Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích kĩ năng tìm hiểu yêu cầu tư vấn minh họa bằng tình huống thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.21 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu tư vấn pháp luật ngày
càng tăng và để đáp ứng nhu cầu đó thì những người tư vấn pháp luật không
chỉ cần có kiến thức pháp luật, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh
nghiệm cuộc sống mà còn phải có kỹ năng vận dụng thanh thạo những kiến
thức , hiểu biết đó để phân tích, giải đáp, hướng dẫn khách hàng xử sự phù
hợp với pháp luật va đạo đức xã hội. Một trong những kĩ năng nền tảng đó là
kĩ năng tìm hiểu yêu cầu tư vấn. Kĩ năng này giúp chủ thể tư vấn nắm bắt
được câu chuyện của khách hàng và biết được khách hàng đang mong muốn
điều gì, từ đó đưa ra hướng giải quyết phù hợp cho khách hàng. Nhận thấy
tầm quan trọng của kĩ năng này, nhóm em đã thống nhất chọn đề tài số 4:
“Phân tích kĩ năng tìm hiểu yêu cầu tư vấn. Minh họa bằng tình huống
thực tiễn.” bài làm chắc hẳn còn nhiều thiếu sót, rất mong thầy cô góp ý để
chúng em được hoàn thiện hơn.


NỘI DUNG

I. Khái quát chung về tư vấn pháp luật và phân tích kỹ năng tìm hiểu
yêu cầu tư vấn.
1. Tư vấn pháp luật.
1.1 khái niệm và đặc điểm.
Tư vấn pháp luật được hiểu là hoạt động giải đáp pháp luật, hướng dẫn khách
hàng xử sự phù hợp với pháp luật. Cung cấp dịch vụ pháp lý giúp cho khách
hàng thực hiện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Từ khái niệm trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm của hoạt động tư vấn pháp
luật như sau:
Thứ nhất, tư vấn pháp luật là một loại dịch vụ pháp lý
Dịch vụ pháp lý bao gồm các hoạt động như tư vấn pháp luật, tranh tụng,
giám định, công chứng, chứng thực… TVPL chỉ là một hoạt động của dịch
vụ này.


Thứ hai, người tư vấn phải có kiến thức pháp luật và đạt trình độ chuyên môn
nghề nghiệp nhất định, có kinh nghiệm và kĩ năng chuyên sâu;
Thứ ba, tư vấn pháp luật là nghề lấy pháp luật làm công cụ để giải quyết
những vấn đề pháp lý mà khách hàng yêu cầu. Bản thân người tư vấn hoạt
động dựa trên pháp luật và tuân thủ pháp luật.
Thứ tư, tư vấn pháp luật là tìm ra giải pháp hợp lý và phù hợp với pháp luật
( hợp pháp) để giúp đỡ giải quyết vấn đề pháp lý của khách hàng.
Thứ năm, tư vấn pháp luât là nghề lao động trí óc có tính độc lập và chịu
trách nhiệm cá nhân cao;


Thứ sáu, tư vấn pháp luật là nghề đòi hỏi sử dụng nhiều kỹ năng nghề nghiệp
thành thạo, chuẩn xác, người tư vấn cần có sự mẫn cảm nghề nghiệp, khả
năng tư duy logic tổng hợp cao.
1.2 Vai trò
Tư vấn pháp luật có những vai trò sau:
Thứ nhất, tư vấn pháp luật góp phần phổ biến giáo dục pháp luật, từ đó định
hướng hành vi ứng xử cá nhân, tổ chức theo khuôn khổ pháp luật và các quy
tắc xử sự chung. Tư vấn pháp luật không phải đơn thuần chỉ là tuyên truyền
pháp luật bởi tư vấn pháp luật là một nghề sử dụng trí tuệ của những chuyên
gia trong lĩnh vực pháp luật, là hoạt động mang tính chất lao động trí óc bằng
việc sử dụng chất xám, đòi hỏi phải có kỹ năng tư vấn và sự hiểu biết pháp
luật một cách sâu rộng, thấu hiểu cuộc sống cũng như phải có đạo đức hành
nghề, lương tâm và trách nhiệm;
Thứ hai, tư vấn pháp luật còn giúp giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan tố
tụng tránh được sự quá tải trong hoạt động xét xử. Cụ thể, khi các tổ chức tư
vấn pháp luật hướng dẫn nhân dân thi hành đúng pháp luật, giúp nhân dân
không phải kiện cáo vòng vo qua nhiều cơ quan, giúp cơ quan nhà nước giảm
bớt được các khiếu kiện, tăng cường đoàn kết trong nhân dân;
Thứ ba, tư vấn pháp luật góp phần hoàn thiện pháp luật, thông qua hoạt động

tư vấn pháp luật, các người tư vấn có thể phát hiện được những lỗ hổng của
pháp luật, trên cơ sở đó có những kiến nghị kịp thời để sửa đổi, bổ sung nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động tư vấn còn nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của người dân và thực trạng vi phạm pháp luật
cũng như thực trạng áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, người tư vấn có những
kiến nghị kịp thời cho việc xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp
luật.
2. phân tích kỹ năng tìm hiểu yêu cầu tư vấn.
2.1 Những kỹ năng cần có khi tìm hiểu yêu cầu tư vấn của khách
hàng


Để có thể hiểu được yêu cầu, mong muốn của khách hàng thì người tư vấn
cần có một số kỹ năng cơ bản sau:
- kỹ năng tạo niềm tin: người tư vấn cân tạo được niềm tin đối với khách
hàng, ít nhất là trong ba giây đầu tiên, bởi khi tin tưởng thì khách hàng mới
có thể chia sẻ một cách chân thực và sâu sắc nhất những mong muốn của bản
thân. Nếu để khách hàng còn hoang mang rằng: “ người này liệu có thể giải
quyết được công việc cho mình không? ; có giữ được bí mật cho mình?” thì
có lẽ người tư vấn đã thất bại ngay từ những bước đầu tiên. Để tạo được niềm
tin từ phía khách hàng người tư vấn cân phải cẩn trọng ngay từ việc lựa chọn
trang phục, bối cảnh sao cho phù hợp, tìm hiểu kỹ về vụ việc của họ để tự tin
rằng bản thân mình có thể lam được từ đó mới tạo được niềm tin cho khách
hàng, cuối cùng có thể là một lời cam kết để khách hang yên tâm và tin tưởng
hơn.
- Kỹ năng tư duy linh hoạt, logic: Thông thường khách hang thể hiện yêu cầu
của họ rất chung chung như: “Trăm sự nhờ bác giúp”. Với tư cách là người tư
vấn cần phải nắm rõ mục đích cuối cùng mà khách hàng muốn, bằng cách đặt
ra những câu hỏi về từng vấn đề cụ thể. Như đối với việc giải quyết ly hôn thì
phải lam rõ mong muốn của khách hàng về quan hệ tài sản, con chung… từ

đó mới tư vấn một cách chính xác những gì họ có thể và không thể đạt được.
- Kỹ năng phân tích tài liệu đi kèm và yêu cầu cung cấp thêm. Do những
thông tin lần đầu tiên mà khách hàng cung cấp chưa hoàn toàn mang tính
đúng đắn, đầy đủ nên khi nhận được tài liệu do khách hàng cung cấp , người
tư vấn cần đối chiều lời nói của khách hàng với tài liệu để phân tích, đánh giá
xác minh thông tin. Đồng thời yêu cầu cung cấp thêm những tài liệu mà còn
thiếu.
- Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo. Đây là yêu cầu bắt buộc, bởi lẽ: Giúp
Người tư vấn có căn cứ pháp luật để khẳng định những phương pháp mà
mình đưa ra là có căn cứ pháp lý chứ không phải là tư vấn theo cảm tính chủ
quan của mình.
2.2 Những mục tiêu đặt ra đối với kỹ năng tìm hiểu yêu cầu tư vấn.


Thứ nhất: Làm cho khách hàng mở lòng, sẵn sàng trao đổi về những
vấn đề họ đang quan tâm. Đây chính là tiền đề quan trọng để tiến sâu hơn vào
việc tìm hiểu nhu cầu của Khách hàng.
Thứ hai: Nắm được các thông tin ban đầu về: Tính chất của vụ việc,
tính khẩn cấp của vụ việc, Các tài liệu chủ yếu liên quan đến hồ sơ, các thông
tin chính về khách hàng, trả lời được các câu hỏi: Ai? Về cái gì? Khi nào?
Như thế nào? Tại sao?... Và đặc biệt hiểu đúng, đủ về mong muốn, yêu cầu
của khách hàng.
Thứ ba: Làm cho khách hàng tin tưởng vào mình để được hiệu quả làm việc
cao nhất, chuyên nghiệp,tiết kiệm thời gian nhất.
Thứ tư: Tạo được mối quan hệ tốt với khách hàng làm nền tảng để tiến tới
xác lập quan hệ hợp đồng.
2.3

Quy trình tiến hành tìm hiểu yêu cầu tư vấn


Mục đích chung của việc tìm hiểu yêu cầu tư vấn là nắm bắt được câu chuyện
của khách hàng cũng như mong muốn của họ. Đồng thời với kỹ năng tiếp xúc
khách hàng, tìm hiểu yêu cầu tư vấn được thực hiện sau khi đã chuẩn bị đầy
đủ các điều kiện để tiến hành tư vấn và tạo được môi trường giao tiếp thoải
mái cởi mở với khách hàng. Khi đó, tìm hiểu yêu cầu tư vấn thực hiện với
quy trình như sau:
-bước 1: Tìm hiểu vụ việc qua giao tiếp với khách hàng. Người tư vấn phải
lắng nghe khách hàng trình bày và ghi chép đầy đủ nội dung chính, ý chính,
trên cơ sở đó đặt câu hỏi để làm rõ thêm. Sau khi lắng nghe, cần xác định
được tính chất vụ việc để xác định có thuộc phạm vi cung cấp dịch vụ pháp
lý của mình không. Sau đó là tính khẩn cấp của vụ việc để có kế hoạch thực
hiện ngay những công việc đang rất cấp bách về thời gian cũng như để hạn
chế những hành vi có thể ảnh hưởng lớn đến quyền và nghĩa vụ của khách
hàng. Đồng thời cần rà soát liệu mình đã nhận những yêu cầu của bên có lợi
ích đối lập với khách hàng hay chưa để quyết định nhận hay không.


Thông thường, lần đầu tiên tiếp xúc, người tư vấn chưa thể nắm bắt một cách
chắc chắn bản chất của sự việc đó, khách hàng thường trình bày theo ý chủ
quan và bỏ qua nhiều chi tiết mà họ cho là không cần thiết. Vì vậy, cần gợi ý
những vấn đề để khách hàng trình bày đúng bản chất của vụ việc. Người tư
vấn nên lưu ý khách hàng, chỉ có thể đưa ra giải pháp chính xác, đầy đủ và
đúng pháp luật nếu khách hàng trình bày vấn đề trung thực và khách quan.
-bước 2. Chốt lại cách hiểu vụ việc của mình với khách hàng tránh việc hai
bên có sự khác nhau trong nhìn nhận vụ việc. Cần nhớ rằng các thông tin, tài
liệu khách hàng cung cấp chỉ là một chiều và mới chỉ phản ánh một phần câu
chuyện nên rất có thể đối tác hay bên tranh chấp với khách hàng cũng có thể
nắm giữ những thông tin hữu ích có thể khai thác. Đồng thời trong quá trình
tìm hiểu yêu cầu tư vấn và làm việc với khách hàng, người tư vấn không tỏ ra
lạc quan hay bi quan thái quá sau khi mới nghe những thông tin đầu tiên của

họ, không nên đưa ra lời khẳng định ngay về vụ việc khi mới tiếp xúc với vụ
việc.
-bước 3. Khai thác, hỏi khách hàng về những vấn đề để làm rõ thêm. Các câu
hỏi mà người tư vấn đặt ra cần hướng tới việc làm sáng tỏ các nội dung cơ
bản sau: khách hàng muốn gì ở lời tư vấn của luật sư? Đâu là quan hệ pháp lý
chủ yếu cần quan tâm nhất và cần được tập trung giải quyết? Còn các quan hệ
khác có mối quan hệ với quan hệ pháp lý mấu chốt như thế nào?
-bước 4. Phân tích các tài liệu đi kèm và yêu cầu cung cấp thêm. Trước hết,
người tư vấn đối chiếu lời trình bày của khách hàng với các tài liệu họ cung
cấp. Sau đó, đánh giá, phân tích chứng cứ để xác định cần bổ sung thêm
những tài liệu gì. Người tư vấn cần phải dành thời gian để đọc hết các giấy
tờ, tài liệu, văn bản có liên quan đó. Đối với các tài liệu bằng tiếng nước
ngoài nhất thiết phải được dịch ra tiếng Việt để hiểu đúng nguyên văn tài liệu
đó, đồng thời cũng dùng đính kèm hồ sơ để sử dụng lâu dài. Khi đọc hồ sơ
mà khách hàng cung cấp, người tưu vấn cần :
+Sắp xếp tài liệu theo mạch thời gian để tiện theo dõi câu chuyện
+Đọc kỹ vụ việc sau đó cần có bản tóm tắt vụ việc


+Giữ thái độ khách quan khi đọc các tài liệu
+Đừng nhìn ngay vào chi tiết hay tìm ngay giải pháp mà cần nhìn tổng thể vụ
việc dưới góc độ chính Đối tượng- Tư cách- Quan hệ cũng như cần chú ý
trước mắt các mốc thời gian quan trọng, các con số, sự kiện,...
Những bước trên sẽ giúp cho người tư vấn hiểu một cách sâu sắc, đầy đủ nhất
về mong muốn của khách hàng để tìm ra phương án tốt nhất, vừa phù hợp với
yêu cầu của pháp luật lại vừa lam hài lòng được khách hàng.


II. Liên hệ thực tiễn
1. Tình huống.

Anh Nguyễn Văn An và chị Nguyễn Thị Hoa kết hôn năm 2000, sau một thời
gian chung sống với nhau do có mâu thuẫn nên anh An và chị Hoa đã ly thân
năm 2010, đến tháng 1/2018 anh An yêu cầu ly hôn và chị Hoa đã đồng ý.
Về con chung: anh chị có 2 cháu Nguyễn Văn Hòa sinh năm 2005 và cháu
Nguyễn Thị Thúy sinh năm 2010. Khi ly hôn chị Hoa muốn nhận nuôi cả 2
cháu tuy nhiên anh An cho rằng mình có điều kiện kinh tế tốt hơn với mức
lương là 50 triệu nên cũng muốn giành quyền nuôi cả hai con.
Về Tài sản chung: năm 2000 sau khi kết hôn anh chị được bố mẹ chồng cho
mảnh đất tại quận Đống Đa có diện tích là 50m2, bố mẹ anh An có nói "mảnh
đất này cho 2 vợ chồng để làm nhà ở ". Tuy nhiên khi đi làm thủ tục cấp sổ
đỏ, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ mang tên anh An. Sau khi đc cho
đất, năm 2001 vợ chồng anh chị xây dựng được căn nhà 2 tầng, trị giá căn
nhà là 2 tỷ. Đến năm 2016, chị Hoa có xây dựng cơi nới thêm một tầng nữa.
Khi ly hôn chị yêu cầu giá trị đất và căn nhà 2 tầng chia đôi, còn tiền xây
dựng tầng thứ 3 mà chị xây sau khi anh An li thân là hoàn toàn thuộc về chị.
Còn anh An yêu cầu chia sao cho đất là của anh còn giá trị căn nhà 3 tầng
chia đôi.
Được biết trong thời gian li thân anh An vẫn gửi tiền cấp dưỡng cho 2 cháu
mỗi tháng là 6tr,1 tuần 1 lần về thăm các cháu. Đồng thời trong thời gian li
thân chị Hoa có sống chung như vợ chồng với anh Nguyễn Văn Thắng. Anh
An đã đến trung tâm tư vấn pháp luật để nhờ tư vấn để bảo vệ quyền và lợi
ích cho anh khi ly hôn về vấn đề tài sản và con chung.
2. Phân tích kỹ năng tìm hiểu yêu cầu của tình huống trên.
Trong tình huống trên anh An là người trực tiếp đến gặp luật sư để tư vấn về
vấn đề pháp lý liên quan đến vụ việc ly hôn. Như tình huống đưa ra thì vợ
chồng anh An với chị Hoa đã thuận tình ly hôn; anh An mong muốn được
giành quyền nuôi hai con, còn tài sản thì yêu cầu chia như sau: đất là của anh


còn giá trị căn nhà 3 tầng chia đôi. Dựa trên những tình tiết đó người tư vấn

có thể nhận thấy rằng yêu cầu của khách hàng cụ thể là anh An, xoay quanh
hai vấn đề chính đó là yêu cầu tư vấn về giành quyền nuôi con và phân chia
tài sản.
Về yêu cầu tư vấn giành quyền nuôi con: Để tìm hiểu về yêu cầu này
của anh An thì luật sư phải có những câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa
anh An và hai con của mình, đặt ra những câu hỏi tìm hiểu về các mối quan
hệ cũng như thái độ sống của anh An về phương diện đạo đức, cách sống sự
quan tâm đến gia đình con cái để giải quyết yêu cầu này của anh An đồng
thời luật sư nên tư vấn cho anh An biết rằng : “việc quyết định ai sẽ là người
có quyền nuôi con sau ly hôn sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Do vậy, không
thể khẳng định khả năng giành quyền nuôi con sẽ thuộc về anh, mà chỉ có thể
phân tích dựa trên cơ sở pháp luật từ đó thấy được những lợi thế và bất lợi
của anh khi giành quyền nuôi con. Cụ thể:
Khoản 2 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “ Vợ, chồng thỏa
thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly
hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;
nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”
Như vậy trong trường hợp vợ chồng anh không thể thỏa thuận ai có
quyền nuôi con thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi dưỡng
dựa trên quyền lợi về mọi mặt của con. Cụ thể sẽ xem xét tổng thể trên các
mặt sau đây:
Điều kiện kinh tế: cha và mẹ để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho con
cần phải có tài chính. Pháp luật không bắt buộc người trực tiếp nuôi dưỡng
con chung phải có năng lực tài chính tốt, cho con cái cuộc sống chất lượng
cao, hiện đại, mà chỉ đặt ra yêu cầu cha/mẹ phải đảm bảo được mức sống tối
thiểu cho con chung. Mức sống tối thiểu được xác định là những nhu cầu cần
và đủ cho lứa tuổi của con và ở mức tối thiểu. Nếu như anh chứng minh được
điều kiện kinh tế của anh tốt hơn chị Hoa thì anh có lợi trong việc nuôi con.



Điều kiện tinh thần: có thể kể đến như:
+ Phẩm chất đạo đức của cha/mẹ: người trực tiếp nuôi dưỡng con chung
đương nhiên phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, bởi điều này sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của con chung.
+ Điều kiện sức khỏe của cha/mẹ: người trực tiếp nuôi dưỡng con chung phải
có sức khỏe đảm bảo cho việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con.
+ Điều kiện công việc và thời gian dành cho con: xem xét đến tính chất công
việc, thời gian làm việc và thời gian cha/mẹ có thể dành cho con khi trực tiếp
nuôi dưỡng cho con. Có cha/mẹ làm buôn bán ngay tại nhà rất thuận lợi cho
việc trực tiếp nuôi dưỡng con. Cũng có những cha/mẹ do tính chất công việc
hay phải đi sớm về muộn, phải đi công tác xa, dẫn đến việc không dành thời
gian chăm sóc cho con. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc giành quyền nuôi
con.
+ Điều kiện môi trường sống: môi trường sống là yếu tố tác động đến sự phát
triển nhân cách của con, cha/mẹ khi giành quyền nuôi con phải chứng minh
về môi trường sống của con.
Về mong muốn của con. Tuy nhiên điều kiện này chỉ áp dụng trong
trường hợp con lớn hơn 7 tuổi. Trong trường hợp của anh thì cả hai cháu đều
đã đủ 7 tuổi nên phải dựa vào mong muốn của các con anh. Nếu xét hai cháu
Hòa và Thúy không đưa ra nguyện vọng thì luật sư có thể đưa ra một số quan
điểm để giúp anh An giành quyền nuôi con.
Xét về khía cạnh kinh tế: Anh An là người có công việc ổn định thu nhập tốt,
50 triệu/1 tháng có thể lo cho hai cháu.
Xét khía cạnh trách nhiệm của một người cha anh An cũng đã thực hiện tốt,
cụ thể trong thời gian ly thân với chị Hoa anh An đã chu cấp cho hai cháu
Thúy và Hòa 6 triệu một tháng, đây cũng là một khoản để đáp ứng đời sống
tối thiểu cho hai cháu, hơn hết về mặt tình cảm anh vẫn thường xuyên về nhà
chăm sóc thực hiện nghĩa vụ của một người cha.



Anh An cũng có lợi thế hơn khi hiện tại chị Hoa đang có hành vi sống chung
như vợ chồng với anh Nguyễn Văn Thắng, điều này sẽ tạo thuận lợi hơn cho
anh An khi muốn nuôi hai con, vì chị Hoa đã có hành vi vi phạm pháp luật
chế độ hôn nhân một vợ một chồng, qua đó cũng đánh giá đạo đức của chị
một phần nào cũng bị giảm sút.
Về yêu cầu chia tài sản vợ chồng sau khi ly hôn.
Luật sư có thể tìm hiểu mong muốn của khách hàng thông qua thái độ và
những thông tin mà khách hàng cung cấp.
Luật sư sẽ trao đổi với anh An, tìm hiểu những thông tin về đời sống
của anh có liên quan tới các mặt như công việc tiền lương, sự đóng góp của
anh và của chị Hoa trong thời kỳ hôn nhân.
Đặt ra những câu hỏi về mối quan hệ của hai anh chị từ khi kết hôn cho
đến thời điểm ly hôn. Để nhìn nhận một cách khách quan đa chiều và chính
xác nhất để hướng cho anh An giải quyết vấn đề một cách tốt nhất
Nêu ra những căn cứ pháp lý để anh An biết mình có những thuận lợi
nào. Dưới đây là những căn cứ cụ thể:


Căn cứ Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Trong trường hợp
vợ chồng khi ly hôn thì việc chia tài sản khi ly hôn theo các nguyên tắc sau:
''1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải
quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu
cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại
các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật
này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải
quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận
không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố
sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao
động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.''
Như vậy, để phân chia tài sản khi ly hôn phải xác định được tài sản chung và
tài sản riêng của vợ, chồng. Theo đó Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định cụ thể tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được


quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng
cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để
bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài
sản chung”.
Theo quy định về chia tài sản chung của vợ chồng thì về mặt nguyên

tắc hai vợ chồng anh có thể thỏa thuận về chia tài sản chung và việc thực hiện
các nghĩa vụ tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp này vợ chồng anh không
thỏa thuận được thì việc chia tài sản theo nguyên tắc sẽ được chia đôi, nhưng
khi chia cũng sẽ được xem xét một số yếu tố như: Hoàn cảnh của gia đình và
của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và
phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi
như lao động có thu nhập; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản
xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo
thu nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền và nghĩa vụ. Sau khi trình bày
và giải thích những quy định của pháp luật cho anh An hiểu thì sau đó luật sư
sẽ áp dụng vào trường hợp của anh An và chị Hoa. Theo đó, thì việc anh An
đòi tài sản chia đôi là có khả năng làm được, vì căn nhà hai tầng trị giá 2 tỷ
và tầng thứ 3 mà chị Hoa xây lên đều là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,
hơn nữa trong khoảng thời gian này mặc dù anh An không có mặt ở nhà đều
đặn nhưng vẫn thực hiện nghĩa vụ nuôi con, tức tài sản của hai vợ chồng làm
ra trong thời kỳ này đều là tài sản chung, vì hai người chưa chính thức ly hôn
và không hề có văn bản thỏa thuận nào nói rằng thời gian ly thân thì tài sản
của ai làm ra thì là tài sản riêng. Do đó căn nhà 3 tầng này sẽ được chia đôi


theo yêu cầu của anh An, yêu cầu của anh An hoàn toàn chính đáng. Ngoài ra
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh An thì luật sư cần tư vấn thêm
trong quá trình chia tài sản thì có tính tới công sức đóng góp của vợ chồng
tùy thuộc nếu anh An có đủ các chứng cứ chứng minh rằng mình có đóng góp
nhiều hơn và xét đến khía cạnh người có lỗi thì anh An cũng có thể chứng
minh là mình không phải là người cs lỗi mà là chị Hoa thì khi tòa án phân
chia tài sản sẽ xét tới những yếu tố này và sẽ chia nhiều hơn cho anh An.


KẾT LUẬN

Tóm lại, ta có thể thấy việc nắm vững các kĩ năng tư vấn pháp luật nói chung,
kĩ năng tìm hiểu yêu cầu tư vấn nói riêng là hết sức quan trọng và cần trau
dồi để kĩ năng ngày một hoàn thiện hơn, góp phần giúp quá trình tư vấn pháp
luật diễn ra hiệu quả, thuận lợi, hoàn thành tốt vai trò của mình. Trên đây là
phần trình bày của nhóm em đối với đề bài nêu trên, trong quá trình làm bài
chắc chắn không tránh khỏi sai sót, nhóm em rất mong nhận được ý kiến
đánh giá từ thầy cô để bài viết thêm hoàn thiện. Chúng em xin chân thành
cảm ơn !


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật. Nxb công an nhân dân Hà Nội2012. Học viện tư pháp.
2. Giáo trình kỹ năng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp. phần chuyên
sâu. Học viện tư pháp; Chủ biên: Ngô Hoàng Oanh, Nguyễn Minh
Hằng; Biên soạn: Nguyễn Thị Minh Huệ…
3. Kỹ năng xây dựng mối quan hệ với khách hàng của luật sư trong tư vấn
pháp luật.Tạp chí pháp luật số 06/2010.
4. Kỹ năng tư vấn pháp luât trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Số chuyên
đề 2002.



×