Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Nuôi con nuôi thự tế và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.87 KB, 18 trang )

Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
LỜI MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình. Ở
nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, được Đảng và nhà nước quan
tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước đất nước hiện nay vấn đề nuôi con nuôi càng trở
nên cấp thiết trong đời sống xã hội. Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em,
việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con
nuôi, đặc biệt là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn,
sống đơn thân.Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, do phong tục tập quán và do thói quen,
có rất nhiều trường hợp nhận con nuôi nhưng lại không đăng kí nuôi con nuôi tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các quyền và
nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ này.Giải quyết hậu quả pháp lí của những
trường hợp này là rất phức tạp cần sự điều chỉnh của pháp luật. Nhận thức được tầm
quan trọng của đề tài, nhóm em lựa chọn đềtài : “Nuôi con nuôi thực tế và một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”. Nhóm rất mong nhận được những góp ý của
Thầy, Cô để bài làm được hoàn thiện.
PHẦN NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung
1. Các khái niệm
- Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi. (theo Khoản 1 Điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010).
- Nuôi con nuôi thực tế là hình thức nuôi con nuôi làm hình thành quan hệ cha mẹ
và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Việc nhận nuôi thoả mãn
đầy đủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi, không trái với mục đích của việc nuôi con
nuôi và đạo đức xã hội. Người con nuôi cùng sống trong gia đình cha mẹ nuôi. Giữa
người nhận nuôi và người được nhận nuôi có mong muốn thiết lập quan hệ cha mẹ và
1
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
con, đối xử với nhau trong tình cảm cha mẹ và con, đồng thời thực hiện đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau để xây dựng một gia đình thật sự. Quan hệ


cha mẹ và con giữa hai bên đã được xác lập trong thực tế, được họ hàng và mọi người
xung quanh công nhận. Việc nhận nuôi con nuôi có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc
văn bản thoả thuận giữa hai bên gia đình, nhưng không đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
II.Cơ sở pháp luật hiện hành về giải quyết vấn đề nuôi con nuôi thực tế
1. Các điều kiện xác lập quan hệ nuôi con nuôi thực tế
Các điều kiện để xác lập quan hệ nuôi con nuôi thực tế được qui định tại điều 50 Luật
Nuôi con nuôi năm 2010:
a Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo qui định của pháp luật tại thời điểm
phát sinh quan hệ nuôi con nuôi:
• Đối với người được nhận làm con nuôi:
Điều 8 Luật Nuôi con nuôi Việt Nam quy định những điều kiện của người được nhận
làm con nuôi:
“1.Trẻ em dưới 16 tuổi.
2.Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.”.
Luật chia đối tượng được nhận làm con nuôi thành hai nhóm: trẻ em dưới 16 tuổi
và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Luật Nuôi con nuôi đã quy định đối tượng được
2
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Việc quy định đối tượng và độ tuổi để được
nhận làm con nuôi như vậy là hợp lý, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
(Luật bảo vệ,chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004) và phù hợp với thông lệ quốc tế, Công
ước Lahay năm 1993.
Ngoài ra, Luật Nuôi con nuôi đã không còn điều chỉnh vấn đề làm con nuôi của
người già yếu, cô đơn như trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Như đã phân tích,
mục đích của việc nuôi con nuôi là để tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, bảo đảm trẻ em

được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình. Trong khi đó, việc làm
con nuôi của người già yếu cô đơn lại nhằm mục đích ngược lại - nhận con nuôi để cha
mẹ nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng, mặt khác thương binh, người già yếu, cô đơn thì
Nhà nước đã có những chính sách khác đối với họ.
Bên cạnh đó, Luật còn bổ sung nhóm đối tượng người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi, đây là quy định mới so với các chế định nuôi con nuôi trước. Như đã
biết, trong một số quan hệ dân sự có sự điều chỉnh thông qua việc ghi nhận quan hệ thừa
kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên (Điều
679 Bộ luật Dân sự 2005). Vì vậy, vì những lí do nào đó mà những đối tượng này không
còn cha mẹ ruột, mặc dù đã đủ tuổi chịu trách nhiệm đối với một số lĩnh vực nhưng về
bản chất họ còn là những người chưa thành niên, thì việc tạo điều kiện để các đối tượng
này được tiếp tục sống với bố dượng, mẹ kế hoặc những người cùng huyết thống là việc
làm cần thiết và mang tính nhân đạo sâu sắc.
• Đối với người nhận nuôi:
Để đảm bảo cho người nhận nuôi con nuôi thực hiện tốt chức năng làm cha, làm mẹ
của mình, người nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại Điều
14 Luật Nuôi con nuôi:
3
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005,
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên),
không phải là người bị mất năng lực hành vi dân sự và không phải là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự
1
. Đây là một quy định rất cần thiết cho việc bảo đảm cho người
con nuôi được chăm sóc nuôi dưỡng, được hưởng một cuộc sống trọn vẹn…
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Quy định sự chênh lệch độ tuổi giữa người nuôi và
con nuôi sẽ đảm bảo cách ứng xử trong gia đình hợp với lẽ sống, truyền thống văn hóa và
đặc biệt là để cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con nuôi đạt hiệu quả, nhằm

đảm bảo việc người xin nhận con nuôi có đủ điều kiện cần thiết để nuôi dưỡng con nuôi.
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con nuôi. Người con nuôi chỉ được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt khi người nuôi
có sức khỏe tốt, có đủ thời gian để quan tâm, chăm sóc người con nuôi về mọi mặt và có
khả năng về kinh tế.
- Có tư cách đạo đức tốt, để đảm bảo mục đích nuôi con nuôi không chỉ là điều kiện
về vật chất mà còn điều kiện về tinh thần cũng không kém quan trọng. Trong gia đình,
vai trò của cha mẹ rất quan trọng, cha mẹ là tấm gương trong việc giáo dục con cái. Điều
37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục, chăm
lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi
trường đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt….”, để đảm bảo cho người
con nuôi được nuôi dạy tốt thì cha mẹ nuôi phải sống mẫu mực, tôn trọng các giá trị đạo
đức. Đây là yếu tố cần thiết để đảm bảo cho người con nuôi được sống trong môi trường
gia đình lành mạnh, để việc nuôi con nuôi đạt được mục đích và ý nghĩa của nó.
1 Khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự 2005: “Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”.
4
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
- Không thuộc một trong những trường hợp không được nhận con nuôi tại khoản 2
Điều 14 Luật Nuôi con nuôi: “Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa
thành niên; Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành
hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc
hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm
đoạt trẻ em”. Quy định này, trước hết là nhằm đảm bảo cho người con nuôi được sống
trong môi trường gia đình lành mạnh, đồng thời cũng tránh những ảnh hưởng không tốt
của cha, mẹ đối với con nuôi; ngăn chặn những khả năng xấu có thể xảy ra đối với người

con nuôi do sự lệ thuộc của người con nuôi vào cha, mẹ nuôi.Mỗi cá nhân nếu có đủ các
điều kiện trên thì pháp luật mới cho phép nhận con nuôi.
b Đến thời điểm Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực (từ ngày 01 tháng 01 năm 2011),
quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống.
Trong thời gian Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực sự tồn tại của quan hệ cha, mẹ và
con và cả hai bên còn sống, đây là điều rất quan trọng nhằm đảm bảo cho sự thể hiện ý
chí của các bên. Nghĩa là người nhận nuôi và người được nuôi vẫn còn sống chung trong
một mái nhà, trong tình cảm cha, mẹ và con. Vì thực tế không loại trừ trường hợp nhiều
người sẽ lợi dụng cơ hội này xác lập quan hệ cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi trong khi
người nhận nuôi hoặc người được nhận nuôi trước đây đã chết mục đích để được thừa
kế tài sản hoặc xác lập lại quan hệ cha, mẹ và con chấm dứt đã lâu cũng nhằm mục đích
được phân chia tài sản. Đối với con nuôi thực tế hoặc con nuôi có đăng ký thì điều kiện
đầu tiên để xác lập được quan hệ nuôi con nuôi thì phải có sự bày tỏ ý chí của người
nhận nuôi, cha, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được nuôi, nếu người được nhận
nuôi có khả năng bày tỏ ý chí của mình thì ý kiến của người được nhận nuôi phải được
xem xét đến. Vì vậy, nếu một bên người nhận nuôi hoặc người được nhận nuôi đã chết
5
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
hay vì một lí do nào đó mà quan hệ cha, mẹ và con đã chấm dứt mặc dù quan hệ nuôi con
nuôi đã được xác lập trước đây thì quan hệ cha, mẹ và con nuôi sẽ không được công nhận
là con nuôi thực tế vì sẽ không đảm bảo được sự tự nguyện cũng như mục đích của việc
nuôi con nuôi.
c Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau
như cha mẹ và con.
Không phải quan hệ nuôi con nuôi nào cũng tồn tại và phát sinh quan hệ cha mẹ con
thật sự khi không đăng ký như trường hợp nuôi con nuôi trên danh nghĩa là việc các bên
nhận nhau là cha mẹ nuôi và con nuôi xuất phát từ tình cảm, nhưng không gắn với quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con, không nhằm mục đích hình thành quan hệ cha mẹ và con
trong thực tế, các bên có thể đối xử với nhau, gọi nhau là cha mẹ và con, nhưng không

ràng buộc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau trên thực tế hoặc nuôi con nuôi
để mục đích có thêm người lao động, cả người nhận nuôi và người được nhận nuôi cùng
sống chung nhưng người nhận nuôi thường đối xử với người được nuôi như chủ nhà với
người ở… Vì vậy, “giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục nhau như cha mẹ và con” là điều kiện đảm bảo cho quan hệ nuôi con nuôi thực sự
đúng với bản chất của nó là đã tồn tại thực sự quan hệ cha mẹ và con mà không cần
những quy định của pháp luật tác động đến. Mục đích của việc nuôi con nuôi từ ban đầu
thực sự là vì sự phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức của con, giúp trở thành
người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2.Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi thực tế
a Quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khi quy định về hệ quả pháp lí của việc nuôi con
nuôi chú trọng điều chỉnh quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, có ít quy định về mối quan hệ
giữa cha mẹ đẻ và con nuôi , quan hệ giữa cha mẹ nuôi với cha mẹ đẻ. Luật nuôi con nuôi
6
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
đã quy định cụ thể hơn về mối quan hệ ba bên này, từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi.
Đối với quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, Khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi
quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia
đình cha mẹ nuôi cũng có quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Trước hết, Điều luật này điều chỉnh mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi có
sự kế thừa điều 74 của Luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó:
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu,trông nom,nuôi dưỡng, chăm sóc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo
dục con để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con
hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.

- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học
tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đẩm ấm, hòa
thuận, làm gương tốt cho con về mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ
chức xã hội trong việc giáo dục con. Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha
mẹ có thể đề nghị cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo
dục con.
-Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành
viên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người đại diện khác theo pháp
7
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
luật.Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên, con đã mất năng lực
hành vi dân sự gây ra theo quy định của bộ luật dân sự.
-Cha mẹ có quyền quản lý hoặc ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của
con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự, cha mẹ có quyền định đoạt tài sản
riêng của con dưới 15 tuổi vì lợi ích của con và có tính đến nguyện vọng của con, nếu con
từ 9 tuổi trở nên; nếu con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi định đoạt tài sản riêng có
giá trị lớn của mình hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì cũng phải có sự đồng ý của cha
mẹ.
-Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ , xúc phạm
con. Không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được xúi giục,
ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
-Cha mẹ và con có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của bộ luật dân
sự.
-Con cóbổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe
những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình, có
nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt là khi cha mẹ ốm đau, già

yếu,tàn tật, trong trường hợp gia đình có nhiều con, thì các con phải cùng nhau chăm
sóc, phụng dưỡng cha mẹ.
- Con đã thành niên có đủ điều kiện của người giám hộ là người giám hộ cho cha
hoặc mẹ mất năng lực hành vi dân sự khi người cha hoặc mẹ đó không có vợ hoặc chồng
làm người giám hộ hoặc tuy có nhưng người này không đủ điều kiện để làm người giám
hộ
b Quan hệ giữa các thành viên gia đình cha mẹ nuôi với con nuôi.
8
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được hình thành từ quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng.Xuất phát từ quan hệ đó mà giữa các thành viên trong gia
đình có sự gắn bó chặt chẽ, sâu sắc về tình cảm và trách nhiệm đối với nhau và phải có sự
quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Hơn nữa theo Khoản 1 Điều 24 Luật nuôi con nuôi: “Kể từ
ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ
của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng
có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình,
pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tức là giữa con nuôi
và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định của pháp luật.
Xét về mối quan hệ nhân thân, như chúng ta biết, người được nuôi không phải là
anh, chị hay em của con ruột người nhận nuôi, không phải là cháu nội của cha mẹ của
cha nuôi cũng không phải là cháu ngoại của cha mẹ của mẹ nuôi. Tuy nhiên, anh, chị em
hay các thành viên khác trong gia đình phải có nghĩa vụ yêu thương, quan tâm chăm sóc
em, con, cháu nuôi như người thân trong gia đình để trẻ em được sống trong một mái ấm
toàn diện về cả mặt vật chất và tinh thần, tránh sự phân biệt đối xử nhau.
Xét về mối quan hệ tài sản, thực tế có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên cũng
có quan điểm cho rằng con nuôi vẫn được thế vị để nhận phần di sản mà người nuôi
được hưởng của cha mẹ bởi theo quy định (Điều 678 - BLDS, 2005) thì “Con nuôi và cha
nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau” và được hưởng thừa kế di sản thao quy

định tại Điều 676 – Người thừa kế theo pháp luật và Điều 677 – Thừa kế vị (BLDS, 2005).
c Quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ:
Đối với mối quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ, Luật hôn nhân và gia đình 2000
quy định rất ít về vấn đề này.Đối với vấn đề nhân thân, Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ quy
định về quyền của con liệt sĩ, thương binh, con của người có công với cách mạng. Về vấn
9
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
đề tài sản, cha mẹ đẻ và con đã được cho làm con nuôi vẫn có quyền thừa kế di sản của
nhau.Đối với quyền nghĩa vụ khác, Luật không có quy định cụ thể, điều này gây ra sự khó
khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi trên thực tế. Ví
dụ như xác định cha mẹ đẻ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc hoặc đại diện theo pháp luật
cho con hay không. Để giải quyết vấn đề này Luật nuôi con nuôi đã quy định “Trừ trường
hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha
mẹ đẻ không có quy quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo
pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lí tài sản riêng đối với con cho làm con nuôi”
(Khoản 2 điều 4). Theo quy định trên thì khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập, trong
quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi có thể xảy ra các trường hợp sau:
Thứ nhất, giữa cha mẹ đẻ và con nuôi sẽ không có quyền và nghĩa vụ được nêu
trong khoản 4 điều 24, trường hợp xảy ra khi cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa
thuận chấm dứt toàn bộ quyền và nghĩa vụ trên.
Thứ hai, cha mẹ đẻ vẫn còn các nghĩa vụ nói trên đối với con đã cho làm con nuôi,
điều này phải dựa trên thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Trường hợp này tùy
theo sự thỏa thuận với cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ vẫn còn toàn bộ quyền và nghĩa vụ nói
trên với con nuôi hoặc chỉ một số quyền và nghĩa vụ nhất định. Ngược lại, nếu hai bên
cha mẹ không có thỏa thuận gì thì mối quan hệ trên cũng không tồn tại.Luật Nuôi con
nuôi không có quy định cụ thể về hình thức của sự thỏa thuận. Theo quan điểm của nhóm
thì sự thỏa thuận này cần thiết phải được lập thành văn bản, và phải được nêu rõ khi
việc giao nhận nuôi con nuôi được tiến hành tại sở tư pháp. Đồng thời Luật cũng quy
định rõ nội dung những thỏa thuận này đều phải vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em được cho

làm con nuôi. Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định cụ thể hơn về mối quan hệ pháp lí 3
bên sau khi việc nuôi con nuôi được xác lập. Theo điều 24 Luật Nuôi con nuôi mối quan
hệ này có chiều hướng mở tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ với cha mẹ nuôi.
10
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
Việc quy định vậy nhằm tạo ra cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quan hệ nuôi con nuôi.
2.3 Thẩm quyền, trình tự thủ tục đăng ký nuôi con nuôi thực tế theo quy định của
Luật nuôi con nuôi năm 2010
Đăng ký việc nuôi con nuôi là điều kiện về hình thức để đảm bảo cho việc nuôi con
nuôi thực tế được pháp luật công nhận, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
sẽ có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Theo khoản 1 Điều
9 Luật Nuôi con nuôi: “Ủy ban nhân dân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc
của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước”. Theo đó, trong trường
hợp cả cha mẹ nuôi và con nuôi đều có quốc tịch Việt Nam và việc nhận con nuôi được
thực hiện tại Việt Nam thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký là Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi thường trú của người được nhận nuôi hoặc của người nhận con nuôi
Tuy nhiên, nơi đăng ký con nuôi thực tế có điểm khác là không phải một trong hai
nơi thường trú của cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi mà chỉ là một nơi, Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi thường trú chung của cha mẹ nuôi và con nuôi vì nếu họ không thật sự chung sống
với nhau thì sẽ không được công nhận là con nuôi thực tế. Vấn đề này Nghị định số
19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi
con nuôi có hiệu lực từ ngày 08/05/2011 (gọi tắt là Nghị định số 19/2011/NĐ-CP), Điều
23 quy định: “Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với
nhau mà chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã,
nơi thường trú của cha mẹ nuôi và con nuôi”. Như vậy, việc đăng ký nuôi con nuôi ở Việt

Nam do cơ quan hành chính thực hiện, quy định này rất phù hợp với điều kiện, tình hình
11
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
của nước ta hiện nay. Theo đó, trình tự, thủ tục cho - nhận con nuôi vẫn do cơ quan hành
chính thực hiện, nhưng Tòa án là cơ quan ra quyết định công nhận.
Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi thực tế Khoản 3 Điều 50 Luật Nuôi con
nuôi quy định: “Chính phủ quy định chi tiết thủ tục đăng ký nuôi con nuôi qui định tại
Điều này, bảo đảm thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của nhân dân ở các vùng
miền”. Theo đó, trình tự, thủ tục đăng ký công nhận con nuôi thực tế sẽ được hướng dẫn
riêng, khác với trình tự, thủ tục đăng ký con nuôi trong nước, để phù hợp với điều kiện
của người dân, đảm bảo cho người dân có đủ điều kiện và tự nguyện đi đăng ký. Nghị
định số 19/2011/NĐ-CP
Thứ nhất, Hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế được quy định tại Nghị đinh số
19/2011/NDCP phải bao gồm:
“1. Người nhận con nuôi phải làm Tờ khai đăng ký nuôi con nuôi thực tế và nộp cho Ủy
ban nhân dân cấp xã, nơi người đó thường trú. Trong Tờ khai cần ghi rõ ngày, tháng,
năm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế, có chữ ký của ít nhất hai người làm
chứng.
2. Kèm theo Tờ khai phải có các giấy tờ sau đây:
a) Bản sao Giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của người nhận con nuôi;
b) Bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh của người được nhận làm con
nuôi;
c) Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn của người nhận con nuôi, nếu có;
d) Giấy tờ, tài liệu khác để chứng minh về việc nuôi con nuôi, nếu có.”
12
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
Thứ hai Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi thực tế được quy định tại Điều 25 của
Nghị định này như sau :

“1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã cử
công chức tư pháp – hộ tịch phối hợp Công an xã tiến hành kiểm tra và xác minh; nếu cả
người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi đều còn sống, quan hệ cha mẹ và
con giữa các bên vẫn đang tồn tại, các bên có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
nhau trên thực tế như cha mẹ và con, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nuôi con
nuôi.
2. Khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cả người nhận con nuôi và người được nhận làm con
nuôi đều phải có mặt. Công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký nuôi con nuôi và
trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho các bên.”
II. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi thực tế.
1. Những hạn chế còn tồn tại
- Việc thi hành pháp luật ở nhiều địa phương chưa tốt và thống nhất, có địa phương
vận dụng “cứng nhắc” các văn bản hướng dẫn về thủ tục, từ đó gây khó khăn phiền hà
cho các đương sự, có địa phương lại rất “dễ dãi” về thủ tục xin con nuôi, kiến thức pháp
luật về nuôi con nuôi của người dân còn rất hạn chế. Đặc biệt pháp luật không có quy
định cấm, nên trong thực tế đã phát sinh những trường hợp người dân lợi dụng việc làm
con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc ít người
chỉ để hưởng chế độ, chính sách ưu tiên của nhà nước mà không bảo đảm mục đích của
việc nuôi con nuôi. Thậm chí có trường hợp cho con đẻ làm con nuôi, để rồi lại sinh con
tiếp, vi phạm pháp luật và chính sách về kế hoạch hóa gia đình. Trong những vụ việc vi
phạm, nổi lên nhất là vi phạm về mục đích nuôi con nuôi.
- Bên cạnh đó là hiện nay ở nhiều địa phương phát sinh yêu cầu đăng ký việc nuôi con
nuôi, mà trong đó người được nuôi đã trên 15 tuổi (tuổi con nuôi theo Luật Hôn nhân và
13
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
gia đình năm 2000 là dưới 15 tuổi, trường hợp được nhận làm con nuôi của thương
binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già
yếu cô đơn thì có thể là người trên mười lăm tuổi và Luật Nuôi con nuôi hiện nay là trẻ
em dưới 16 tuổi).Về mặt pháp lý, khi đó thì những trường hợp này không được phép làm

thủ tục công nhận việc nuôi con nuôi, nhưng về mặt tình cảm và đạo lý thì đây là vấn đề
không nhỏ, có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người nhận nuôi và cả người được
nuôi nhất là trong lĩnh vực thừa kế.
2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Thực tế cho thấy, hiện nay phát sinh khá nhiều yêu cầu giải quyết các quan hệ về
nhân thân và tài sản giữa người nhận con nuôi với người được nhận con nuôi, mà việc
nhận nuôi đó chưa được sự công nhận của cơ quan có thảm quyền và chưa được ghi vào
sổ hộ tịch, mặc dù quan hệ cha, mẹ con cái giữa hai bên đã được xác định trên thực tế
trong thời gian dài. Việc cần có một giải pháp có tính khả thi để giải quyết tình trạng này
là một yêu cầu khách quan và cấp thiết, cần được pháp luật quan tâm và điều chỉnh.
a. Thời hạn đăng ký nuôi con nuôi thực tế
Theo Luật Nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau
trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng đủ
các điều kiện. Nghĩa là thời gian mà người dân được phép đi đăng ký con nuôi thực tế là
từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015, nếu hết thời gian này mà họ không đi
đăng ký thì quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi của họ sẽ không được công nhận, các quyền
và lợi ích giữa người nhận nuôi và người được nuôi sẽ không được công nhận và nếu có
tranh chấp xảy ra sau này cũng sẽ không được giải quyết. Tuy nhiên hầu hết, các trường
hợp nuôi con nuôi thực tế không đi đăng ký đều do người dân không am hiểu pháp luật.
Nếu có người dân đến hết thời hạn cho phép đăng ký con nuôi thực tế mới hiểu hết quyền
14
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
và lợi ích của việc đăng ký, mới có điều kiện đi đăng ký thì pháp luật sẽ không công nhận?
Như vậy, không những sẽ tạo ra tâm lý hoang mang, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân,
mà còn có thể dẫn đến làm gia tăng những mâu thuẫn, tranh chấp liên quan đến các vấn
đề về hệ quả của nuôi con nuôi, trong đó có vấn đề thừa kế tài sản vốn là một trong
những vấn đề rất phức tạp trong đời sống dân sự hiện nay.
Theo nhóm, luật nên kéo dài thời hạn đăng ký nuôi con nuôi thực tế vì thời hạn 05

năm là quá ngắn sẽ không giải quyết hết các trường hợp con nuôi thực tế. Trong khi mục
đích của việc ban hành Luật Nuôi con nuôi mà Nhà nước ta hướng tới là nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của người nhận nuôi và người được nuôi và việc đăng ký công nhận con
nuôi thực tế là vì quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi và con nuôi. Vì vậy, để đảm bảo được
mục đích đó, chúng ta nên tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến cho người dân về
quyền và lợi ích của việc đăng ký nuôi con nuôi, tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ
đội ngũ cán bộ xã nhất là những nơi có đông đồng bào dân tộc, miền núi, những nơi có
phong tục tập quán chi phối nhiều đến người dân… thậm chí đi đến từng nhà để giải
thích cho người dân để tuyên truyền, phổ biến để giúp cho người dân hiểu hết được
những lợi ích, mà tự nguyện đi đăng ký, thường xuyên tổ chức những đợt đăng ký lưu
động ở vùng sâu, vùng xa.
b. Điều kiện công nhận con nuôi thực tế
Luật quy định để được công nhận là con nuôi thực tế thì phải thỏa các điều kiện, tuy
nhiên theo quan điểm của chúng tôi có một số điểm chưa hợp lý:
- Điều thứ nhất: Luật quy định các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy
định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi. Do câu chữ không rõ
ràng “theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi” nên dễ
gây nhằm lẫn là Luật quy định phải áp dụng các quy định về điều kiện nuôi con nuôi
trước đây để giải quyết và trên thực tế, không loại trừ có những quan hệ nuôi con nuôi
15
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
đã phát sinh trước ngày 30/04/1975 ở miền Nam và trước năm 1960 ở miền Bắc mà
đến nay chưa đăng ký. Do đó, nếu căn cứ vào các văn bản pháp luật được ban hành vào
thời kỳ này để công nhận việc nuôi con nuôi, thì có thể phải viện dẫn đến việc áp dụng
pháp luật do chế độ cũ ban hành, đây là vấn đề nhạy cảm nên tránh. Bên cạnh đó, để tạo
tính thống nhất trong cách hiểu và trong cách giải quyết, vì vậy, điểm a khoản 1 Điều 50
Luật Nuôi con nuôi nên quy định rõ ràng hơn là: “Các bên có đủ điều kiện về nuôi con
nuôi theo quy định của Luật này tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi”. Hoặc là
nên có quy định hướng dẫn, Bộ Tư pháp sẽ căn cứ vào từng vụ việc cụ thể để có hướng

dẫn riêng.
- Điều kiện thứ hai: Luật quy định đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha,
mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống. Tuy nhiên, nếu có trường hợp việc
nuôi con nuôi đã được xác lập cũng không đi đăng ký, quan hệ cha, mẹ con được mọi
người công nhận, họ sống chung với nhau và thật sự xem nhau như là cha, mẹ con ruột
nhưng không may người nhận nuôi chết ngày 31 tháng 12 năm 2010 trước ngày Luật
Nuôi con nuôi có hiệu lực thì pháp luật không công nhận là con nuôi thực tế.
Do đó cần có những quy định hướng dẫn thêm về vấn đề này để bảo vệ những lợi ích
chính đáng của của người nhận nuôi và người được nuôi đã phát sinh trên thực tế cụ thể
là sẽ quy định hai trường hợp:
+Đến thời điểm Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang
tồn tại và cả hai bên còn sống, thì trong quá trình đăng ký công nhận con nuôi thực tế, thì
Ủy ban nhân dân cấp xã cử công chức tư pháp – hộ tịch phối hợp Công an xã tiến hành
kiểm tra và xác minh, Tờ khai cần ghi rõ ngày, tháng, năm phát sinh quan hệ nuôi con
nuôi trên thực tế, có chữ ký của ít nhất hai người làm chứng.
+ Đến thời điểm Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực mà một trong hai bên cha mẹ nuôi
hoặc con nuôi đã chết nhưng người còn lại có nguyện vọng pháp luật hóa quan hệ cha
16
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
mẹ nuôi con nuôi và thì Ủy ban nhân dân cấp xã cử công chức tư pháp – hộ tịch phối hợp
Công an xã tiến hành kiểm tra và xác minh, Tờ khai cần ghi rõ ngày, tháng, năm phát
sinh quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế và có chữ ký của ít nhất mười người làm chứng.
PHẦN KẾT BÀI
Việc cho nhận con nuôi là hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội
Việt Nam nhằm thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa người nhận con nuôi và người được
nhận làm con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con. Khi được điều chỉnh bằng pháp luật,
việc cho nhận con nuôi phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Vì vậy, nuôi con
nuôi là một chế định pháp lý trong hệ thống pháp luật Việt Nam.Trải nghiệm và đồng
hành cùng sự phát triển của xã hội trong mỗi thời kỳ, các quy định của pháp luật về nuôi

con nuôi ngày càng được phát triển và hoàn thiện, mang tính hệ thống và điều chỉnh hiệu
quả hơn.
Giải quyết vấn đề nuôi con nuôi thực tế là một vấn đề phức tạp, nhưng có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc, chi phối mạnh mẽ đến quyền, lợi ích của các chủ thể trong quan hệ nuôi
con nuôi. Về mặt xã hội, giải quyết tốt vấn đề nuôi con nuôi thực tế còn góp phần củng cố
những quan hệ xã hội tốt đẹp, thể hiện bản chất của nhà nước trong việc quan tâm bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, qua đó củng cố lòng tin của nhân dân vào
pháp luật của nhà nướ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật hôn nhân và gia đình, Nxb.
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
3. Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
17
Nhóm 3 - NO4 – TL3
Bài tập nhóm tháng 2 – môn Luật Hôn nhân và gia đình
4. Bình luân khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Bộ Tư pháp,
Nxb. Chính trị.
5. Trần Đức Nam,Những điểm mới của luật nuôi con nuôi so với chế định nuôi con
nuôi trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp,Hà Nội,2012.
6. Nguyễn Phương Lan, Cơ sở lí luận và thực tiễn của chế định pháp lí về con nuôi ở
Việt Nam,Luận án thạc sĩ luật học,Hà Nội,2007.
18
Nhóm 3 - NO4 – TL3

×