1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THANH HÙNG
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THANH HÙNG
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HÀ NỘI - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Thanh Hùng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO
KHÔNG GIAM GIỮ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Khái niệm và vai trò của hình phạt cải tạo không giam giữ
trong luật hình sự Việt Nam
9
1.1.1.
Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ
9
1.1.2.
Vai trò của hình phạt cải tạo không giam giữ trong luật hình
sự Việt Nam
22
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam về hình phạt cải tạo không giam giữ từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay
27
1.2.1
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
27
1.2.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay
30
1.3.
Hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định trong Bộ luật
hình sự một số nước trên thế giới
38
1.3.1.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga
38
1.3.2.
Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp
40
1.3.3.
Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
40
5
Chương 2: HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA
43
2.1.
Hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành
43
2.1.1.
Trong Phần chung Bộ luật hình sự
43
2.1.2.
Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự
48
2.2.
Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại địa
bàn tỉnh Thanh Hóa
50
2.2.1.
Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa
bàn tỉnh Thanh Hóa
50
2.2.2.
Tình hình áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh
Thanh Hóa
51
2.2.3.
Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng hình phạt hình phạt
cải tạo không giam giữ và các nguyên nhân của những hạn
chế đó
58
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT
CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
75
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về hình phạt cải tạo không giam giữ
75
3.1.1.
Về phương diện thực tiễn
76
3.1.2.
Về phương diện lập pháp
77
3.1.3.
Về phương diện lý luận
78
3.2.
Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 về hình phạt cải tạo không giam giữ
79
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt cải tạo không giam giữ
85
6
3.3.1.
Tăng cường năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức pháp
luật, ý thức trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân
86
3.3.2.
Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật
88
3.3.3.
Giải pháp về sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và gia đình
người được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ để giám
sát, quản lý và giáo dục
89
3.3.4.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
91
3.3.5.
Giải pháp tăng cường sự hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh
nghiệm lập pháp hình sự về hình phạt cải tạo không giam giữ
94
KẾT LUẬN
96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
98
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Những điểm khác nhau của hình phạt cải tạo không giam
giữ và chế định án treo
25
2.1
Tổng hợp các quy định về cải tạo không giam giữ tại
Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự
49
2.2
Tỷ lệ số vụ án và bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp tại
Thanh Hóa xử sơ thẩm từ 2003 đến tháng 9 năm 2013
52
2.3
Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên
tổng số bị cáo bị xét xử sơ thẩm từ 2003 đến tháng 9/2013
53
2.4
Số bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ theo
từng nhóm tội phạm từ năm 2003 đến tháng 9/2013
54
2.5
Số bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên
tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử từ 2003 đến tháng 9/2013
55
2.6
Số bị cáo được Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ
37
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến
nay cho thấy hệ thống hình phạt được quy định phong phú và đa dạng, có sự
kế thừa bổ sung và hoàn thiện qua từng thời kỳ. Hệ thống hình phạt trong Bộ
luật hình sự năm 1999 hiện hành là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung
trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành các loại hình phạt của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án.
Trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, các hình phạt có ý
nghĩa quyết định và góp phần phát huy được vai trò tích cực là một bộ phận
cấu thành không thể thiếu trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà
nước và xã hội đến tội phạm. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn
diện của đất nước trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và qua thực
tiễn áp dụng, nhiều quy định về hình phạt trong đó hệ thống hình phạt nói
chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng của Bộ luật hình sự năm
1999, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 ngày
19/6/2009 nhưng vẫn còn một số bất cập và hạn chế (như chưa đưa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ, điều kiện áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chưa được quy định chặt chẽ và hợp
lý, đồng thời cần bổ sung quy định của Bộ luật hình sự với nội dung tăng tính
cưỡng chế của hình phạt cải tạo không giam giữ, cũng như tương quan giữa
hình phạt này với án treo
Một số tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra vướng mắc, lúng túng và
có không ít trường hợp còn áp dụng chưa thống nhất các quy định của Bộ luật
hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp. Mặt khác, trong thực tiễn
áp dụng, do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng của hình phạt cải
9
tạo không giam giữ trong cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa tội
phạm, nên các Tòa án còn ít quan tâm áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ, khi áp dụng còn có trường hợp không đúng, vi phạm nội dung điều kiện,
phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc vận dụng chế định án
treo; v.v Tất cả những vấn đề này là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của
hình phạt cải tạo không giam giữ trong áp dụng và thi hành.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung:
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư
pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và
thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng
thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng
áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với
một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo
hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội
phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ
dân sự và bỏ lọt tội phạm [13].
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ và thực tiễn áp dụng để
làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi
lựa chọn đề tài "Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn thạc sĩ
luật học.
10
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong luật hình sự, nên ở
trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học ở những mức độ khác
nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về hình phạt và hệ thống hình
phạt, trong đó có hình phạt cải tạo không giam giữ.
Vấn đề hình phạt đã được nhiều chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu
như: H.L.A. Hart, Punishment and Responsibility, Oxford, 1968; Cragg, Wesley,
The Practice of Punishment: Towards a Theory of Restorative Justice, New
York, Routledge, 1992; M. Bellmore, H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed
Penalty - function concepts in Mathematical optization, Georgia Institute of
Technology, Atlanta, Georgia Received June 17, 1968; v.v… Còn ở Việt
Nam, khoa học luật hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý phát
triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do đó xét riêng về hình
phạt, cho thấy có nhiều công trình nghiên tiêu biểu ở các cấp độ khác nhau.
Cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh,
Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Vũ Lai Bằng,
Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1997; Đặng Đức Thạo,
Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2001; v.v… Hay ở
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có đề tài của Lê Khánh Hưng, Các hình
phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; Nguyễn
Văn Cảnh, Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; v.v
Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả
Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà
Nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003, Phạm Văn Beo, Hình phạt tử hình trong
luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội 2007; Trịnh
Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v
11
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ 7 - Hình phạt và biện pháp tư
pháp, trong Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong luật
hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2001; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang
Phương (chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của
các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Hà
Nội, 1996; v.v
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học đề
cập đến hình phạt như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện pháp
tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
8/2000; Một số vấn đề cơ bản về hình phạt, Tạp chí Công an nhân dân, số
5/2001; Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
7/2007; GS. TSKH. Lê Cảm, TS. Trịnh Tiến Việt, Thực trạng các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn
thiện, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 1/2009; GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Những đòi hỏi của nguyên tắc công bằng đối với việc quy định hệ thống
chế tài ở Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
6/1993; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mục đích của hình phạt, Tạp chí Luật
học, số 1/1999; PGS.TS. Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hình phạt cải tạo
không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; PGS.TS. Nguyễn Mạnh
Kháng, Hình phạt - Một số vấn đề lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
10/2000; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về hình phạt quản chế
trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số
1/2004; Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 6/2004 và Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số
nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2003; TS. Phạm Văn
12
Beo, Một số vấn đề về khái niệm hình phạt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 11/2005; v.v
Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có
một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính và hình
phạt bổ sung, còn đối với riêng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhìn một
cách tổng thể chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư cách là một
hình phạt chính quan trọng trong hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong tiến trình
hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên toàn thế
giới. Vì vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa" là đòi
hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của
pháp luật về hình phạt cải tạo không giam giữ dưới khía cạnh lập pháp hình
sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong luật hình sự Việt
Nam, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
hình phạt này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
a) Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo
không giam giữ như: Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ, đặc điểm
của hình phạt cải tạo không giam giữ, vai trò của hình phạt cải tạo không
giam giữ;
13
b) Khái quát sự phát triển của hình phạt nói chung, hình phạt cải tạo
không giam giữ nói riêng trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
c) Nghiên cứu những quy định cụ thể về hình phạt cải tạo không giam
giữ trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, từ đó rút ra những tồn tại, hạn
chế cần khắc phục;
d) Phân tích thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ của
Tòa án các cấp tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đồng thời phân tích làm rõ những
tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó;
đ) Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định về
hình phạt cải tạo không giam giữ trong Bộ luật hình sự Việt Nam, cũng như
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình phạt này trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh hình
phạt cải tạo không giam giữ trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ của
Tòa án các cấp tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa và những nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định (Bộ
luật hình sự Việt Nam) và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình
phạt này trong thực tiễn.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ của Tòa án các cấp tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong 11 năm (2003-2013).
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện
14
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: Phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học và luận chứng những vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong
luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học về hình phạt, cũng như
về hình phạt cải tạo không giam giữ để xây dựng nên khái niệm hình phạt cải
tạo không giam giữ, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các
đặc điểm cơ bản của hình phạt cải tạo không giam giữ. Luận văn còn nghiên
cứu quá trình hình thành và phát triển của hình phạt cải tạo không giam giữ
trong pháp luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
đến nay, cũng như phân tích tình hình áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ của Tòa án các cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian 11 năm
(2003-2013), chỉ ra các hạn chế, tồn tại và những nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế đó. Trên cơ sở này, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện
pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ.
Đặc biệt, luận văn còn làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà
làm luật Việt Nam và các nhà hoạt động thực tiễn trong quá trình sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự và áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, cũng như
làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh
chuyên ngành Luật hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong cả nước.
15
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hình phạt cải tạo không giam giữ
theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt cải tạo
không giam giữ.
16
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO
KHÔNG GIAM GIỮ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÕ CỦA HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG
GIAM GIỮ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ
* Khái niệm hình phạt
Trong lĩnh vực khoa học hình sự, tội phạm và hình phạt thuộc những
đối tượng nghiên cứu chủ yếu và quan trọng nhất, trong đó việc làm sáng tỏ
khái niệm hình phạt là một vấn đề hết sức quan trọng. Để có cái nhìn toàn
diện về hình phạt cải tạo không giam giữ, những vấn đề lý luận và thực tiễn,
trước hết chúng ta cần xem xét một cách tổng thể lý luận về hình phạt.
Trong lịch sử nhân loại có những quan niệm khác nhau về bản chất và
nội dung của hình phạt. Nhìn chung các quan điểm đó có thể được chia thành hai
loại: 1) Quan điểm thứ nhất coi hình phạt là công cụ trừng trị, trả thù người
phạm tội, lấy sự khắc nghiệt của tội phạm làm điều răn cho người phạm tội;
2) Quan niệm thứ hai coi hình phạt là công cụ pháp lý cần thiết để đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cải tạo giáo dục người phạm tội [15, tr. 107-108]. Về
vấn đề này, trong cuốn Sách chuyên khảo "Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam", Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2011, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản đã tổng kết như sau:
Quan điểm coi hình phạt là sự trả thù của Nhà nước dựa theo học
thuyết trừng trị (Vergeltungstheorie) hay còn gọi là học thuyết hình phạt tuyệt
đối (Ab solut Straftheorie do Imanuel Kant (1724-1804) và sau đó là Georg
Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) chủ trương. Trong tác phẩm "Lý luận
siêu hình", I. Kant cho rằng, sự bất công do hành vi của người phạm tội gây ra
17
phải được đền bù bằng hình phạt, thông qua đó trật tự pháp luật bị xâm phạm
được khôi phục. Việc áp dụng hình phạt nhằm bảo đảm công công lý, công
bằng. Ở đây I. Kant đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc "ân oán ngang bằng":
Đối với tội giết người phải tử hình, đối với tội hiếp dâm cần thiến kẻ hiếp
dâm, tội làm nhục cần công khai hôn tay người bị làm nhục [45, tr. 151]. Như
vậy, cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hình phạt theo học thuyết hình phạt tuyệt
đối, chỉ nằm ở sự trừng trị, trả thù, có nghĩa là bằng việc áp dụng hình phạt thì
bất công mà người phạm tội có lỗi gây ra được đền bù công bằng. Người
phạm tội là người làm điều ác, mang nợ đối với xã hội nên cần phải trả bằng
hình phạt, họ là kẻ thù của xã hội chứ không phải là thành viên của xã hội, vì
vậy, hình phạt chỉ có mục đích tự thân là trừng trị, trả thù, chứ tuyệt đối
không có mục đích phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, bên cạnh học thuyết hình phạt tuyệt đối xuất hiện các học
thuyết về phòng ngừa tội phạm hay còn gọi là các học thuyết hình phạt tương
đối (Relative Straftheorien) do Cesare Beccaria (1738-1794) khởi xướng, sau đó
là Jeremy Bentham (1748-1832), P.J.A. Feuerbach (1775-1833) và F.v. Liszt
(1851-1919). Theo các học thuyết này, hình phạt không hướng vào việc trả
thù người phạm tội mà chỉ nhằm phòng ngừa tội phạm trong tương lai. Do
không có học thuyết nào là phù hợp vượt trội để biện minh cho sự tồn tại của
hình phạt, nên có học giả đã hợp nhất hai học thuyết trên thành học thuyết liên
hợp (Vereinigungstheorie), mà những người đại diện xuất sắc là A. Merkel;
R. V. Hippel; H. L. A. Hart. Theo học thuyết này, thì hình phạt không chỉ có
mục đích trừng trị mà còn có mục đích phòng ngừa tội phạm [39, tr. 13].
Với nhận thức về cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hình phạt như trên, nên
trong khoa học luật hình sự nước ngoài có những khái niệm về hình phạt như:
Coi hình phạt là sự trừng trị được luật quy định để phòng ngừa và trấn áp
hành vi cấu thành tội phạm gây tổn hại đến trật tự xã hội ; coi hình phạt là sự
đền bù của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng bằng việc trừng trị các điều ác
được làm thích ứng với mức độ của sự bất công và lỗi. Nó là sự khiển trách
18
công khai hành vi trái pháp luật, qua đó khôi phục lại công lý, ngoài ra hình
phạt cần phải mở rộng sự tác động tích cực vào người phạm tội [39, tr. 13].
Hay trong khoa học luật hình sự rất phát triển là Liên Xô trước đây và
Liên bang Nga, theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết, ngày nay có các quan
điểm coi hình phạt hoặc là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Tòa án nhân
danh Nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm nhằm
mục đích ngăn ngừa chung và ngăn ngừa riêng (Natasev A.E., Xtruchkôp
H.A., Nôi I.X., Bêlaev N.A.). Hoặc là sự trừng trị, tức là gây cho người có tội
những đau đớn và những sự tước đoạt do luật định mà người đó phải chịu
(Đementrev X.I). Hoặc là một trong các biện pháp đấu tranh chống tội phạm mà
nội dung của nó là kết hợp thuyết phục với cưỡng chế (Karpetx) [40, tr. 674].
Còn trong khoa học luật hình Việt Nam, các học giả luôn đi theo tư
tưởng tiến bộ, nhân đạo và hướng thiện về hình phạt, nên đã đưa ra những
quan niệm về hình phạt mà về cơ bản là thống nhất, mặc dù trong mỗi quan
niệm đó có những sự khác nhau nhất định, như:
GS.TSKH. Lê Văn Cảm quan niệm: "Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người
bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự" [2, tr. 11-12].
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa định nghĩa:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc
nhất được quy định trong luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính
người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp
phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và
trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của của công
dân [18, tr. 29].
PGS. TS. Trịnh Quốc Toản trên cơ sở phân tích nhiều quan điểm khoa
học và các đặc điểm cơ bản của hình phạt đã định nghĩa:
19
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà
nước, được luật quy định, do Tòa án áp dụng đối với người bị kết
án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
họ nhằm giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo cho
luật hình sự thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh phòng,
chống tội phạm [40, tr. 53]; v.v
Còn dưới góc độ lập pháp hình sự, lần đầu tiên trong Bộ luật hình sự
năm 1999 các nhà làm luật đã ghi nhận định nghĩa pháp lý về khái niệm hình
phạt tại Điều 26 như sau: "Hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy
định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định" [31].
Như vậy, trong khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài, cũng
như trong luật thực định đã đưa ra các định nghĩa khác về khái niệm hình
phạt, và hầu như mỗi định nghĩa đều có những hạt nhân hợp lý, đều chỉ ra một
cách tương đối rõ ràng về một hoặc nhiều khía cạnh cơ bản của hình phạt.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm của các học giả
trong và ngoài nước về khái niệm hình phạt, theo chúng tôi định nghĩa về khái
niệm hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước, do Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật đối với người bị kết án, để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người
đó, qua đó nhằm giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm.
* Mục đích của hình phạt
Từ trước đến nay khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt
trong khoa học luật hình sự, các mục đích của hình phạt là vấn đề gây tranh
luận nhiều nhất giữa các nhà khoa học - thực tiễn trong và ngoài nước như:
hình phạt có mục đích trừng trị hay mục đích giáo dục hoặc cả hai; hình phạt
ngoài hai mục đích đó còn mục đích khác không; trừng trị là thuộc tính hay
mục đích của hình phạt; v.v Tuy nhiên, về mặt lập pháp, Bộ luật hình sự
20
Việt Nam năm 1985 và 1999 đã thể hiện quan điểm chính thức của Nhà nước
về mục đích hình phạt, cụ thể: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người
phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ
phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật hình sự).
Như vậy, khi phân tích Điều 27 Bộ luật hình sự Việt Nam, nhiều
người cho rằng Bộ luật hình sự đã quy định mục đích "trừng trị" của hình phạt
là điều không thể phủ nhận. Tuy vậy, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của
luật hình sự và dưới góc độ xây dựng Nhà nước pháp quyền thì trừng trị
không phải là mục đích của hình phạt mà chỉ là bản chất chủ yếu và là thuộc
tính cơ bản nhất của hình phạt, vì nếu như không có yếu tố trừng trị mà chỉ có
yếu tố giáo dục đơn, thì hình phạt nói riêng sẽ mất đi nội dung của nó - không
cần thiết và do đó, luật hình sự nói cũng sẽ trở nên vô nghĩa [7, tr. 687].
Tóm lại, theo quan điểm của chúng tôi, mục đích của hình phạt bao
gồm hai mục đích chính như sau:
Một là, mục đích phòng ngừa riêng trước hết được thể hiện ở chỗ hình
phạt áp dụng đối với người phạm tội không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội
mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Nội dung cơ bản của mục đích này chính là sự tước bỏ, hạn chế những
quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật hình sự đối với người
bị áp dụng hình phạt, vì hình phạt trước hết thể hiện sự lên án, sự phạt của
Nhà Nước, của xã hội đối với người phạm tội. Nhưng đó không phải là sự lên
án, sự phạt đơn thuần mà là biện pháp đặc biệt để răn đe (răn đe bằng tác
động cưỡng chế của Nhà nước) để giáo dục cải tạo (giáo dục, cải tạo bằng tác
động cưỡng chế Nhà nước) người bị kết án, ngăn ngừa họ phạm tội lại. Hình
phạt cũng còn là biện pháp đặc biệt để hạn chế điều kiện phạm tội lại của
người bị kết án. Mức độ của việc tước bỏ và hạn chế những quyền và lợi ích
hợp pháp của họ phụ thuộc vào tích chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của
21
hành vi, vào nhân thân người phạm tội cũng như tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Mục đích chủ yếu trong phòng ngừa riêng của hình phạt
chính là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã
hội. Trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục người
phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có
mối quan hệ với nhau chặt chẽ, chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ
yếu là cải tạo, giáo dục người phạm tội nếu hình phạt áp dụng đối với họ
tương xứng với hành vi phạm tội của họ đã gây ra. Việc Nhà nước trừng trị
người phạm tội một cách công minh chính là nội dung chủ yếu và quan trọng
tạo cơ sở cho cải tạo, giáo dục người phạm tội; ngược lại, cải tạo, giáo dục
người phạm tội chính là phát huy tính tích cực của nội dung trừng trị.
Hai là, mục đích phòng ngừa chung. Mục đích phòng ngừa chung thể
hiện ở việc ngăn ngừa người khác phạm tội. Nhà nước quy định hình phạt
trong Bộ luật hình sự và đặc biệt khi áp dụng hình phạt đối với người phạm
tội, trong từng trường hợp cụ thể không chỉ tác động trực tiếp đến chính bản
thân người phạm tội mà còn tác động đến tâm lý của các thành viên khác
trong xã hội. Đối với những người không vững vàng hình phạt có tác dụng
răn đe, ngăn ngừa họ phạm tội. Trong từng trường hợp, hình phạt làm cho
những người không vững vàng thấy được hậu quả pháp lý - trách nhiệm hình
sự mà họ tất yếu phải gánh chịu nếu họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị coi là tội phạm, với sự răn đe này, hình phạt có mục đích ngăn ngừa,
giáo dục những người không vững vàng tuân theo pháp luật, "từ bỏ ý định
phạm tội hoặc thận trọng hơn trong xử sự để tránh xử sự của mình thành xử
sự phạm tội" [17, tr. 34].
Đối với các thành viên khác trong xã hội, hình phạt có mục đích giáo
dục và nâng cao ý thức pháp luật cho họ, động viên khuyến khích đông đảo
quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh ngăn ngừa và
chống tội phạm. Để đạt được mục đích phòng ngừa chung của hình phạt, phải
thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đó biện pháp tuyên truyền, giáo dục
22
pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân là biện pháp hết sức
quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt
chỉ đạt kết quả tốt khi quần chúng nhân dân hiểu biết pháp luật, thấy được sự
cần thiết của việc tuân thủ pháp luật cũng như ý nghĩa xã hội của hình phạt.
* Hệ thống hình phạt
Tội phạm có nhiều loại khác nhau, mỗi loại tội phạm khi xảy ra trong
thực tế lại có tính chất và mức độ nguy hiểm nhất định cho xã hội, xuất phát
từ yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, cần phải có hệ thống hình phạt
thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước.
Số lượng hình phạt trong hệ thống hình phạt của các nước có thể
không giống nhau, thậm chí của mỗi Nhà nước ở các thời kỳ khác nhau cũng
khác nhau. Nội dung và điều kiện áp dụng của mỗi hình thức hình phạt do sự
chuyển biến của hoàn cảnh và điều kiện xã hội, do yêu cầu của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm cũng có thể thay đổi. Hình phạt cũ được bỏ đi, hình
phạt mới được thêm vào hoặc có sự thay đổi về nội dung và điều kiện áp dụng
từng loại hình phạt đều đưa đến hệ quả là tạo ra hệ thống hình phạt mới. Hệ
thống hình phạt luôn thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước, do đó nó phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh xã hội, yêu cầu của việc phòng, chống tội
phạm cũng như kinh nghiệm lập pháp hình sự trong nước và quốc tế, nhưng
nhìn chung, hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế về hình
sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong pháp luật hình sự,
căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại được sắp xếp thành một danh
mục cụ thể theo trình trình tự nhất định từ nhẹ đến nặng (hay ngược lại) và
chỉ do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với bị cáo vì đã thực hiện tội
phạm [7, tr. 688].
Như vậy, việc quy định hình phạt và hệ thống hình phạt trong Bộ luật
hình sự góp phần thực hiện các nhiệm vụ của luật hình sự Việt Nam, đó là
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền
23
bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 1 Bộ
luật hình sự).
Ngoài ra, hệ thống hình phạt còn bảo đảm, xử lý công bằng và phân
hóa đối với các hành vi phạm tội tương ứng theo mức độ tăng dần hoặc giảm
dần hoặc giảm dần tùy theo sự nghiêm khắc khác nhau của mỗi loại hình phạt
(Bộ luật hình sự hiện hành của nước ta quy định sự nghiêm khắc của hình
phạt tăng dần). Đặc biệt, hệ thống hình phạt còn phục vụ đắc lực cho quá trình
thay đổi của chính sách hình sự, của quá trình tội phạm hóa - phi tội phạm
hóa, hình sự hóa - phi hình sự hóa trong hoạt động lập pháp của Quốc hội, qua
đó đảm bảo thích ứng với sự thay đổi chung của tình xã hội trong nước và
quốc tế.
* Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ dưới góc độ khoa học
luật hình sự Việt Nam
Theo luật hình sự Việt Nam, hình phạt cải tạo không giam giữ được
quy định trong Bộ luật hình sự thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ
thực hiện, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục cải tạo trở thành người có
ích cho xã hội. Ngoài ra, hình phạt cải tạo không giam giữ còn là một trong
những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm nói chung, giáo dục, cải tạo người phạm tội nói riêng, nên rõ
ràng, hình phạt cải tạo không giam giữ cần phải được quan tâm một cách sâu
sắc trên các phương diện lập pháp, áp dụng pháp luật và nghiên cứu lý luận
nhưng cho đến nay hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn chưa được quan tâm
đúng mức trên cả ba phương diện này.
24
Mặc dù hình phạt cải tạo không giam giữ là một hình phạt chính
nhưng nó vẫn thể hiện tính nhân đạo cao vì cải tạo không giam giữ là hình
phạt không tước tự do, song khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ cũng
chưa được Bộ luật hiện hành làm rõ. Điều 31 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ
nêu ra những điều kiện để người phạm tội được áp dụng hình phạt cải tạo
không giam giữ, đó là: "Cải tạo không giam giữ được áp dụng với người
phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn định
hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly
người phạm tội khỏi xã hội" [31].
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự nước ta, khái niệm hình phạt cải
tạo không giam giữ còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong các sách báo
pháp lý, xong tựu chung lại, về cơ bản đều thống nhất nội hàm của khái niệm
này, cụ thể là:
Trên cơ sở nội dung Điều 31 Bộ luật hình sự, TS. Hoàng Văn Hùng
định nghĩa tương đối đầy đủ:
Hình phạt cải tạo không giam giữ được hiểu là: Là hình phạt
chính có thời hạn từ sáu tháng đến ba năm được áp dụng với người
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn
định hoặc nơi thường trú rõ ràng khi xét thấy không cần thiết phải
cách ly người phạm tội khỏi xã hội [42, tr. 240].
ThS. Đinh Văn Quế lại giải thích gắn liền với mục đích của việc áp
dụng nhưng chưa chỉ rõ đây là một hình phạt chính không tước tự do và thời
hạn áp dụng hình phạt này: "Cải tạo không giam giữ là không buộc người
phạm tội phải cách ly khỏi xã hội mà họ được chung sống với gia đình như
những người khác dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền
địa phương nơi người đó làm việc hoặc thường trú" [27, tr. 178].
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Học viện Tư pháp chỉ ra "đây là
một loại hình phạt không tước tự do của người bị kết án, mà họ được cải tạo
25
ngoài xã hội với sự giám sát, giáo dục và giúp đỡ của gia đình, cơ quan, tổ
chức xã hội và cộng đồng từ 6 tháng đến ba năm" [20, tr. 167].
Ngoài ra, có quan điểm tương đối ngắn gọn của TS. Phạm Văn Beo
khi cho rằng: "Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết
án phải cách ly khỏi xã hội". Tuy nhiên, quan điểm này chưa nêu rõ đây là
hình phạt chính không tước tự do, đồng thời chưa chỉ ra thời gian bị áp dụng
và chịu sự giáo sát, giáo dục của chủ thể nào.
Tóm lại, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp
với việc phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa
học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ
có thể được định nghĩa như sau: Hình phạt cải tạo không giam giữ là một
trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ
luật hình sự Việt Nam quy định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội
mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền
địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy
không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục, cải tạo họ
thành người tốt.
Như vậy, từ khái niệm này, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản chung
và riêng của hình phạt cải tạo không giam giữ như sau:
Trước hết, về các đặc điểm chung thì hình phạt nói chung và hình phạt
cải tạo không giam giữ nói riêng là: 1) Biện pháp cưỡng chế về hình sự
nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của
Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả
pháp lý là người đó bị coi là có án tích; 2) Chúng chỉ xuất hiện khi có sự việc
phạm tội; 3) Do một cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là
Tòa án áp dụng và chỉ đối với người bị kết án trong bản án có hiệu lực pháp
luật; 4) Chúng chỉ được quy định trong Bộ luật hình sự và 5) Được Tòa án áp