
nuôi, để lại biết bao những ngưỡng mộ cho tất cả mọi người về tình thương
yêu hết mực.
Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu đáng mừng, cũng còn không ít những
trường hợp nuôi con nuôi nhằm buôn bán trẻ em, nuôi con nuôi để trục lợi,
bóc lột còn khá nhiều, không đăng kí theo quy định của pháp luật (sẽ được
làm rõ ở phần 2)
b. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Hiện nay, do nhu cầu hội nhập, với chính sách khuyến khích, mở rộng quan
hệ đối ngoại, việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam ngày càng
gia tăng, song hiện tượng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có những diễn
biến phức tạp. Ngoài bản chất và mục đích cao đẹp của việc nuôi con nuôi là
nhằm xây dựng mối quan hệ gia đình, thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi và người được nhận nuôi, đảm bảo cho đứa trẻ có cuộc sống
tốt hơn; bên cạnh đó cũng xuất hiện những việc làm phi đạo đức, lợi dụng
danh nghĩa cho trẻ em làm con nuôi để thu gom, môi giới, dẫn dắt mua bán trẻ
em nhằm mục đích kiếm lời. Những hiện tượng đó cần khắc phục, pháp luật
cần có sự điều chỉnh sát thực.
9
Những năm gần đây có thể thấy việc cho trẻ em làm con nuôi người nước
ngoài đã giúp tìm được mái ấm gia đình cho nhiều trẻ em, giảm bớt phần nào
đi gánh nặng kinh tế với những gia đình đông con hoặc có con bị khuyết tật,
giúp cho trẻ em có điều kiện phát triển tốt nhất. Đến nay, Hoa Kì đứng đầu
danh sách nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Được kí kết năm 2005, Hiệp
định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Mĩ đã phát huy hiệu quả rất
tốt, trong 3 năm thực hiện (Hiệp định hết hạn vào 9/2008). Trong số 69 tổ
chức nuôi con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có 42 tổ chức thuộc
Mĩ, 1700 trẻ em Việt nam có hoàn cảnh éo le được các gia đình Mỹ nhận
nuôi. Trong mấy năm gần đây, (từ 2003 đến 6/2008), theo số liệu báo cáo của
các Sở Tư pháp lên Bộ tư pháp cho thấy các tỉnh giải quyết cho trẻ em làm
con nuôi nước ngoài nhiều nhất là TP. HCM với tổng số 1037 em, Thái
Nguyên với tổng số 409 em, Hà Nội với 337 em và Bà Rịa Vũng Tàu với 570
em… ngoài ra còn một số tỉnh khác như Nam Định, Lạng Sơn, Đà Nẵng…
Như vậy, với tổng cộng 5876 trẻ em được nhận nuôi theo thống kê trong thời
giam trên thì đó là một sự cố gắng đáng kể của nước ta, tìm được mái ấm gia
đình cho trẻ em, giải quyết được nhu cầu của người nước ngoài.
Như trường hợp của bà Maria Senette Hedlund, quốc tịch Thụy Điển, bà được
đón nhận đứa con nuôi thứ hai tại Việt Nam- bé Nguyễn Trung Tín, 4 tháng
tuổi từ trung tâm bảo trợ trẻ em thành phố Vũng Tàu. Bà đã thật sự vui mừng,
vì khi đến Sở Tư pháp thành phố Bà Rịa- Vũng Tàu làm những thủ tục pháp lí
cuối cùng để nhận con nuôi, các thủ tục được giải quyết rất nhanh gọn. Bà đã
nhận xét “Chúng tôi được đón tiếp rất nhanh gọn. Thật hạnh phúc tuyệt vời vì
tôi từ nay đã có thêm một đứa con Việt Nam.
Một Giám đốc Trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi xác nhận rằng các cơ sở xã
hội nghiêng về xu hướng cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài hơn là trong
nước. Bởi lẽ, ngoài có thêm nguồn tài trợ (có khi còn từ thiện đến hàng nghìn
USD), trẻ em trở thành con nuôi ở nước ngoài thường có cuộc sống đảm bảo,
tương lai tốt đẹp hơn. Trẻ làm con nuôi ở trong nước thường bị giấu nguồn
gốc nên rất khó theo dõi, kiểm tra. Trên thực tế, đã có không ít trẻ bị ngược
đãi hoặc chăm sóc không tốt do người nhận nuôi trẻ không đảm bảo điều kiện
về kinh tế, thiếu kiến thức về nuôi dạy trẻ. Họ nuôi trẻ vì mục đích cậy nhờ về
già thay vì mục đích nhân đạo - bù đắp quyền lợi, tình cảm thiệt thòi của trẻ
bất hạnh.
Bên cạnh đó, thực tế hiện nay còn nảy sinh nhiều vấn đề vướng mắc trong quá
trình nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài khi giấy khai sinh của trẻ em
10
được làm giả với mục đích cho con làm con nuôi, hiện tượng làm sai nguồn
gốc trẻ em để trục lợi, hoặc lợi dụng nhận nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em
ra nước ngoài,...
Năm 2008 đã có một vụ việc đưa trẻ em ra nước ngoài làm con nuôi ở Nam
Định là vụ việc nổi bật về việc làm giả hồ sơ trẻ em. Trung tâm bảo trợ xã hội
Trực Ninh đã đưa hơn 300 trẻ em sang nước ngoài làm con nuôi; đây là một
sai phạm nghiêm trọng xuất phát từ mục đích trục lợi của nhiều cán bộ có
thẩm quyền gây tổn thương cho trẻ em, ảnh hưởng đến uy tín nhà nước ta trên
trường quốc tế, gây hoang mang, mất lòng người nhận nuôi. Vấn đề này đã
gây ra những hậu qủa pháp lí rất quan trọng và cản trở quá trình nước ta thực
hiện pháp luật về nuôi con nuôi, cần được nhìn nhận và giải quyết triệt để hơn
nữa
2. Nuôi con nuôi không được pháp luật quy định.
Đây là những trường hợp xác lập quan hệ nuôi con nuôi về mặt xã hội. Qua
nghiên cứu cho thấy, thực tế đời sống xã hội Việt Nam, quan hệ nuôi con nuôi
tồn tại một số dạng cơ bản sau: nuôi con nuôi theo phong tục tập quán; nuôi
con nuôi để khuếch trương quyền thế của gia đình; nuôi con nuôi để lấy phúc;
nuôi con nuôi trên danh nghĩa; nuôi con nuôi thực tế. Mỗi trường hợp nuôi
con nuôi lại có những ưu và nhược điểm riêng mà chúng ta cần phải giải
quyết.
a. Nuôi con nuôi theo phong tục tập quán.
Những quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán như vậy có thể vì lợi
ích của người nhận nuôi, của gia đình dòng họ người nhận nuôi nhiều hơn vì
lợi ích của con nuôi. Các quan hệ nuôi con nuôi theo phong tục tập quán đã
từng tồn tại từ lâu trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và hiện nay vẫn còn
tồn tại. Những quan hệ nhận nuôi con nuôi này được xã hội, cộng đồng thừa
nhận, các bên đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của quan hệ cha mẹ và con trên
thực tế, mặc dù có thể không thực hiện việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Hầu hết các lĩnh vực của đời sống hôn nhân và gia đình của nhân
dân ta đều chịu ảnh hưởng, tác động của những phong tục tập quán. Có thể
nhận xét một cách khách quan rằng có nhiều phong tục tập quán có ảnh
hưởng tích cực đến đời sống xã hội, hôn nhân và gia đình cần được khuyến
khích phát triển. Song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại khá nhiều những phong
tục tập quán lạc hậu trong đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc
thiểu số sống ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa,… cần được xóa bỏ. Đây cũng là
11
tư tưởng chỉ đạo khi xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình. Có thể lấy một vài
ví dụ chứng minh luận điểm trên như sau:
Người Mường, Thái, Dao, Thổ, Mông, Khơ Mú đều có phong tục nhận nuôi
con nuôi. Đối với các gia đình dân tộc Mường, Thái mà không có con thì họ
thường nhận một đứa con của người anh hay người em làm con nuôi và coi nó
như con đẻ của mình. Người Chăm cũng thường nhận nuôi con nuôi là người
trong tộc họ, nếu không có thì kiếm người ngoài tộc. Người Chăm theo chế độ
mẫu hệ, con gái út được hưởng tài sản thừa kế và có trách nhiệm quản lý tài
sản để thờ cúng cha mẹ tổ tiên. Người Chăm có quan niệm rằng “phận của
đàn ông là chiến đấu, phận của đàn bà là sinh nở”. Vì vậy, việc nuôi con nuôi
là nhằm có người kế tục dòng họ mẹ. Điều này thường xảy ra tương tự đối với
các dân tộc theo chế độ mẫu hệ ở Trường Sơn – Tây Nguyên. Như vậy, có thể
nói, việc nhận các cháu trong họ (con anh, chị, em) làm con nuôi đã trở thành
một phong tục tập quán tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Điều đó phù hợp với
tâm lý của người Việt Nam là muốn đông con nhiều cháu, nên dù có con đẻ,
họ vẫn “muốn nhận nhiều con nuôi từ những gia đình khác”, thể hiện truyền
thống đùm bọc, yêu thương nhau của dân tộc.
Tuy vậy, cũng có những tập tục ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về
nuôi con nuôi trong nước ta như sau:
_Phong tục nuôi con nuôi của người Thái ở Điện Biên, khi đứa trẻ không có
cha, mẹ nuôi dưỡng, thì anh chị lớn trong gia đình, trong dòng họ hoặc ông,
bà nội ngoại, cô dì chú bác, cha dượng nuôi dưỡng. Những người trực tiếp
nuôi dưỡng đứa trẻ đều được gọi là bố, mẹ, (không kể trước đó quan hệ họ
hàng của họ với đứa trẻ có thể là anh, chị hay ông, bà) và con nuôi sẽ mang
họ của những người nuôi dưỡng. Cũng theo phong tục của người Thái, dù
không trực tiếp nuôi dưỡng nhưng người anh cả trong gia đình có trách nhiệm
chăm sóc em khi cha mẹ không con và các em đều tôn trọng người anh cả như
người cha.
Phong tục này không những không theo quy định của pháp luật về đăng kí
nuôi con nuôi mà trái với pháp luật và đạo đức của nước ta khi đứa trẻ phải
gọi những người trực tiếp nuôi dưỡng mình là cha mẹ trong khi trước đó và
quan hệ đích thực của họ với đứa trẻ là anh em, hoặc ông bà ruột thịt chứ
không phải cha mẹ.
_Đối với dân tộc người Tày ở Lạng Sơn, thì việc cho và nhận con nuôi chủ
yếu là do đứa trẻ khó nuôi. Sau nghi thức nhận làm con nuôi, đứa trẻ đi lại hỏi
12
thăm cha mẹ nuôi như con cái trong gia đình. Người Tày còn có hình thức
nuôi con nuôi (lục so), đó là hình thức nhận nuôi chính con mình sinh ra (do
đứa trẻ khó nuôi, nên phải nhờ thày cũng làm lễ nhận nuôi con, sau khi làm lễ
xong cho người đàn bà khác địu đứa trẻ ra ngoài đường, sau đó quay trở lại,
cha đứa trẻ đứng đầu ngõ nhận đứa con trở lại và coi như con nuôi.
Phong tục này cũng không đúng với quy định của pháp luật về nuôi con nuôi,
bởi quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ nó vốn dĩ là cha mẹ ruột, pháp luật không
quy định rằng trường hợp nuôi con nuôi lại có thể là cha mẹ ruột có thể nhận
con đẻ của mình làm con nuôi.
b. Nuôi con nuôi để khuếch trương quyền thế của gia đình.
Trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, việc nuôi con nuôi còn nhằm
khuếch trương quyền thế của gia đình. Bởi vì theo quan niệm của xã hội Việt
Nam, “tầm cỡ và sự giàu có của một gia đình gắn chặt với thế lực chính trị và
xã hội”. Nhiều gia đình đã có con đẻ vẫn nhận nuôi con nuôi, vì muốn có
“nhiều gia nhân và nhiều bà con họ hàng, cho nên họ có phong tục nuôi con
nuôi lẫn nhau (không phân biệt con trai hay con gái) trong dòng họ của
mình…” Những đứa trẻ được nuôi có thể xuất thân từ những gia đình khá giả,
có địa vị ngang hàng với gia đình nhận nuôi, nhưng phần lớn là trẻ sinh ra
trong những gia đình nghèo. Việc nhận nuôi con nuôi như vậy thường diễn ra
ở những gia đình trong giới cầm quyền, nhằm mục đích được hưởng một số
lớn đất đai. Việc nhận nuôi những đứa trẻ từ các gia đình nghèo khổ còn nhằm
mục đích có thêm nguồn nhân công mà không phải trả tiền. Những đứa trẻ
này tuy được nhận làm con nuôi nhưng không có quyền lợi như con đẻ, “việc
nuôi con nuôi kiểu này có tính chất một quan hệ họ hàng giả tưởng, mối quan
hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi tương tự như giữa ông chủ và người tuỳ
thuộc”. Hiện nay việc nhận nuôi con nuôi để có thêm người giúp việc trong
gia đình có thể vẫn tồn tại, nhưng việc nhận nuôi con nuôi chỉ có tính chất
hình thức, không có giá trị pháp lý.
c. Nuôi con nuôi để lấy phúc.
Trong thực tế đời sống, có không ít trường hợp vì mê tín mà người ta nhận
nuôi một đứa trẻ, coi như con của mình để làm phúc, để có thể giảm bớt tai
vạ, những điều không may mắn cho gia đình hoặc để vợ chồng có thể sinh
được con của mình. Người được nhận nuôi có thể là bất cứ đứa trẻ nào, có thể
là trẻ em mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ con nhà nghèo đông con… Giữa người nhận
nuôi và đứa trẻ được nhận nuôi có thể có quan hệ quen biết hoặc không quen
13
biết… Người nhận nuôi đối xử với người con nuôi như con đẻ, nhưng việc
nuôi con nuôi có thể không được sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Việc nhận nuôi con nuôi trong trường hợp này đôi khi mang lại niềm
hạnh phúc cho nhiều gia đình nhận con nuôi vì họ tin đứa con đó là may mắn:
"Tôi nghĩ là khi mình nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi hay vì lý do nào đó mà bị
bỏ rơi, mình đã tạo phúc và vì thế mà trời thương, cho mình có con", chị
Nguyệt Hà, mẹ của hai đứa con, một con nuôi, một con đẻ, tâm sự. Sau hai
năm đón bé Hin về nhà, chị có bầu và sinh ra cu Thóc. Nguyệt Hà cho rằng,
đứa con trai là phần thưởng mà trời ban cho hai vợ chồng vì đã đem lại mái
ấm, tình thương yêu cho một đứa trẻ bị mẹ cho đi khi mới lọt lòng. Anh Tùng
Lâm, 39 tuổi, người vừa chào đón sự ra đời của con gái bé bỏng, cũng nhận
một bé trai làm con nuôi cách đây 3 năm. Theo anh, mỗi đứa trẻ là một món
quà của Chúa, mà con trai anh là món quà may mắn. Sự có mặt của cháu đã
giúp "gọi" đứa em gái đến với gia đình.
Tuy nhiên, cũng không ít trường hợp, sau khi nhận nuôi con với mong muốn
có may mắn để vợ chồng có thể sinh con ruột của mình, khi có đứa con thứ
hai, họ sẵn sàng ruồng bỏ con nuôi. Ví dụ thực tế: Đây là một câu chuyện có
thật mà trên mạng đang bàn tán hiện nay về có hay không lợi ích của những
đứa con nuôi được nhận nuôi để làm phúc. “Có lẽ khi giao con cho gia đình
chị Bích, người phụ nữ sinh ra bé Kim Ngân, con nuôi chị Bích, đã mừng
thầm và trong tủi cực vẫn có chút an lòng vì bé được lọt vào gia đình khá giả,
không sợ bị thiếu thốn, khổ sở. Quả thật, bé Kim Ngân về nhà cha mẹ nuôi
được cả đại gia đình chăm sóc, cưng nựng, từ thực phẩm đến đồ dùng đều là
hàng tốt, chỉ cần hắt hơi sổ mũi là đã gọi bác sĩ tới nhà... Ba tuổi, trông bé như
một công chúa nhỏ ăn diện điệu đàng, nụ cười tươi rói khiến ai cũng phải nở
nụ cười nhìn theo. Rồi bé có em. Đang là cục cưng, Kim Ngân bỗng bị bỏ rơi.
Bé giận dỗi, khóc lóc, gây rối để lôi kéo sự chú ý. Lúc đầu, bố mẹ nhắc nhở
nhẹ nhàng, về sau họ cáu quá, quát bé là đồ hư hỏng, bướng bỉnh, được chiều
quen thói. Bé bắt đầu bị ăn đòn. Hồi đầu, Kim Ngân có những phản ứng rất
dữ dội khi thấy những quyền lợi của mình bị cắt bỏ. Nhưng sự nghiêm khắc
của bố mẹ nuôi cũng như lời quở trách của những người lớn khác khiến bé
dần trở nên biết thân biết phận. Kim Ngân trở nên không nói không rằng, lủi
tha lủi thủi. Khi em bé được 9 tháng, chị Bích than phiền rằng vừa nuôi con
nhỏ vừa phải đi làm quá vất vả, osin thì cứ dăm bữa nửa tháng lại thay một
người, chẳng ai vừa ý cả, thực sự chị không đủ sức chăm bé Kim Ngân nữa,
nên gửi về quê nhờ mẹ chồng nuôi hộ. Mới đây, mẹ chồng chị đau ốm, không
thể trông nom đứa cháu nuôi tội nghiệp lúc nào cũng ủ ê, nên gọi điện cho vợ
14
chồng chị Bích đón con lên Hà Nội. Bà gọi đã mấy tháng mà chị vẫn lần lữa
chưa đón. Khổ thân đứa bé mới gần 4 tuổi đầu đã trở thành vật bị chối bỏ bởi
những người từng nâng niu mình.” Đó là ví dụn chứng mình rằng có nhiều
trường hợp nuôi con nuôi để nhằm mục đích lấy phúc nhưng khi họ có con
riêng của mình rồi thì họ lại không ngó ngàng đến đứa con mà mình đã từng
yêu thương trước kia nữa.
Nuôi con nuôi trên danh nghĩa.
Đây là những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống. Nuôi con nuôi trên
danh nghĩa là việc các bên nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ
tình cảm, nhưng không gắn với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không
nhằm mục đích hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực tế. Các bên có
thể đối xử với nhau, gọi nhau là cha mẹ và con, nhưng không ràng buộc thực
hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế. Hai bên thường không
sống chung với nhau. Việc nuôi con nuôi này không phụ thuộc vào bất cứ
điều kiện nào, mà chỉ tuỳ thuộc vào tình cảm, sự tự nguyện của các bên, phù
hợp với cách ứng xử, chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Việc nuôi con
nuôi này thường được thực hiện dưới hình thức thoả thuận bằng lời giữa các
bên chủ thể. Quan hệ cha mẹ và con trong hình thức này thường chỉ tồn tại
trên danh nghĩa, có ý nghĩa đối với hai bên chủ thể, mà không có ý nghĩa
nhiều lắm đối với những người khác trong gia đình của hai bên, những người
xung quanh và xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội Việt Nam, hình thức nhận con
nuôi hoặc nhận cha mẹ nuôi trên danh nghĩa thường hay xảy ra, vì người Việt
Nam vốn có lối sống trọng tình, trọng nghĩa, hiếu đễ. Ví dụ: việc nhận những
người già cả, không có khả năng lao động là cha nuôi, mẹ nuôi để chăm sóc,
nuôi dưỡng; việc bạn bè của những đồng đội đã hy sinh trong chiến tranh
nhận những người mẹ liệt sỹ làm mẹ nuôi; hoặc cho con làm con nuôi của
những người có tài, có đức, giỏi giang… trên danh nghĩa để con cái có thể
học được những phẩm chất tốt đẹp của họ… Hình thức nuôi con nuôi trên
danh nghĩa thể hiện nét đẹp trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Đặc
biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường, việc nuôi con nuôi trên danh nghĩa còn
thể hiện sự chăm sóc, quan tâm của cộng đồng đối với những người nghèo
khổ, già cả, trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Điều đó ít nhiều tạo điều kiện
giúp đỡ họ bớt khó khăn, tạo niềm tin cho họ trong cuộc sống. Việc nhận nuôi
con nuôi này chủ yếu hướng tới những giá trị đạo đức, tinh thần, nhưng không
có giá trị pháp lý.
d.
e. Nuôi con nuôi thực tế
15
Đây là hình thức nuôi con nuôi làm hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Việc nhận nuôi thoả mãn
đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, không trái với mục đích của việc
nuôi con nuôi và đạo đức xã hội. Người con nuôi cùng sống trong gia đình
cha mẹ nuôi. Giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi có mong muốn
thiết lập quan hệ cha mẹ và con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và
con, đồng thời thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối
với nhau để xây dựng một gia đình thật sự. Quan hệ cha mẹ và con giữa hai
bên đã được xác lập trong thực tế, được họ hàng và mọi người xung quanh
công nhận. Việc nhận nuôi con nuôi có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc
văn bản thoả thuận giữa hai bên gia đình, nhưng không đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Quan hệ nuôi con nuôi thực tế có các dấu hiệu sau:
Về ý chí của các bên: Giữa người nhận nuôi và con nuôi có mong muốn thiết
lập quan hệ cha mẹ và con, đã thật sự coi nhau như cha mẹ và con, đối xử với
nhau trong tình cảm cha mẹ và con.
Về chủ thể: người nhận nuôi và con nuôi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật, như điều kiện về tuổi, tư cách đạo đức, điều kiện
chăm sóc, nuôi dưỡng…
Về khách quan: các bên đã cùng chung sống với nhau, gắn bó, cư xử với nhau
trong tình cảm cha mẹ và con, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ và con đối với nhau. Quan hệ giữa cha mẹ và con giữa hai bên được
họ hàng và mọi người xung quanh thừa nhận. Việc nuôi con nuôi là đúng mục
đích, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong các dạng quan hệ nuôi con nuôi đã tồn tại trong thực tiễn đời sống có
quan hệ được coi là nuôi con nuôi thực tế, còn những quan hệ không có đủ
các dấu hiệu trên thì không được công nhận là nuôi con nuôi thực tế. Có thể
nói, bản chất của quan hệ nuôi con nuôi thực tế là đã hình thành và tồn tại
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trong
thực tế cuộc sống. Quan hệ cha mẹ và con được xác lập phù hợp với mong
muốn, tình cảm của các bên và được thể hiện rõ ràng, công khai trong cuộc
sống, nhưng chưa được công nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra một số kết luận về tình hình
nuôi con nuôi trên thực tế hiện nay như sau:
16
Về mặt ưu điểm: nhà nước ta đã giải quyết được nhiều trường hợp nuôi con
nuôi trên thực tế, đảm bảo nhu cầu của các bên và tạo ra mái ấm gia đình cho
trẻ em.
Về mặt nhược điểm:
_Nhiều trường hợp nhận nuôi con nuôi nhưng không làm thủ tục đăng kí tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của cha, mẹ nuôi.
_Vẫn tồn tại trường hợp nhận nuôi con nuôi nhưng không thực nuôi mà chỉ để
nhằm mục đích trục lợi khác, đánh đập, hành hạ con nuôi.
_Việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi còn có nhiều sai phạm như: hồ sơ không
đầy đủ theo quy định của pháp luật. Việc xác minh mục đích của việc nuôi
con nuôi của cán bộ Tư pháp hộ tịch còn chiếu lệ, hình thức. Vẫn còn tình
trạng cán bộ tư pháp tiếp tay cho những sai phạm về thực hiện pháp luật về
nuôi con nuôi.
_Công tác kiểm tra, xác minh của Phòng tư pháp cấp huyện đối với cấp xã ở
một số nơi về lĩnh vực nuôi con nuôi chưa thực sự thường xuyên….
III. Hậu quả pháp lí của nuôi con nuôi.
1. Nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật
Theo điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, kể từ thời điểm đăng kí
việc nuôi con nuôi, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con nuôi được xác lập;
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ như cha mẹ và con
theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình.
_Con liệt sĩ, thương binh, con người có công với cách mạng được người khác
nhận làm con nuôi vẫn tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, con
thương binh, con người có công với cách mạng
_Cha mẹ nuôi có quyền đổi thay đổi họ tên, xác định lại dân tộc cho người
con nuôi theo quy định của pháp luật tại điều 75 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2010, Điều 28 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 28
BLDS 2005)
_Trong quan hệ về thừa kế, cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền thừa kế di sản
của nhau theo quy định tại Điều 679 và 680 BLDS 2005. Theo quy định của
17
pháp luật về thừa kế, con nuôi vừa có quyền hưởng thừa kế di sản của cha mẹ
nuôi đồng thời có luôn quyền thừa kế di sản của cha mẹ đẻ.
_Việc nhận nuôi con nuôi không làm chấm dứt hoàn toàn quan hệ giữa người
con nuôi với cha mẹ đẻ của mình, đặc biệt trong quan hệ tình cảm giữa con
nuôi với cha mẹ đẻ của mình.
2. Nuôi con nuôi không được pháp luật quy định.
Trên thực tế, nuôi con nuôi có nhiều dạng khác nhau như nuôi con nuôi theo
phong tục tập quán, nuôi con nuôi để lấy phúc, nuôi con nuôi trên danh nghĩa
và nuôi con nuôi thực tế. Luật sư Nguyễn Hải Hà, Đoàn Luật sư TP Hà Nội
nhìn nhận: “Theo quy định của pháp luật, việc nhận nuôi con nuôi phải được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận và ghi vào sổ hộ tịch mới có giá
trị pháp lý, thực chất đó chính là đăng ký việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên trong
thực tế nhận nuôi con nuôi, vì nhiều lý do khác nhau, tránh những thủ tục
phiền hà mà việc này không được thực hiện. Nhiều trường hợp quan hệ nuôi
con nuôi đã được thực hiện trên thực tế nhưng lại không có sự công nhận của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không được ghi vào sổ hộ tịch nên việc
nuôi con nuôi không có giá trị pháp lý, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và
lợi ích chính đáng của các bên đương sự. Ví dụ như trường hợp của gia đình
bác Nguyễn Văn Vượng (Thanh Xuân, Hà Nội) là một ví dụ. Nhận nuôi con
nuôi từ năm 1984 nhưng ngại những thủ tục phiền hà nên bác không đăng ký
hộ tịch. Năm 2002, bác đột ngột mất vì tai nạn giao thông. Do con nuôi không
có sự công nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên khi xảy ra tranh
chấp về thừa kế, con nuôi của bác Vượng không được hưởng quyền thừa kế.
Lúc đó phải nhờ đến sự phân giải của Tòa án”.
_Cha mẹ nuôi cũng có quyền thay đổi tên gọi của con trong đời sống hàng
ngày, nhưng không được pháp luật, nhà nước công nhận vì họ không đăng kí
nuôi con nuôi nên việc họ tự thay đổi tên theo ý mình không có ý nghĩa pháp
lí. Tương tự, họ không có quyền thay đổi dân tộc của con vì không ai công
nhận và cho phép họ có quyền làm việc đó khi chưa có sự công nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
_Nhiều quyền và nghĩa vụ khác của cha mẹ và con nuôi không được pháp luật
bảo hộ và công nhận.
IV. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi.
Để nuôi con nuôi ngày càng đạt được ý nghĩa nhân văn cao cả trong cuộc
sống như mong đợi của mỗi người thì chúng ta cần nghiên cứu và bổ sung để
18
đưa nhiều quy định mới phù hợp với thực tiễn vào Luật, thống nhất các vấn
đề nuôi con nuôi trong nước và có yếu tố nước ngoài; đồng thời, trong việc
giải quyết cho trẻ em làm con nuôi, phải ưu tiên xem xét giải quyết một cách
nhanh chóng đối với trường hợp nhận con nuôi là trẻ em khuyết tật, nhiễm
HIV/AIDS, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo,… mà không cần tiến hành biện
pháp tìm gia đình thay thế như các trẻ em bình thường khác hay cần đưa thêm
hai hình thức nuôi con nuôi đơn giản và nuôi con nuôi trọn vẹn vào hệ thống
pháp luật về nuôi con nuôi, đảm bảo cho người nhận nuôi con nuôi có sự lựa
chọn hình thức phù hợp với điều kiện và nguyện vọng cho và nhận nuôi của
cả hai bên, khắc phục tình trạng nhiều quy định về điều kiện cho, nhận con
nuôi chưa cụ thể, đã dễ bị lợi dụng để giải quyết việc nuôi con nuôi nhằm
hưởng chính sách ưu tiên của nhà nước, hưởng chế độ ưu đã từ bảo hiểm xã
hội, sinh con thứ ba,…
UBND các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện quy định
của pháp luật về nuôi con nuôi theo thẩm quyền, xây dựng kế hoạch đào tạo
nguồn nhân lực, tăng cường đội ngủ cán bộ làm việc trong lĩnh vực bảo vệ,
chăm sóc trẻ em, nuôi con nuôi tại địa phương; trang bị máy móc thiết bị
và cập nhật dữ liệu về nuôi con nuôi để phục vụ công tác giải quyết việc
nuôi con nuôi; chủ động thanh tra, kiểm tra kịp thời các và xử lí các vi phạm
pháp luật về nuôi con nuôi ở địa phương. Hiệu quả quản lí hộ tịch phụ thuộc
rất lớn vào năng lực hoạt động của hệ thống cơ quan quản lí và đăng kí hộ
tịch, đặc biệt là ở cấp xã hoặc ở vùng sâu vùng xa. Và vậy, các có các biện
pháp để nâng cao trình độ nhận thức và hiểu biết của họ, trang bị đầy đủ các
tài liệu hướng dẫn về nuôi con nuôi, thường xuyên bồi dưỡng kiến thức
nghiệp vụ cho họ. Đối với những người làm việc tại vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, cần phải sống gần dân, hiểu được ngôn ngữ, phong tục, lối sống, tâm
tư, nguyện vọng của họ để đủ sức được họ tín nhiệm.
Nuôi con nuôi là hình thức trợ giúp trẻ em tại công đồng có hiệu quả nhất. Để
thực hiện tốt việc nuôi con nuôi, cần có sự phối hợp, hỗ trợ nhịp nhàng giữa
các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội, nhằm tạp ra sức mạnh tổng
hợp, đồng bộ để giải quyết những vấn đề phức tạp trong lĩnh vực này.
Cần tăng cường hơn nữa công tác công tác tuyên truyền pháp luật về nuôi
con nuôi và công ước Lahay 33 lồng ghép với chương trình quốc gia bảo vệ
trẻ em 2011-2015 và Chương trình vì trẻ em giai đoạn 2012-2020. Đồng thời
hướng dẫn chỉ đạo để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt,… chú trọng đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội
19
tại các địa phương, cơ sở nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhằm đẩy
mạnh công tác bảo vệ trẻ em và hỗ trợ tìm gia đình thay thế cho trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt tại địa phương.
Việc nuôi con nuôi là quan hệ xã hội gắn liền với quyền, lợi ích của trẻ em
nên rất nhạy cảm. Chỉ có thể thu hút sự quan tâm, đồng tình ủng hộ đối với
việc nuôi con nuôi trong dư luận quần chúng nếu người dân hiểu đúng mục
đích nhân đạo, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi. Điều đó đòi hỏi cần có sự am
hiểu kiến thức pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với cán bộ
lãnh đạo ở các cấp chính quyền, các ngành. Kiến thức pháp luật, của người
dân lại bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội của từng vùng miền. Vì vậy,
cần tập trung phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống tình thần và vật
chất cho người dân, tạo tác phong, lối sống tuân thủ pháp luật, tạo cơ sở
vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp
luật.
Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi để đảm bảo sự
tuân thủ pháp luật, phát hiện, xử lí và chấn chỉnh kịp thời những sai sót,
những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra. Công tác thanh tra trong lĩnh vực
nuôi con nuôi cần được thực hiện một cách thường xuyên nhưng cũng có thể
đột xuất, khi có những biểu hiện tiêu cực, có khiếu nại, tố cáo. Thêm vào đó,
cần tăng cường xử lí các vi phạm pháp luật trong hoạt động đăng kí nuôi con
nuôi trong nước. Cần tăng mức phạt đủ để răn đe với các hành vi: dụ dỗ, mua
chuộc, ép buộc, đe dọa để có được sự đồng ý cho trẻ làm con nuôi; lợi dụng
nhận nuôi trẻ với mục đích vụ lợi.
Cuối cùng, cần phổ biến hơn nữa cho người dân tác dụng của việc đăng kí
nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật để không còn nhiều những trường
hợp nuôi con nuôi không đăng kí theo quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng
đến quyền và nghĩa vụ của các bên.
20
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Có thể thấy, trên thực tế nuôi con nuôi tồn tại ở khá nhiều hình thức khác
nhau, có thể là đăng kí, có thể là không đăng kí theo quy định của pháp luật.
Ở hình thức nào cũng có những mặt tích cực và hạn chế khác nhau cần được
khắc phục, nhưng hy vọng rằng, với sự chung tay của gia đình và xã hội,
trong thời gian tới chúng ta có thể thực hiện đúng với pháp luật đạo đức để
hướng tới mục đích nhân văn cao nhất của quy định về nuôi con nuôi, đó là
niềm hạnh phúc lớn lao cho đứa trẻ. Bài làm còn nhiều thiếu sót, kính mong
thầy cô chỉ bảo và giúp đỡ thêm để bài làm hoàn thiện hơn. Nhóm chúng em
xin chân thành cảm ơn!
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB
Nhân dân, 2009
2. Luật Hôn nhân và Gia đình 2000
3. Luật Nuôi con nuôi 2010
3. Bản chất pháp lí của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Nguyễn
Phương Lan, Tạp chí Luật học số 2-2005
/> />ItemID=5969
/>etail.aspx?ItemID=426&TabIndex=2&TaiLieuID=479
/>
22