Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.09 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÒ THỊ THOA

KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LAI CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM
VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ..........................................................................................9
1.1 Khái niệm, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.........................................9
1.2................................................................................................................Cơ
quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn.....................14
1.3.

Khái niệm, đặc điểm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

trong tố tụng hình sự...............................................................................................16
1.4.

Vai trò, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn và kiểm sát việc áp dụng


biện pháp ngăn chặn................................................................................................24
1.5.

Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về kiểm sát việc áp dụng các biện

pháp ngăn chặn đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015............27


Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN..............36
2.1.....................................................................................................................Kiể
m sát việc áp dụng biện pháp bắt.................................................................36
2.2.............................................................Kiểm sát việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ
...................................................................................................................... 40
2.3.....................................................................................................................Kiể
m sát việc áp dụng biện pháp tạm giam, bắt tạm giam................................41
2.4.

Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18

tuổi phạm tội...........................................................................................................45
2.5..................................................................................................................... Ki
ểm sát việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam người bị dẫn độ......................47
2.6..................................................................................................................... Ki
ểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam.............................49


2.7..................................Kiểm sát việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
...................................................................................................................... 51
2.8.........................................................Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh

...................................................................................................................... 51
2.9.

Kiểm sát việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo

đảm .................. 52 Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất cảnh
................................................................................................................................ 53
2.10................................................................................................................... Kiể
m sát việc hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn...........................53
Chương 3 THỰC tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI TỈNH LAI CHÂU VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN............................................................... 55
3.1.

Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại địa bàn

tỉnh Lai Châu...........................................................................................................55


3.2.

Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp

dụng các biện pháp ngăn chặn tại địa bàn tỉnh Lai Châu.......................................71
KẾT LUẬN.............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS
BLTTHS

Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự

BPNC
CQĐT

Biện pháp ngăn chặn
Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

KSV

Kiểm sát viên

TA
TAND
THTT

Tòa án
Tòa án nhân dân
Tiến hành tố tụng

TTHS


Tố tụng hình sự

TNHS
VKS

Trách nhiệm hình sự
Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


Bảng 3.1: Số lượt kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.................58
Bảng 3.2 Số lượt kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn chuyển từ tạm giữ sang
các biện pháp ngăn chặn khác................................................................................59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định quan trọng của BLTTHS.
Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt (bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang
bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ), tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để đảm bảo, tạm hoãn xuất cảnh. Đây
là các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người bị tình nghi, người bị buộc

tội nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án; giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện nhanh
chóng, xử lý kịp thời, nghiêm minh người phạm tội, tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án hình sự, góp phần áp dụng pháp
luật đúng đắn, không để lọt người phạm tội và không làm oan người vô tội.
Việc áp dụng BPNC thể hiện sự cưỡng chế mạnh mẽ, thái độ kiên quyết của
Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và kẻ phạm tội, khi áp dụng
BPNC, nhất là các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ ảnh hưởng trực tiếp và
mạnh mẽ đến các quyền con người, nếu áp dụng các biện pháp ngăn chặn không
đúng sẽ dẫn đến oan sai, xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngược lại, nếu không áp dụng các BPNC đối với
người phạm tội dẫn đến việc bỏ trốn, tiếp tục gây án làm thiệt hại đến quyền con
người và lợi ích của công dân, cộng đồng xã hội, gây khó khăn cho công tác điều tra,
truy tố, xét xử vụ án, làm giảm sút uy tín, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, gây ra sự hoài nghi của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ
pháp luật.
Trong Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong
năm 2000 xác định rõ: “Tăng cường trách nhiệm của VKSND đối với công tác bắt,

1


giam giữ. Việc bắt, giam phải được xem xét phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng
đối tượng cụ thể. Đối với trường hợp bắt giam cũng được, không bắt giam cũng
được thì không bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì
trước hết VKSND ở địa phương đó chịu trách nhiệm”.
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/10/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ: “Tăng cường công tác

kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật. Những trường hợp chưa cần
bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam;
phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong bắt giữ. Viện kiểm sát các
cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi
thẩm quyền phê chuẩn của mình... ”.
Trong thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, đã
không ít các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
dẫn đến hậu quả oan sai, lọt tội, vi phạm pháp luật, không những làm giảm hiệu quả
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà ngược lại còn làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với các cơ quan Nhà nước. Những sai sót, vi phạm pháp luật trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trên có một phần trách nhiệm và xuất phát từ những
hạn chế, thiếu sót của VKSND trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong việc áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam.
Tăng cường trách nhiệm, không ngừng nâng cao vai trò, chất lượng, hiệu quả
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các
BPNC, ngăn chặn, khắc phục việc bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, truy tố, xét xử oan
sai, trái pháp luật, bỏ lọt tội phạm... đang đặt ra cho VKSND trọng trách năng nề
trong tiến trình thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam hiện đại, hiệu quả, nhân văn.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và thực hiện các quy định của BLTTHS
về BPNC, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng biện
2


pháp ngăn chặn vẫn còn những bất cập, khó khăn trong thực hiện. Các yếu tố như cơ
sở vật chất, con người cũng tác động, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng BPNC
trong tố tụng hình sự Việt Nam.

Trước tình hình trên, việc nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu về lý luận cũng
như thực tiễn các quy định của pháp luật về BPNC, về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong kiểm sát việc áp dụng BPNC, nhằm tăng cường hiệu quả công tác
kiểm sát việc áp dụng BPNC, đề ra những giải pháp hợp lý, góp phần hoàn thiện các
quy định của BLTTHS về BPNC, đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh
và thống nhất, tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Vì vậy, học viên chọn
đề tài “Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lai Châu ” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Biện pháp ngăn chặn là một nội dung quan trọng của BLTTHS, áp dụng
BPNC là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền theo
pháp luật, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Kiểm sát việc áp dụng BPNC là
chức năng, nhiệm vụ của VKSND được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Dưới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học pháp lý,
nhiều tác giả nghiên cứu đề cập tới, có thể kể đến các công trình như:
- Luận án tiến sĩ “Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố
tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”(năm 2005) của tác
giả Nguyễn Văn Điệp [9].
- Luận văn thạc sĩ “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp
tạm giam ” (năm2006) của tác giả Phạm Duy Trường [28].
- Luận văn thạc sĩ“Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự Việt Nam’" (năm 2010) của tác giả Lê Thanh Bình [3].

3


- Luận văn thạc sĩ: “Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam”của tác giả Tô Thị Thu Trang, Khoa luật, Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2014 [27].

- Luận văn thạc sĩ: “Vai trò của viện kiểm sát trong áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố: thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà
Nội” của tác giả Nguyễn Thị Kiều Diễm, Khoa luật, Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2014 [6].
- Luận văn thạc sĩ: “Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội”
của tác giả Phan Thị Thanh Nga, năm 2015 [15].
- Luận văn thạc sĩ: “Kiểm sát áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị
xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Công Vang, Viện Hàn lâm,
Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội năm 2017 [31].
Đề tài khoa học cấp Bộ
- “Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp” (năm 2008) của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân Tối
cao [33].
- “Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự" của
TS. Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 7/2005 [24].
- “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp ”
của TS. Phạm Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 21/2007 [12],
- “ Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS
năm 2003” của PGS.TS Nguyễn Đức Thuận đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008
[26].

4


- “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát hoạt
động bắt, tạm giữ, tạm giam” của tác giả Dương Ngọc An đăng trên Tạp chí Kiểm
sát số 14/2012 [1].
- “Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một

số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng có thẩm quyền quyết định áp dụng tạm giam ”
của TS. Đỗ Văn Đương đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 19/2012 [7].
Các công trình Bình luận khoa học BLTTHS [13], các tài liệu, giáo trình
giảng dạy như Giáo trình Luật TTHS của các trường Đại học như: Đại học Luật Hà
Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Cảnh sát nhân dân, Đại học
kiểm sát Hà Nội [28,29].
Nhìn chung, các công trình trên đều nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn
nói chung hoặc nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến BPNC, trong đó có nghiên
cứu về kiểm sát việc áp dụng BPNC. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu
về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên
cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình,
học viên trình bày trong Luận văn cơ sở lý luận, nội dung kiểm sát việc áp dụng
BPNC và thực tiễn công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC ở địa bàn tỉnh Lai Châu,
đưa ra nhóm giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng
BPNC ở địa phương mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHSVN về biện pháp
ngăn chặn, về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng, Luận văn đưa ra khái niệm về biện pháp
ngăn chặn, kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, thực tiễn kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Lai Châu, từ đó kiến nghị hoàn thiện

5


quy định của pháp luật về các BPNC và đưa ra một số giải pháp tăng cường chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ:
Xác định rõ khái niệm và nội dung kiểm sát việc áp dụng các BPNC theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về
kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu để làm rõ những hạn chế, bất
cập trong việc thực hiện những quy định này.
Từ việc đánh giá thực trạng áp dụng, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế,
bất cập, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác kiểm
sát việc áp dụng BPNC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
- Khái niệm, nội dung công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc áp dụng
các BPNC.
- Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
về kiểm sát việc áp dụng BPNC trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam hiện hành liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc
kiểm sát việc áp dụng các BPNC và thực tiễn áp dụng những quy định này từ năm
2013 đến năm 2017 trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Luận văn không nghiên cứu nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát quân sự, cũng như một số vấn đề khác có liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.

6


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận để tác giả nghiên cứu đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự kết hợp với các phương pháp nghiên cứu
truyền thống như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, logic, khảo sát thực tế,
thống kê, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng của VKSND và các cơ quan
tiến hành tố tụng khác trong việc áp dụng BPNC để luận giải, làm sáng tỏ các vấn đề
lý luận, thực tiễn để hoàn thành Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp và hoàn thiện cơ sở lý luận,
quan điểm pháp lý thống nhất về BPNC, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác kiểm
sát việc áp dụng BPNC, thực hiện đúng đắn pháp luật tố tụng hình sự về bắt, tạm
giữ, tạm giam và các BPNC khác trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua các kết quả nghiên cứu, các đề xuất, giải pháp được áp dụng sẽ
góp phần tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong thực
tiễn, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm sát việc áp dụng các
BPNC, phù hợp và đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo, học tập cho cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhất là tại địa bàn tỉnh Lai
Châu.

7


7. Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp Việt Nam về kiểm sát
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Chương 3: Thực tiễn kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại tỉnh
Lai Châu và các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VIỆT NAM
VỀ KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm, căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề
cụ thể”. Ngăn chặn là “chặn lại từ đầu, không để cho gây tác hại” [4].
Trong giới luật học của Việt Nam, có rất nhiều ý kiến về BPNC.
Theo tác giả Nguyễn Duy Lãm thì: ""Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có
tính chất cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với bị can,
bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hành vi
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án, bảo đảm thực hiện đúng đắn
các nhiệm vụ của tố tụng hình sự” [14, Tr.37]. Theo đó các BPNC là các biện pháp
có tính cưỡng chế đối với người phạm tội, nhằm ngăn ngừa các hành vi gây khó
khăn, trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, theo học viên thì ý
kiến này chưa nêu đủ các đối tượng và cơ quan có thẩm quyền áp dụng BPNC cũng

như mục đích áp dụng.
Theo tác giả Bình Nguyên thì: “Những biện pháp ngăn chặn được quy định
trong hoạt động tố tụng hình sự là những biện pháp do luật định được thực hiện khi
xét thấy cần thiết nhằm ngăn chặn người phạm tội đang có hành vi thực hiện tội
phạm hoặc tiếp tục thực hiện tội phạm, loại trừ việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và ngăn ngừa bị can, bị cáo, người bị kết án trốn tránh
để bảo đảm cho việc thi hành án được thực hiện ”[16, Tr.98]. Theo học viên thì khái
niệm này đã nêu rõ được mục đích và sự cần thiết của các BPNC, nhằm phân biệt
với các biện pháp cưỡng chế khác như: khám xét người, dẫn giải người làm chứng,
kê biên tài sản,...tuy nhiên, cũng chưa nêu rõ chủ thể nào có quyền áp dụng BPNC.


Cũng có ý kiến cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng
chế do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi
phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả với người bị án khi các cơ quan này có căn cứ
cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội” [38, Tr.502-503]. So với các khái niệm đã nêu, học
viên nhận thấy khái niệm này đã tiếp cận đầy đủ hơn nội dung của các BPNC, nêu
rõ được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng, đối tượng và căn cứ áp dụng BPNC.
Tuy nhiên, chưa nêu đầy đủ về các chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC do pháp
luật quy định.
Nhìn chung, các quan điểm trên đã nêu lên được một số khía cạnh về khái
niệm BPNC nhưng chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng được tất
cả các đặc điểm của BPNC. Do vậy, để có cơ sở cho việc đưa ra khái niệm chính xác
về BPNC chặn, cần phải tìm hiểu các dấu hiệu đặc trung của nó và thể hiện ở nội
dung, căn cứ, mục đích áp dụng, người có thẩm quyền áp dụng và đối tượng có thể bị
áp dụng BPNC.
Theo học viên, khái niệm biện pháp ngăn chặn như sau: Biện pháp ngăn
chặn là những biện pháp cưỡng chế do pháp luật tố tụng hình sự quy định gồm: Giữ
người trong trường hợp khẩn cấp; bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,

bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh do Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án hoặc do những người có thẩm quyền hay bất kỳ ai được luật tố tụng
hình sự quy định và cho phép có quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người
chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã
hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có những hành động gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 (Điều 79 BLTTHS 2003), thì các
BPNC được áp dụng nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án. Như vậy, việc áp dụng BPNC nhằm
các mục đích sau đây:


Một là, ngăn ngừa tội phạm, bao gồm:
- Ngăn chặn không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra;
- Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang được thực hiện tiếp tục tiếp
diễn;
- Ngăn ngừa người phạm tội có thể thực hiện tội phạm mới như trường hợp
bắt giữ người phạm tội đang đe dọa trả thù những người biết về sự việc phạm tội của
họ, nhằm mục đích ngăn không để cho người đó phạm tội mới với hành vi trả thù.
Hai là, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
Các BPNC được áp dụng bảo đảm các điều kiện pháp lý cho hoạt động tố
tụng hình sự theo đúng các quy định của pháp luật (bảo đảm sự có mặt của bị can, bị
cáo, bị án trong hoạt động tố tụng khi cần thiết). Cũng như bảo đảm tính chính xác,
khách quan của hoạt động tố tụng (bảo đảm bí mật điều tra, không cho bị can, bị cáo
có điều kiện thông cung)...
Tóm lại, mục đích của BPNC trong tố tụng hình sự là ngăn chặn tội phạm và
bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm thi hành án như Điều 109
BLTTHS 2015 (và Điều 79 BLTTHS 2003) đã quy định.
1.1.2. về căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Các BPNC trong tố tụng hình sự do CQĐT, VKS, TA có thể áp dụng trong
suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án.
Đối với một số BPNC được áp dụng trước giai đoạn điều tra hoặc để phục vụ
cho công tác điều tra ban đầu thì ngoài những người có thẩm quyền trong cơ quan
điều tra áp dụng còn có một số người không thuộc cơ quan điều tra áp dụng như:
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Người chỉ
huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu
bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng (Điều 81 BLTTHS 2003) và bổ sung thêm
những người có thẩm quyền sau: Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên
phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục


phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh
sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn
trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi
cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng và trong trường hợp phạm tội quả tang, người
trốn truy nã thì người nào cũng có thẩm quyền áp dụng (điểm b khoản Điều 110
BLTTHS năm 2015 mới bổ sung thêm).
Căn cứ áp dụng các BPNC là những cơ sở pháp lý do BLTTHS quy định cho
phép người có thẩm quyền áp dụng lần đầu tiên đối với bị can và trong một số trường
hợp đối với người chưa bị khởi tố bị can một trong những BPNC được quy định
trong BLTTHS.
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 có các BPNC: Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh. Theo đó thì căn cứ áp dụng BPNC bao gồm
ba căn cứ sau:
Một là, khi cần phải kịp thời ngăn chặn tội phạm.
Kịp thời ngăn chặn tội phạm, là ngăn ngừa, không cho tội phạm đang được

chuẩn bị xảy ra hoặc không cho tội phạm đang được thực hiện tiếp tục thực hiện. Do
vậy, căn cứ này thường được áp dụng đối với người chưa bị khởi tố bị can trong
những trường hợp sau:
- Khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức là người đó tìm kiếm, sửa
soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội
phạm gây nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên 07 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
- Khi một người đang thực hiện một tội phạm, tức là hành vi phạm tội của
người đó đã bắt đầu được thực hiện nhưng chưa kết thúc. Ngăn chặn tội phạm trong
trường hợp này là để ngăn cản không cho người phạm tội thực hiện đến cùng hành vi
phạm tội của mình.


Hai là, khi có căn cứ, chứng tỏ người phạm tội sẽ gây khó khăn cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Kịp thời bắt giữ người phạm tội
có ý nghĩa rất lớn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án, nếu
không kịp thời bắt giữ, người phạm tội có thể trốn, tiêu hủy, thay đổi chứng cứ vụ án,
xóa bỏ các dấu vết của vụ án,... và việc xác định sự thật của vụ án sẽ khó khăn, phức
tạp.
- Căn cứ này có thể áp dụng trước khi khởi tố vụ án, hay trong giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án. Do vậy, đối tượng áp dụng khá rộng, bao
gồm:
+ Chưa khởi tố bị can, đây là căn cứ để giữ và bắt người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm a, Khoản
1 Điều 81 BLTTHS 2003)
+ Khi người cùng thực hiện tội phạm, bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà
xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn, quy định tại điểm b khoản 1 Điều
110 BLTTHS 2015 (điểm b khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003).

+ Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, hoặc nơi làm việc
hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Căn cứ này cũng vận dụng để
áp dụng BPNC đối với những người “ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát
hiện hoặc đuổi bắt”, cũng như người đang bị truy nã, quy định tại điểm c khoản 1
Điều 110 BLTTHS 2015 (điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003).
- Sau khi khởi tố bị can, trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm thi
hành án thì có thể áp dụng căn cứ này để tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, cho bảo
lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh.
Điều luật quy định phải có “căn cứ chứng minh” việc áp dụng BPNC là cần
thiết.
Ba là, khi có căn cứ chứng tỏ bị can sẽ tiếp tục phạm tội.


Đây là một trong những căn cứ áp dụng BPNC đối với bị can khi có căn cứ
chứng tỏ bị can sẽ tiếp tục phạm tội, nếu để họ tự do ngoài xã hội.
Những căn cứ chứng tỏ bị can sẽ tiếp tục phạm tội có thể là:
- Bị can là những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp, những tên côn đồ coi thường pháp luật;
- Bị can có hành vi đe dọa trả thù những người biết rõ sự thật của vụ án.
Khi áp dụng căn cứ này cần lưu ý tới khả năng thực hiện sự đe dọa đó của
bị can, bị cáo.
1.2. Cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
1.2.1. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015 (Điều 79 BLTTHS 2003), quy
định trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự: Để kịp thời ngăn
chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của BLTTHS có thể áp dụng một trong những BPNC sau

đây: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm và tạm hoãn xuất cảnh.
1.2.2. Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn
Theo quy định của BLTTHS thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp
có thể áp dụng các BPNC và quyết định áp dụng các BPNC của những người này
phải có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp trước khi thi hành, trừ các biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã,
tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh. Trong một số trường hợp khi
tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn,
không chỉ có những người có thẩm quyền trong CQĐT mà có thể những người thuộc
các cơ quan quản lý Nhà nước như: Người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên
giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến


cảng(Điều 81 Bộ luật TTHS năm 2003) và bổ sung thêm những người có thẩm quyền
sau: Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ
huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng
Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy
và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy
và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng
Cục nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng(Điều 110 Bộ luật TTHS 2015). Trong trường hợp phạm tội quả tang,
người trốn truy nã thì người nào cũng có thẩm quyền áp dụng.
Như vậy, BLTTHS quy định chỉ có CQĐT có thẩm quyền áp dụng BPNC
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, trong giai đoạn tiền khởi tố hay nói
cách khác là trong giai đoạn khi phát hiện tội phạm để phục vụ cho công tác điều tra
hay giai đoạn điều tra ban đầu, người có thẩm quyền áp dụng thì rộng hơn, không
những người có thẩm quyền trong các CQĐT mà có cả một số người có thẩm quyền
trong các cơ quan quản lý nhà nước đang thi hành nhiệm vụ hoặc bất kỳ người nào

cũng có thể áp dụng BPNC trong một số trường hợp cụ thể nhất định.
Còn trong giai đoạn truy tố, xét xử và đảm bảo thi hành án thì Viện trưởng,
Phó Viện trưởng VKSND; Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
những người có thẩm quyền áp dụng BPNC như bắt tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để
đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh ...
Về đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, theo quy định tại Mục 1
Chương VII BLTTHS 2015 (Chương VI của BLTTHS 2003), thì đối tượng có thể bị
áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự gồm:
- Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có
đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;


- Người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng;
- Người đang thực hiện tội phạm;
- Người đã thực hiện tội phạm;
- Người có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở, hoặc nơi làm việc
hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm;
- Bị can có dấu hiệu bỏ trốn.
.3. Khái niệm, đặc điêm kiêm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự
1.3.1. Khái niệm kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp
dụng các BPNC, VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để
đảm bảo việc áp dụng BPNC là cần thiết, có căn cứ, đúng pháp luật, đồng thời ngăn
chặn, phát hiện, loại trừ vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC. Viện kiểm
sát có nhiệm vụ bảo đảm mọi trường hợp bị áp dụng BPNC đều phải có căn cứ, đúng
pháp luật, không oan sai, bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con người và các quyền,

lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng BPNC không bị pháp luật hạn chế, tước bỏ
được tôn trọng, bảo vệ.
Nói như vậy để thấy rằng hoạt động kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong tố
tụng hình sự chính là một trong những nội dung quan trọng của công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, đây là một công
tác kiểm sát nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKS đã được Hiến định, nhằm đảm bảo cho việc áp dụng các
BPNC của các cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ và đúng theo quy định của pháp
luật, loại trừ những vi phạm nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Khi đề cập đến khái niệm của hoạt động kiểm sát việc áp dụng các BPNC
trong tố tụng hình sự, đến nay chưa có một tài liệu nào đưa ra khái niệm chính thức,


kể cả các tài liệu giảng dạy, học tập, nghiên cứu của ngành kiểm sát. Tuy nhiên cũng
có một số quan điểm đề cập đến vấn đề này như:
Tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng “Kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ bao gồm
nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố xét xử và thi hành án”
[40, Tr.3]. Theo học viên, quan điểm này phù hợp với tinh thần và nội dung của Luật
tổ chức VKSND năm 2002.
Tác giả Nguyễn Thị Kiều Diễm, đưa ra khái niệm “vai trò của Viện KSND
đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố là
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND trong các hoạt
động áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan, người có
thẩm quyền theo pháp luật TTHS Việt Nam trong giai đoạn điều tra, truy tố nhằm
đảm bảo các quy định của pháp luật được áp dụng có căn cứ cũng như đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ” [6].
Tác giả Nguyễn Công Vang khi nghiên cứu về kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự cho rằng: “Kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho việc áp dụng các biện pháp ngăn

chặn của Cơ quan điều tra có căn cứ, đúng pháp luật; góp phần loại trừ những vi
phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra,
bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân không bị xâm phạm. [31]. Luận
điểm của tác giả Vang tương đối phù hợp với các quy định của BLTTHS và Luật tổ
chức VKSND, tuy nhiên học viên nhận thấy khái niệm trên có phạm vi bó hẹp trong
công tác điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra.
Theo học viên để đưa ra khái niệm về kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam thì cần phải đi sâu nghiên cứu, phân tích
các quy định của BLTTHS Việt Nam về các BPNC và nghiên cứu về nhiệm vụ quyền
hạn của VKS đối với việc áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự, trong đó:


Theo quy định tại các Điều 41, 42 BLTTH 2015 (Điều 36, 37 BLTTHS 2003)
quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát
viên VKSND, là những người thay mặt VKSND thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó quy định rõ: Quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, gia hạn tạm giam; quyết định phê
chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định không có
căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra,...
Tại khoản 4 Điều 165 BLTTHS 2015 (khoản 4 Điều 112 BLTTHS 2003) quy
định rõ thẩm quyền của VKS khi tiến hành kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn của CQĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Khi thực hiện thẩm quyền
trên, nếu phát hiện việc áp dụng các BPNC của CQĐT không có căn cứ và trái quy
định của pháp luật thì VKS có quyền phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các
quyết định của CQĐT, trách nhiệm của CQĐT là chấp hành các quyết định của VKS
kể cả trong trường hợp đồng ý hay không đồng ý, theo quy định tại khoản 2 Điều 167
BLTTHS 2015 (Điều 114 BLTTHS 2003) quy định nếu không đồng ý với các quyết
định của VKS thì CQĐT cũng phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị lên VKS
cấp trên.
Theo quy định của pháp luật TTHS, VKS kiểm sát các trường hợp áp dụng

BPNC trong luật tố tụng hình sự, cụ thể như:
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt:
Bắt người là một trong các biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế cao đối
với người có dấu hiệu hoặc đã, đang thực hiện hành vi phạm tội để phục vụ cho công
tác xác minh điều tra. Trong mọi trường hợp VKS phải kiểm tra, giám sát từng
trường hợp bắt người của CQĐT. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào VKS cũng
ra quyết định phê chuẩn quyết định bắt của CQĐT mà chỉ trong trường hợp bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và bắt bị can để tạm giam, còn các trường
hợp bắt khác, Viện kiểm sát vẫn có thẩm quyền kiểm sát nhưng qua công tác kiểm


×