VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÒ THỊ THOA
KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LAI CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÒ THỊ THOA
KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶNTHEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LAI CHÂU
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MẠNH HÙNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lò Thị Thoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP
VIỆT NAM VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................. 9
1.1 Khái niệm, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn........................................ 9
1.2. Cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn ................ 14
1.3. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự ....................................................................................... 16
1.4. Vai trò, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn và kiểm sát việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn ........................................................................................ 24
1.5. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015......... 27
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ................................................................................................ 36
2.1. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt ....................................................... 36
2.2. Kiểm sát việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ ................................................... 40
2.3. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp tạm giam, bắt tạm giam ...................... 41
2.4. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.................................................................................................... 45
2.5. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam người bị dẫn độ ............. 47
2.6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam .................... 49
2.7. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú......................... 51
2.8. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh ............................................... 51
2.9. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm .................................................................................................................. 52
2.10. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất cảnh ......... 53
2.11. Kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn ............... 53
Chương 3 THỰC TIỄN KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI TỈNH LAI
CHÂU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ................................................................................................ 55
3.1. Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại địa bàn
tỉnh Lai Châu ................................................................................................... 55
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn tại địa bàn tỉnh Lai Châu................................ 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
BPNC
Biện pháp ngăn chặn
CQĐT
Cơ quan điều tra
ĐTV
Điều tra viên
KSV
Kiểm sát viên
TA
Tòa án
TAND
Tòa án nhân dân
THTT
Tiến hành tố tụng
TTHS
Tố tụng hình sự
TNHS
Trách nhiệm hình sự
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số lượt kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ......... 58
Bảng 3.2 Số lượt kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn chuyển từ
tạm giữ sang các biện pháp ngăn chặn khác ................................................... 59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định quan trọng của
BLTTHS. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt (bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả
tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu
cầu dẫn độ), tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm
bảo, tạm hoãn xuất cảnh. Đây là các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với
người bị tình nghi, người bị buộc tội nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi
nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh
pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, nghiêm minh
người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi
giải quyết các vụ án hình sự, góp phần áp dụng pháp luật đúng đắn, không để lọt
người phạm tội và không làm oan người vô tội.
Việc áp dụng BPNC thể hiện sự cưỡng chế mạnh mẽ, thái độ kiên quyết
của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và kẻ phạm tội, khi
áp dụng BPNC, nhất là các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ ảnh hưởng
trực tiếp và mạnh mẽ đến các quyền con người, nếu áp dụng các biện pháp ngăn
chặn không đúng sẽ dẫn đến oan sai, xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngược lại, nếu không áp dụng
các BPNC đối với người phạm tội dẫn đến việc bỏ trốn, tiếp tục gây án làm thiệt
hại đến quyền con người và lợi ích của công dân, cộng đồng xã hội, gây khó
khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử vụ án, làm giảm sút uy tín, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây ra sự hoài nghi của quần chúng
nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực
1
hiện trong năm 2000 xác định rõ: “Tăng cường trách nhiệm của VKSND đối với
công tác bắt, giam giữ. Việc bắt, giam phải được xem xét phê chuẩn đối với từng
trường hợp, từng đối tượng cụ thể. Đối với trường hợp bắt giam cũng được,
không bắt giam cũng được thì không bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ
ở địa phương nào thì trước hết VKSND ở địa phương đó chịu trách nhiệm”.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/10/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ: “Tăng
cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật. Những
trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh
bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong
bắt giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong bắt, tạm
giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình…”.
Trong thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy,
đã không ít các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong khi áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, dẫn đến hậu quả oan sai, lọt tội, vi phạm pháp luật, không những làm
giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, xâm
phạm nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà ngược
lại còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật,
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước. Những sai sót, vi
phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên có một phần
trách nhiệm và xuất phát từ những hạn chế, thiếu sót của VKSND trong công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng
BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam.
Tăng cường trách nhiệm, không ngừng nâng cao vai trò, chất lượng, hiệu
quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp
dụng các BPNC, ngăn chặn, khắc phục việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, truy
tố, xét xử oan sai, trái pháp luật, bỏ lọt tội phạm… đang đặt ra cho VKSND
trọng trách năng nề trong tiến trình thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện đại, hiệu quả, nhân văn.
2
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy định của
BLTTHS về BPNC, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn vẫn còn những bất cập, khó khăn trong thực hiện. Các
yếu tố như cơ sở vật chất, con người cũng tác động, ảnh hưởng lớn đến việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Trước tình hình trên, việc nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về lý luận
cũng như thực tiễn các quy định của pháp luật về BPNC, về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng BPNC, nhằm tăng cường hiệu quả
công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC, đề ra những giải pháp hợp lý, góp phần
hoàn thiện các quy định của BLTTHS về BPNC, đảm bảo cho pháp luật được áp
dụng nghiêm chỉnh và thống nhất, tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm có hiệu
quả. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lai Châu” làm đề
tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Biện pháp ngăn chặn là một nội dung quan trọng của BLTTHS, áp dụng
BPNC là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền
theo pháp luật, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Kiểm sát việc áp dụng
BPNC là chức năng, nhiệm vụ của VKSND được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật. Dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, vấn đề này đã được nhiều
nhà khoa học pháp lý, nhiều tác giả nghiên cứu đề cập tới, có thể kể đến các
công trình như:
- Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong
tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”(năm 2005)
của tác giả Nguyễn Văn Điệp [9].
3
- Luận văn thạc sĩ“Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp
tạm giam” (năm2006) của tác giả Phạm Duy Trường [28].
- Luận văn thạc sĩ“Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam” (năm 2010) của tác giả Lê Thanh Bình [3].
- Luận văn thạc sĩ: “Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam”của tác giả Tô Thị Thu Trang, Khoa luật, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2014 [27].
- Luận văn thạc sĩ: “Vai trò của viện kiểm sát trong áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố: thực tiễn trên địa bàn thành
phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Kiều Diễm, Khoa luật, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2014 [6].
- Luận văn thạc sĩ:“Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà
Nội” của tác giả Phan Thị Thanh Nga, năm 2015 [15].
- Luận văn thạc sĩ:“Kiểm sát áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Công Vang, Viện Hàn
lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội năm 2017 [31].
Đề tài khoa học cấp Bộ
-“Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp” (năm 2008) của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao [33].
- “Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự”
của TS. Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 7/2005 [24].
- “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp”
của TS. Phạm Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 21/2007 [12],
4
-“ Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS
năm 2003” của PGS.TS Nguyễn Đức Thuận đăng trên Tạp chí Luật học số
07/2008 [26].
- “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam” của tác giả Dương Ngọc An đăng trên Tạp
chí Kiểm sát số 14/2012 [1].
- “Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng có thẩm quyền quyết định áp dụng tạm
giam” của TS. Đỗ Văn Đương đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 19/2012 [7].
Các công trình Bình luận khoa học BLTTHS [13], các tài liệu, giáo trình
giảng dạy như Giáo trình Luật TTHS của các trường Đại học như: Đại học Luật
Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Cảnh sát nhân dân, Đại
học kiểm sát Hà Nội [28,29].
Nhìn chung, các công trình trên đều nghiên cứu về các biện pháp ngăn
chặn nói chung hoặc nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến BPNC, trong đó có
nghiên cứu về kiểm sát việc áp dụng BPNC. Tuy nhiên chưa có công trình nào
nghiên cứu về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên
cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của
mình, học viên trình bày trong Luận văn cơ sở lý luận, nội dung kiểm sát việc áp
dụng BPNC và thực tiễn công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC ở địa bàn tỉnh
Lai Châu, đưa ra nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát việc áp dụng BPNC ở địa phương mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHSVN về biện
pháp ngăn chặn, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng, Luận văn đưa ra khái niệm
5
về biện pháp ngăn chặn, kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, thực tiễn
kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Lai Châu, từ đó
kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về các BPNC và đưa ra một số giải
pháp tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC
trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ:
Xác định rõ khái niệm và nội dung kiểm sát việc áp dụng các BPNC theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về
kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu để làm rõ những hạn
chế, bất cập trong việc thực hiện những quy định này.
Từ việc đánh giá thực trạng áp dụng, tìm ra nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả công
tác kiểm sát việc áp dụng BPNC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
- Khái niệm, nội dung công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc áp
dụng các BPNC.
- Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong việc kiểm sát việc áp dụng các BPNC và thực tiễn áp dụng những quy định
6
này từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Luận văn không
nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát quân sự, cũng như một số
vấn đề khác có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận để tác giả nghiên cứu đề tài dựa vào phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật, tăng cường
pháp chế XHCN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu truyền thống như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, logic,
khảo sát thực tế, thống kê, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng của
VKSND và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc áp dụng BPNC để luận
giải, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, thực tiễn để hoàn thành Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp và hoàn thiện cơ sở lý luận,
quan điểm pháp lý thống nhất về BPNC, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác
kiểm sát việc áp dụng BPNC, thực hiện đúng đắn pháp luật tố tụng hình sự về
bắt, tạm giữ, tạm giam và các BPNC khác trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua các kết quả nghiên cứu, các đề xuất, giải pháp được áp dụng sẽ
góp phần tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong
thực tiễn, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm sát việc áp
dụng các BPNC, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong tình
hình mới.
7
Kết quả nghiên cứu của Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo, học tập cho cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là tại địa bàn
tỉnh Lai Châu.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của Luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp Việt Nam về kiểm
sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Chương 3: Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại
tỉnh Lai Châu và các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM
VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể”. Ngăn chặn là “chặn lại từ đầu, không để cho gây tác hại” [4].
Trong giới luật học của Việt Nam, có rất nhiều ý kiến về BPNC.
Theo tác giả Nguyễn Duy Lãm thì: “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp
có tính chất cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối
với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm phòng ngừa,
ngăn chặn hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án, bảo
đảm thực hiện đúng đắn các nhiệm vụ của tố tụng hình sự” [14, Tr.37]. Theo
đó các BPNC là các biện pháp có tính cưỡng chế đối với người phạm tội,
nhằm ngăn ngừa các hành vi gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử. Tuy nhiên, theo học viên thì ý kiến này chưa nêu đủ các đối
tượng và cơ quan có thẩm quyền áp dụng BPNC cũng như mục đích áp dụng.
Theo tác giả Bình Nguyên thì: “Những biện pháp ngăn chặn được quy
định trong hoạt động tố tụng hình sự là những biện pháp do luật định được thực
hiện khi xét thấy cần thiết nhằm ngăn chặn người phạm tội đang có hành vi thực
hiện tội phạm hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm, loại trừ việc bị can, bị cáo gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và ngăn ngừa bị can, bị cáo, người bị
kết án trốn tránh để bảo đảm cho việc thi hành án được thực hiện”[16, Tr.98].
Theo học viên thì khái niệm này đã nêu rõ được mục đích và sự cần thiết của các
BPNC, nhằm phân biệt với các biện pháp cưỡng chế khác như: khám xét người,
9
dẫn giải người làm chứng, kê biên tài sản,…tuy nhiên, cũng chưa nêu rõ chủ thể
nào có quyền áp dụng BPNC.
Cũng có ý kiến cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp
cưỡng chế do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với người bị
tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả với người bị án khi các cơ quan
này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội” [38, Tr.502-503]. So với các
khái niệm đã nêu, học viên nhận thấy khái niệm này đã tiếp cận đầy đủ hơn nội
dung của các BPNC, nêu rõ được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng, đối tượng
và căn cứ áp dụng BPNC. Tuy nhiên, chưa nêu đầy đủ về các chủ thể có thẩm
quyền áp dụng BPNC do pháp luật quy định.
Nhìn chung, các quan điểm trên đã nêu lên được một số khía cạnh về khái
niệm BPNC nhưng chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng
được tất cả các đặc điểm của BPNC. Do vậy, để có cơ sở cho việc đưa ra khái
niệm chính xác về BPNC chặn, cần phải tìm hiểu các dấu hiệu đặc trưng của nó
và thể hiện ở nội dung, căn cứ, mục đích áp dụng, người có thẩm quyền áp dụng
và đối tượng có thể bị áp dụng BPNC.
Theo học viên, khái niệm biện pháp ngăn chặn như sau: Biện pháp ngăn
chặn là những biện pháp cưỡng chế do pháp luật tố tụng hình sự quy định gồm:
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh do Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án hoặc do những người có thẩm quyền hay bất kỳ ai
được luật tố tụng hình sự quy định và cho phép có quyền áp dụng đối với bị can,
bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn những hành
vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có những
hành động gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 (Điều 79 BLTTHS 2003), thì
các BPNC được áp dụng nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm cho
10
công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án. Như vậy, việc áp dụng
BPNC nhằm các mục đích sau đây:
Một là, ngăn ngừa tội phạm, bao gồm:
- Ngăn chặn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra;
- Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang được thực hiện tiếp tục
tiếp diễn;
- Ngăn ngừa người phạm tội có thể thực hiện tội phạm mới như trường
hợp bắt giữ người phạm tội đang đe dọa trả thù những người biết về sự việc
phạm tội của họ, nhằm mục đích ngăn không để cho người đó phạm tội mới với
hành vi trả thù.
Hai là, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
Các BPNC được áp dụng bảo đảm các điều kiện pháp lý cho hoạt động tố
tụng hình sự theo đúng các quy định của pháp luật (bảo đảm sự có mặt của bị
can, bị cáo, bị án trong hoạt động tố tụng khi cần thiết). Cũng như bảo đảm tính
chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng (bảo đảm bí mật điều tra, không
cho bị can, bị cáo có điều kiện thông cung)…
Tóm lại, mục đích của BPNC trong tố tụng hình sự là ngăn chặn tội phạm
và bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm thi hành án như Điều
109 BLTTHS 2015 (và Điều 79 BLTTHS 2003) đã quy định.
1.1.2. Về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Các BPNC trong tố tụng hình sự do CQĐT, VKS, TA có thể áp dụng
trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án.
Đối với một số BPNC được áp dụng trước giai đoạn điều tra hoặc để phục
vụ cho công tác điều tra ban đầu thì ngoài những người có thẩm quyền trong cơ
quan điều tra áp dụng còn có một số người không thuộc cơ quan điều tra áp dụng
như: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương;
Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu
biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng (Điều 81 BLTTHS
11
2003) và bổ sung thêm những người có thẩm quyền sau: Đồn trưởng Đồn biên
phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên
phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên
phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ
đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm
Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục
nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng và trong trường hợp phạm tội quả tang, người trốn truy nã thì
người nào cũng có thẩm quyền áp dụng (điểm b khoản Điều 110 BLTTHS năm
2015 mới bổ sung thêm).
Căn cứ áp dụng các BPNC là những cơ sở pháp lý do BLTTHS quy định
cho phép người có thẩm quyền áp dụng lần đầu tiên đối với bị can và trong một
số trường hợp đối với người chưa bị khởi tố bị can một trong những BPNC được
quy định trong BLTTHS.
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 có các BPNC: Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp; bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh. Theo đó thì căn cứ áp dụng
BPNC bao gồm ba căn cứ sau:
Một là, khi cần phải kịp thời ngăn chặn tội phạm.
Kịp thời ngăn chặn tội phạm, là ngăn ngừa, không cho tội phạm đang
được chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện tiếp tục thực
hiện. Do vậy, căn cứ này thường được áp dụng đối với người chưa bị khởi tố bị
can trong những trường hợp sau:
- Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức là người đó tìm kiếm,
sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực
hiện tội phạm gây nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 07 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
12
- Khi một người đang thực hiện một tội phạm, tức là hành vi phạm tội của
người đó đã bắt đầu được thực hiện nhưng chưa kết thúc. Ngăn chặn tội phạm
trong trường hợp này là để ngăn cản không cho người phạm tội thực hiện đến
cùng hành vi phạm tội của mình.
Hai là, khi có căn cứ, chứng tỏ người phạm tội sẽ gây khó khăn cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Kịp thời bắt giữ người
phạm tội có ý nghĩa rất lớn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi
hành án, nếu không kịp thời bắt giữ, người phạm tội có thể trốn, tiêu hủy, thay
đổi chứng cứ vụ án, xóa bỏ các dấu vết của vụ án,… và việc xác định sự thật của
vụ án sẽ khó khăn, phức tạp.
- Căn cứ này có thể áp dụng trước khi khởi tố vụ án, hay trong giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Do vậy, đối tượng áp dụng khá
rộng, bao gồm:
+ Chưa khởi tố bị can, đây là căn cứ để giữ và bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015
(điểm a, Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003)
+ Khi người cùng thực hiện tội phạm, bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội
phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm b khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003).
+ Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, hoặc nơi làm
việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Căn cứ này cũng vận
dụng để áp dụng BPNC đối với những người “ngay sau khi thực hiện tội phạm thì
bị phát hiện hoặc đuổi bắt”, cũng như người đang bị truy nã, quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003).
- Sau khi khởi tố bị can, trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm
thi hành án thì có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
cho bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh.
13
Điều luật quy định phải có “căn cứ chứng minh” việc áp dụng BPNC là
cần thiết.
Ba là, khi có căn cứ chứng tỏ bị can sẽ tiếp tục phạm tội.
Đây là một trong những căn cứ áp dụng BPNC đối với bị can khi có căn
cứ chứng tỏ bị can sẽ tiếp tục phạm tội, nếu để họ tự do ngoài xã hội.
Những căn cứ chứng tỏ bị can sẽ tiếp tục phạm tội có thể là:
- Bị can là những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp, những tên côn đồ coi thường pháp luật;
- Bị can có hành vi đe dọa trả thù những người biết rõ sự thật của vụ án.
Khi áp dụng căn cứ này cần lưu ý tới khả năng thực hiện sự đe dọa đó của
bị can, bị cáo.
1.2. Cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
1.2.1. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 (Điều 79 BLTTHS 2003), quy
định trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự: Để kịp thời
ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can sẽ gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc
người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS có thể áp dụng một trong những
BPNC sau đây: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh.
1.2.2. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định của BLTTHS thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các
cấp có thể áp dụng các BPNC và quyết định áp dụng các BPNC của những
người này phải có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành, trừ các
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt
người bị truy nã, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh. Trong
một số trường hợp khi tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu, việc áp dụng
14
biện pháp ngăn chặn, không chỉ có những người có thẩm quyền trong CQĐT mà
có thể những người thuộc các cơ quan quản lý Nhà nước như: Người chỉ huy đồn
biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay,
tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng(Điều 81 Bộ luật TTHS năm 2003) và bổ
sung thêm những người có thẩm quyền sau: Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ
huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội
biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội
biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và
pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống
tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư
vùng(Điều 110 Bộ luật TTHS 2015). Trong trường hợp phạm tội quả tang, người
trốn truy nã thì người nào cũng có thẩm quyền áp dụng.
Như vậy, BLTTHS quy định chỉ có CQĐT có thẩm quyền áp dụng BPNC
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong giai đoạn tiền khởi tố hay
nói cách khác là trong giai đoạn khi phát hiện tội phạm để phục vụ cho công tác
điều tra hay giai đoạn điều tra ban đầu, người có thẩm quyền áp dụng thì rộng hơn,
không những người có thẩm quyền trong các CQĐT mà có cả một số người có
thẩm quyền trong các cơ quan quản lý nhà nước đang thi hành nhiệm vụ hoặc bất
kỳ người nào cũng có thể áp dụng BPNC trong một số trường hợp cụ thể nhất định.
Còn trong giai đoạn truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án thì Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKSND; Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa những người có thẩm quyền áp dụng BPNC như bắt tạm giam, bảo
lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh …
Về đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, theo quy định tại
Mục 1 Chương VII BLTTHS 2015 (Chương VI của BLTTHS 2003), thì đối
tượng có thể bị áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự gồm:
15
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh
có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;
- Người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng;
- Người đang thực hiện tội phạm;
- Người đã thực hiện tội phạm;
- Người có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, hoặc nơi làm việc
hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm;
- Bị can có dấu hiệu bỏ trốn.
1.3. Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự
1.3.1. Khái niệm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp
dụng các BPNC, VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để
đảm bảo việc áp dụng BPNC là cần thiết, có căn cứ, đúng pháp luật, đồng thời
ngăn chặn, phát hiện, loại trừ vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC.
Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo đảm mọi trường hợp bị áp dụng BPNC đều phải
có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai, bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con
người và các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPNC không bị pháp
luật hạn chế, tước bỏ được tôn trọng, bảo vệ.
Nói như vậy để thấy rằng hoạt động kiểm sát việc áp dụng các BPNC
trong tố tụng hình sự chính là một trong những nội dung quan trọng của công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, đây
là một công tác kiểm sát nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS đã được Hiến định, nhằm đảm bảo cho việc
áp dụng các BPNC của các cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ và đúng theo quy
16
định của pháp luật, loại trừ những vi phạm nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân.
Khi đề cập đến khái niệm của hoạt động kiểm sát việc áp dụng các BPNC
trong tố tụng hình sự, đến nay chưa có một tài liệu nào đưa ra khái niệm chính
thức, kể cả các tài liệu giảng dạy, học tập, nghiên cứu của ngành kiểm sát. Tuy
nhiên cũng có một số quan điểm đề cập đến vấn đề này như:
Tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng “Kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ bao
gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố xét xử và thi
hành án” [40, Tr.3]. Theo học viên, quan điểm này phù hợp với tinh thần và nội
dung của Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Tác giả Nguyễn Thị Kiều Diễm, đưa ra khái niệm “vai trò của Viện KSND
đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố là
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND trong các
hoạt động áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan,
người có thẩm quyền theo pháp luật TTHS Việt Nam trong giai đoạn điều tra,
truy tố nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật được áp dụng có căn cứ cũng
như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [6].
Tác giả Nguyễn Công Vang khi nghiên cứu về kiểm sát việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cho rằng: “Kiểm sát
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra có căn cứ, đúng pháp luật; góp phần loại
trừ những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của
Cơ quan điều tra, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân không bị
xâm phạm. [31]. Luận điểm của tác giả Vang tương đối phù hợp với các quy
định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND, tuy nhiên học viên nhận thấy khái
niệm trên có phạm vi bó hẹp trong công tác điều tra vụ án hình sự của Cơ quan
điều tra.
17
Theo học viên để đưa ra khái niệm về kiểm sát việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam thì cần phải đi sâu nghiên cứu,
phân tích các quy định của BLTTHS Việt Nam về các BPNC và nghiên cứu về
nhiệm vụ quyền hạn của VKS đối với việc áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự,
trong đó:
Theo quy định tại các Điều 41, 42 BLTTH 2015 (Điều 36, 37 BLTTHS
2003) quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó viện
trưởng, Kiểm sát viên VKSND, là những người thay mặt VKSND thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó quy
định rõ: Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, gia hạn
tạm giam; quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT;
hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra,…
Tại khoản 4 Điều 165 BLTTHS 2015 (khoản 4 Điều 112 BLTTHS 2003)
quy định rõ thẩm quyền của VKS khi tiến hành kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn của CQĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Khi thực hiện
thẩm quyền trên, nếu phát hiện việc áp dụng các BPNC của CQĐT không có căn
cứ và trái quy định của pháp luật thì VKS có quyền phê chuẩn, không phê chuẩn
hoặc hủy bỏ các quyết định của CQĐT, trách nhiệm của CQĐT là chấp hành các
quyết định của VKS kể cả trong trường hợp đồng ý hay không đồng ý, theo quy
định tại khoản 2 Điều 167 BLTTHS 2015 (Điều 114 BLTTHS 2003) quy định
nếu không đồng ý với các quyết định của VKS thì CQĐT cũng phải chấp hành
nhưng có quyền kiến nghị lên VKS cấp trên.
Theo quy định của pháp luật TTHS, VKS kiểm sát các trường hợp áp
dụng BPNC trong luật tố tụng hình sự, cụ thể như:
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt:
Bắt người là một trong các biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế cao đối
với người có dấu hiệu hoặc đã, đang thực hiện hành vi phạm tội để phục vụ cho
công tác xác minh điều tra. Trong mọi trường hợp VKS phải kiểm tra, giám sát
18