Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.36 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG HỮU TÙNG

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG
PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Hoàng Hữu Tùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG
HỢP ĐỒNG PHẠM ........................................................................................... 7
1.1. Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trong trường hợp đồng phạm ............................................................................. 7
1.2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động định tội danh trong quá trình xử lý vụ án
hình sự .............................................................................................................. 21
Chương 2. QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM VÀ THỰC TIỄN
ĐỊNH TỘI DANH CỦA CÁC TỘI PHẠM NÀY TẠI TỈNH BẮC GIANG . 26
2.1. Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong
trường hợp đồng phạm theo quy định của bộ luật hình sự .............................. 26
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong việc định tội danh các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. ...... 46
Chương 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TÔI XÂM PHẠM SỞ
HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG
PHẠM .............................................................................................................. 61
3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm định tội danh đúng đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm ......................... 61
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng đối với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm .............................. 66
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 83



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCHTWĐ: Ban chấp hành trung ương đảng
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CĐTS: Chiếm đoạt tài sản
CQĐT: Cơ quan điều tra
CTTP: Cấu thành tội phạm
ĐTHS: Điều tra hình sự
ĐTV: Điều tra viên
HSST: Hình sự sơ thẩm
KSND: Kiểm sát nhân dân
KSV: Kiểm sát viên
NQ/TW: Nghị quyết trung ương
TB/TW: Thông báo trung ương
THQCT: Thực hành quyền công tố
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TTATXH: Trật tự an toàn xã hội


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1

Kết quả xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 - 2017

48

Kết quả định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

Bảng 2.2

chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh

49

Bắc Giang từ năm 2012 - 2017
Nguyên nhân dẫn đến việc định tội danh sai các tội xâm
Bảng 2.3

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng
phạm từ năm 2012 - 2017

50


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được về mọi mặt của đời sống xã
hội thì vẫn còn tồn tại không ít những hiện tượng tiêu cực. Tình hình tội phạm vẫn
diễn biến phức tạp, chưa có chiều hướng giảm, số lượng các vụ án hình sự mà các
tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng hơn, trong đó có nhiều vụ án lớn và ngày càng
phức tạp, nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy, tội phạm được thực hiện thông qua
hình thức đồng phạm đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là tội phạm sở hữu, luôn
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số các vụ án hình sự. Tính chất nguy hiểm, phức
tạp và hậu quả của nó gây ra cho xã hội ngày càng cao. Việc Bộ luật hình sự 2015
tiếp tục ghi nhận chế định đồng phạm trong đó có các quy định cụ thể về đồng
phạm đánh dấu một bước phát triển về chất trong hoạt động lập pháp hình sự Việt
Nam. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng chế định đồng phạm trong hoạt động tố tụng

nói chung và hoạt động xét xử nói riêng khi giải quyết các vụ án về tội phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt thì thấy còn có nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt là vấn đề định
tội danh trong đồng phạm, đặc biệt đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị
can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ
ràng, hành vi của người phạm tội lại có nhiều yếu tố khác nhau của các tội phạm
khác nhau. Đối với những vụ án thuộc những trường hợp này, đòi hỏi những người
tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận cơ bản và vững chắc, trên cơ sở đánh giá,
phân tích, tổng hợp từng yếu tố của vụ án, áp dụng các văn bản pháp luật liên quan
một cách chính xác thì mới định tội danh đúng.
Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…” (Điều
31, khoản 1). Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định: "Không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật" (Điều 9). Điều đó có nghĩa, chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
1


pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Định tội danh là
một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho
việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh,
chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định
thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng... góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh sai sẽ
dẫn đến hậu quả rất lớn, đặc biệt là không đảm bảo được tính có căn cứ của hình
phạt được tuyên, xét xử không đúng người đúng tội, không đúng pháp luật. Đây
cũng là một trong các nguyên nhân của tình trạng oan, sai vẫn còn đang tồn tại.
Thông qua thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trong đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cho thấy, cơ quan tiến hành tố tụng

còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắt trong việc giải quyết vụ án đặc biệt là đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong đồng phạm do quy định
còn khó hiểu, các dấu hiệu pháp lý khó xác định trên thực tế... Mặt khác, còn có
nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định dấu hiệu pháp lý đặc trưng đối với
nhóm tội này, nhất là với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không
thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng như tội cướp tài
sản, tội cưỡng đoạt tài sản.
Vì vậy,việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống đề tài “Định tội danh
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và định tội danh đối với
đồng phạm được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu như:
- TS. Nguyễn Mai Bộ, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm
1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009

2


- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Chương VII "Quyết định
hình phạt", trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 -Tập 1 phần
chung"do TS. Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chínhtrị Quốc gia, 2001.
- "Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh", chương I, Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học Quốcgia
Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003;
- "Định tội danh- lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành", Lê Cảm
và Trịnh Quốc Toản chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004
- ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh
đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010

- Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2011
- Võ Thanh Hà, Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk),
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015
- "Thay đổi định tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn", PGS.TS. Võ
Khánh Vinh, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, 2003
- Luật gia Đặng Văn Doãn “Vấn đề đồng phạm”, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1986;
“Khái niệm người thực hiện tội phạm và khái niệm người đồng phạm", Tạp chí Luật
học, số 1/1995, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- PGS.TS Lê Thị Sơn “Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ
chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự”, sách
chuyên khảo, Nxb Tư pháp, 2013...
Có thể nói, những công trình khoa học trên là tài liệu quí báu giúp tác giả có
thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn, hiện nay
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong đồng phạm và trên một địa bàn cụ thể là
3


địa bàn tỉnh Bắc Giang. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: tài “Định tội danh các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” không trùng lặp với các công
trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trước yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói
chung, đặc biệt là những tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng
phạm, Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh trong trường hợp

đồng phạm và thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm
2017, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội xâm phạm
quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm ở nước ta, góp phần
nâng cao hơn nữa hiệu quả của định tội danh trong vụ án hình sự có đồng phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu và cơ sở pháp lý của định tội danh các tội xâm
phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm.
- Phân tích cơ sở lý luận về định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm.
- Khái quát tình hình các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và tình hình
các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thực hiện bằng đồng phạm trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2017.
- Phân tích thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải
quyết vụ án hình sự những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, để tìm ra
những ưu điểm, vướng mắc, sai lầm trong thực tiễn cần phải hoàn thiện.
- Đúc rút được những vấn đề cần lưu ý khi định tội danh các tội xâm phạm
quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm, đưa ra các yêu
cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội xâm phạm quyền sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về định tội danh
các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm và
thực tiễn áp dụng các quy định về định tội danh các tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ
năm 2012 đến năm 2017.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến định tội danh các tội phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm qua phân tích các số liệu,
vụ án cụ thể và đường lối giải quyết của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Giang
qua các bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã xét xử từ năm 2012 đến năm 2017.
5. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống
tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật, cũng như thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội
học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những
luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài
viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ vấn đề tư đó sử
dụng các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống
kê;... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà
nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc
lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối cao hoặc của các cơ quan bảo vệ
pháp luật ở trung ương ban hành có liên quan đến nội dung của đề tài, những số liệu
5


thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và địa phương... để phân tích, tổng hợp các luận
chứng,các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là đề tài nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách có hệ thống và toàn

diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học. Trong quá trình hoàn
thành luận văn, tác giả đã đưa ra những kết quả nghiên cứu trong các tạp chí khoa
học pháp lý, kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học pháp lý.
6.2 . Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống tương đối toàn diện góp phần nhận
thức sâu hơn về lý luận về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm thông qua thực tiễn xét xử; đồng thời luận
văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên
cứu khoa học; hoàn thiện lý luận về định tội danh cũng như hoạt động thực tiễn về
định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp
đồng phạm cho các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy và làm công tác thực tiễn trong
các cơ quan tư pháp khi áp dụng các quy định của BLHS 2015 về định tội danh các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm.
Chương 2. Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trong trường hợp đồng phạm và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Giang.

6


Chương 3. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM

SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
ĐỒNG PHẠM
1.1. Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong trường hợp đồng phạm
1.1.1. Định tội danh
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra phức tạp và đa
dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết
định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba
giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng luật hình sự. Định tội danh là tiền đề
cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh,
chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định
thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng… góp phần đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.
Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau xoay quanh khái niệm định tội
danh, cụ thể:
Theo từ điểm Luật học thì: “Định tội danh được hiểu là để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì phải
định tội được theo tội danh mà luật hình sự quy định. Cơ sở của việc định tội danh
phải dựa vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm”[6, tr.39].
Theo quan điểm của tác giả Dương Tuyết Miên: “Định tội đanh được hiểu là
hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện liểm
sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để
xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều

7


luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho
hành vi nguy hiểm đã thực hiện”[17, tr.9].

Theo quan điểm của tác giả Võ Khánh Vinh: “Định tội danh là một dạng hoạt
động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách
quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội
được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu
thành tội phạm tương ứng với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng
phương pháp thông qua các giải đoạn nhất định” [41, tr.9, 10].
Trong khi đó, nhà thực tiễn Đoàn Tấn Minh quan niệm:“Định tội danh là
thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các
dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội
phạm được mô tả (quy định) trong luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự bằng
việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật” [18]; v.v…
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm định tội danh, tuy nhiên có
thể đồng nhất khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là một dạng hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết
khách quan của vụ án hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các
dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định
thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật. Khái niệm này cho thấy mục
đích của định tội danh là nhằm đạt được sự thật khách quan từ đó đưa ra sự đánh giá
chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân
hóa trách nhiệm hình sự một cách công bằng, minh bạch, rõ ràng và đúng pháp luật.
Khi tiến hành định tội danh các tội phạm cần dựa vào cấu thành tội phạm cơ
bản. Trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể chứa đựng nhiều khung hình phạt thì
sau khi định tội danh, cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện bước tiếp theo là xác
định hành vi phạm tội thỏa mãn khung hình phạt nào. Trên cơ sở định tội danh, Tòa
8



án sẽ lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người phạm tội như tuyên bị cáo miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc lựa chọn một hình phạt cụ thể cho bị cáo.
Theo cách hiểu trên thì định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trong trường hợp đồng phạm là việc xác định sự phù hợp chính xác của những
hành vi nguy hiểm cho xã hội do hai người trở lên thực hiện, cùng cố ý xâm phạm
đến quyền sở hữu tài sản của người khác, những người đồng phạm này có đủ năng
lực trách nhiệm hình sự đã cùng thực hiện một cách cố ý. Xét về thực chất quá trình
định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng
phạm là phải xác định những dấu hiệu cơ bản, điển hình, quan trọng, đồng thời chỉ
ra những dấu hiệu cần và đủ để xác định thực chất hành vi xảy ra trên thực tiễn, khi
xem xét, đối chiếu các dấu hiệu đó được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS)
phải đưa được kết luận quy phạm pháp luật được ban hành là để áp dụng cho trường
hợp phạm tội cụ thể, là đồng phạm đơn giản hay tội phạm có tổ chức, căn cứ vào
cấu trúc của các yếu tố CTTP.
Khi định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường
hợp đồng phạm những người tiến hành định tội danh phải xác định hành vi thực tế
của những loại người đồng phạm khác như: Người tổ chức, người xúi giục, người
giúp sức (nếu có), trên cở sở đặc điểm riêng của các loại hành vi người đồng phạm
được quy định một cách khái quát tại BLHS. Điểm khác biệt này cần được làm rõ
để tránh được sự phiến diện trong việc xác định vai trò của người đồng phạm.
Định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp
đồng phạm là tiền đề cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự (TNHS) và hình phạt
một cách khách quan, đúng căn cứ pháp luật, đồng thời để áp dụng đúng các quy
định của BLHS về các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, hình phạt và
tội phạm.
1.1.1.2. Đồng phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và
phải chịu hình phạt. Theo quy định tại khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 thì:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
9



người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử
lý hình sự”.
Tội phạm trên thực tế được thực hiện bởi một hoặc nhiều người. Khi tội
phạm do nhiều người thực hiện có thể có đồng phạm. Nhiều người thực hiện tội
phạm có thể là đồng phạm cũng có thể chỉ là trường hợp những người thực hiện tội
phạm đã hành động trong sự độc lập hoàn toàn với nhau. Theo quy định tại khoản 1,
Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 thì khái niệm đồng phạm được hiểu là: “trường hợp
có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Dưới góc độ khoa học luật
hình sự, có thể hiểu khái niệm đồng phạm như sau: “Đồng phạm là hình thức phạm
tội do hai người trở lên cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm”.
Trên cơ sở khái niệm đồng phạm có thể thấy đồng phạm đòi hỏi phải thỏa mãn
các dấu hiệu của mặt khách quan (đó là số lượng, hành vi và mối quan hệ nhân
quản) và các dấu hiệu của mặt chủ quan (đó là lỗi và mục đích) [27]. Các dấu hiệu
này có tính đặc trưng và bắt buộc đối với đồng phạm:
Thứ nhất, mặt khách quan của đồng phạm
Về số lượng: Đồng phạm đồi hỏi phải có sự tham gia của hai người trở lên
thực hiện một tội phạm. Đây là dấy hiệu bắt buộc thuộc về mặt khách quan của
đồng phạm, nếu thiếu dấu hiệu này thì sẽ không có cấu thành đồng phạm. Tội phạm
do một người thực hiện chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ, cấu thành tội phạm độc
lập, hậu quả phạm tội là do hành động và ý chí của một người gây ra. Chỉ khi có từ
hai người trở lên tham gia thực hiện tội phạm thì mới có sự bàn bạc và cùng nhau
hành động.
Thứ hai, mặt chủ quan của đồng phạm


10


Đồng phạm đòi hỏi phải có sự cùng cố ý của những người tham gia thực hiện
tội phạm do cố ý. Dấu hiệu chủ quan này là bắt buộc và đặc trưng của đồng phạm.
Nếu thiếu dấu hiệu này sẽ không có đồng phạm và lúc này nó chỉ là hình thức nhiều
người cùng phạm một tội.
Về mặt lý trí: mỗi người đều biết hành vi của mình gây ra nguy hiểm cho xã
hội và hành vi của những người thực hiện khác cũng gây nguy hiểm cho xã hội
cùng mình. Nếu chỉ biết mình có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không biết
hành vi của người cùng thực hiện cũng gây nguy hiểm cho xã hội giống mình thì
chưa thỏa mãn dấu hiệu có lỗi trong đồng phạm. Mỗi người đồng phạm còn thấy
trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như tội phạm chung
mà họ cùng thực hiện.
Về mặt ý chí: mong muốn có hoạt động chung, mong muốn hoặc để mặc cho
hậu quả xảy ra.
1.1.2.3. Đặc điểm của định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm
1.1.2.1. Đặc điểm
Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý luận
và thực tiễn
Để định tội danh đối với mỗi hành vi phạm tội cụ thể, người tiến hành tố
tụng phải xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có phù hợp với
các dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự hay không và đưa ra
sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong
thực tế.
Tuy nhiên, pháp luật không thể phản ánh được hết tất cả các mặt của đời sống
xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ ghi nhận những nét khái quát, phổ
biến đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng cho các trường hợp cụ thể trong cuộc

sống. Do đó, đòi hỏi phải có sự nhận thức và phán ánh chính xác, theo kịp và đáp
ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập pháp và vai trò quan trọng của các
cơ quan tư pháp trong hoạt động áp dụng pháp luật.
11


Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội
phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được xác định là tương ứng
và phù hợp với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm đã xảy ra (là
tội gì) và người phạm tội (đã phạm vào tội gì) đồng thời buộc họ chịu trách nhiệm
về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Việc đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế
của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cũng có thể
dẫn đến hướng kết luận là không có tội phạm xảy ra hoặc người là đối tượng kết
luận không phạm vào tội đang cần được xác định nếu kết quả đối chiếu tương ứng
là không có sự phù hợp [18, tr.11]
Thứ hai, hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm
pháp luật nội dung là Bộ luật Hình sự cũng như các quy phạm pháp luật của luật
hình thức là Bộ luật tố tụng Hình sự.
Việc áp dụng pháp luật hình sự là nội dung pháp lý của hoạt động định tội
danh. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội phạm cụ thể với
các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm đang được sử dụng để định tội danh
[18, tr.10]. Chính vì thế, việc thiết lập các dấu hiệu đặc trưng cơ bản và điển hình để
xác định bản chất pháp lý của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong
thực tế khách quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định tội danh, mà toàn
bộ quá trình này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội dung (Bộ
luật Hình sự) cũng như luật hình thức (Bộ luật tố tụng Hình sự).
Thứ ba, định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện liểm sát và Tòa án) để cụ thể hóa các
quy phạm pháp luật hình sự trìu tượng vào đời sống thực tế. Trên cơ sở các định
đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức

đầy đủ, đúng đắn nội dung của các quy phạm pháp luật hình sự.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định rõ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng có những quyền hạn, trách nhiệm để giải quyết vụ án hình sự và trên cơ sở
đó những cơ quan, người có thẩm quyền này tiến hành việc định tội danh để giải
quyết vụ án hình sự [17, tr.10]. Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Cơ
12


quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xác định được tất cả các tình tiết cần thiết
của vụ án phù hợp với hiện thực khách quan. Đây được xem là quy trình cụ thể hóa
của quy phạm pháp luật hình sự vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy
phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào
đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là: hành vi
được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng được
quy định trong pháp luật hình sự hay không.
Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự được tiến hành theo 04 bước sau:
Bước 1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên
thực tế khách quan;
Trong quá trình xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án đòi hỏi người định tội
danh phải đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư,
không định kiến, không suy diễn. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và
đánh giá theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xem xét, đánh giá mỗi tình tiết của vụ án phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể,
trong tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng diễn biến của vụ án đã
xảy ra. Bởi cùng một tình tiết nhưng đặt trong mỗi hoàn cảnh khác nhau thì chúng
lại có sự khác nhau về bản chất. Quá trình xem xét, đánh giá các tình tiết, sự kiện
phải được tiến hành tổng thể, không tách riêng từng tình tiết mà phải có sự phối
hợp, gắn kết các tình tiết với nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án.Nếu chỉ
kết luận về từng tình tiết độc lập thì không thể phản ánh đúng về bản chất của tình

tiết đó trong toàn bộ diễn biến của vụ án.
Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm về tội danh có
hướng lựa chọn.
Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự
mang tính trìu tượng nên chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính
phổ biến để điều chỉnh hiện tượng thực tế. Do đó, đòi hỏi quá trình định tội danh
13


phải sử dụng tư duy nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm. Người định tội danh phải tự đánh giá trên căn cứ khoa
học và căn cứ thực tế sao cho có sức thuyết phục.
Bước 3: So sánh, đối chiếu hai quá trình trên.
Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết định có
căn cứ, đảm bảo tính khách quan, chính xác trên cơ sở thực hiện 03 bước trên để
xác định tội danh cần áp dụng đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể.
Cơ sở của hoạt động định tội danh
* Cơ sở pháp lý
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ pháp lý của hoạt động
định tội danh được hiểu theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, những căn cứ pháp lý của hoạt động định tội danh được hiểu
là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất
(trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất
là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm.
Theo nghĩa hẹp, những căn cứ pháp lý của hoạt động định tội danh chỉ bao
gồm hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy
nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội được thực hiện là tội phạm [9, tr.21].

Có tác giả lại chỉ coi ở khía cạnh hẹp hơn, căn cứ pháp lý của việc định tội
danh là Bộ luật hình sự mà cụ thể hơn là điều luật quy định về tội phạm cụ thể [17,
tr.12].
Bộ luật hình sự 2015 đã liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội
phạm vào trong bộ luật. Cụ thể, Điều 2 Bộ luật quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”, nếu tội
phạm xảy ra trước khi có luật mới quy định về hành vi đó thì hành vi đó không bị
coi là tội phạm tức là điều LHS không có hiệu lực hồi tố, kể cả việc pháp luật quy
định tăng nặng hình phạt cũng vậy [41, tr.65]. Do đó, Bộ luật hình sự đóng vai trò là
14


cơ sở pháp lý quan trọng nhất của hoạt động định tội danh. Bộ luật hình sự được coi
là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật
hình sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như quá
trình định tội danh và quyết định hình phạt.
Kết quả của hoạt động định tội danh là đưa ra văn bản kết luận một hay nhiều
hành vi nguy nghiểm cho xã hội đang được xem xét, xử lý theo điều luật nào của Bộ
luật hình sự. Vì vậy, việc định tội danh phải viện dẫn được quy định cụ thể trong Bộ
luật hình sự. Hiện nay, khi xây dựng Bộ luật hình sự 2015, các nhà làm luật vẫn giữ
nguyên việc phân chia Bộ luật này thành hai phần là phần chung và phần các tội
phạm, theo đó:
- Phần chung (Phần thứ nhất Bộ luật hình sự 2015): Bộ luật hình sự ghi nhận
nhiệm vụ, nguyên tắc xử lý, các chế định cơ bản và quan trọng nhất của bộ luật là
tội phạm và hình phạt, các vấn đề khác như hình phạt, hệ thống hình phạt và các
biện pháp tư pháp, quyết định hình phạt, xóa án tích…
- Phần các tội phạm (Phần thứ hai Bộ luật hình sự 2015): Tại phần này, Bộ
luật ghi nhận từng tội danh cụ thể, nêu tên tội danh, các dấu hiệu pháp lý hình sự cơ
bản, loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi phạm tội tương ứng. Việc áp
dụng quy định của phẩn này phải dựa trên các quy phạm được ghi nhận tại Phần

chung của Bộ luật. Ngược lại, các quy phạm của Phần chung cũng trở nên không có
ý nghĩa nếu không có các quy phạm của phần các tội phạm trong Bộ luật hình sự.
Định tội danh là việc so sánh, đối chiếu các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội với những dấu hiệu được mô tả trong mô hình một loại tội phạm trong
phần các tội phạm tương ứng. Với mỗi hành vi phạm tội cụ thể trong phần các tội
phạm, Bộ luật hình sự ghi nhận đầy đủ hành vi phạm tội hoàn thành, tuy nhiên, trên
thực tết diễn biến tội phạm rất đa dạng, phong phú, do đó, để có thể định tội danh
chính xác cần viện dẫn cả quy định của phần chung cũng như chú ý tới hiệu lực của
điều, khoản được viễn dẫn về không gian và thời gian.
* Cơ sở khoa học

15


Cấu thành tội phạm được xem là cơ sở khoa học quan trọng của hoạt động
định tội danh, là “hình thức phản ánh tội phạm trong luật, mô tả tội phạm trong luật
thông qua các yếu tố của nó”[16, tr.112]
Khoản 2, Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Hành vi không
cấu thành tội phạm” là một trong các căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng không
khởi tố vụ án hình sự. Cấu thành tội phạm là căn cứ khoa học cùng với căn cứ pháp
lý là Bộ luật hình sự là cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, vì hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu
đặc trưng của một cấu thành tội phạm tương ứng được quy định tại phần các tội
phạm của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, cấu thành tội phạm còn là yếu tố bảo đảm các
quyền tự do của công dân, là ranh giới xác định một hành vi đã cấu thành tội phạm
hay không cấu thành tội phạm.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm cấu thành tội phạm
được hiểu như sau: Cấu thành tội phạm bao gồm tổng hợp các yếu tố khách quan và
chủ quan đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong pháp luật hình sự.
Để xem xét một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không, điều

quan trọng là phải nắm được bản chất của hành vi đó, pháp luật hình sự phải giải
thích và làm sang tỏ các nội dung sau:
- Một là, quan hệ xã hội nào đã bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại được
Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ?
- Hai là, hành vi nguy hiểm cho xã hội được biểu hiện ra bên ngoài thế giới
khách quan ra sao? Hậu quả mà nó gây ra cho xã hội?
- Ba là, năng lực hành vi dân sự của người thực hiện tội phạm bao gồm: độ
tuổi, có nhược điểm gì về thể chất hoặc tinh thần không?
- Bốn là, thái độ, trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội? Khi thực hiện hành vi họ có động lực, mục đích gì và mong muốn đạt được
kết quả như thế nào?
Do đó, muốn xác định được đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm cụ
thể phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật phần chung và các quy phạm thuộc
16


Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Cần xác định được nội hàm của 04 yếu tố
cấu thành tội phạm bao gồm: Khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể.
Mỗi yếu tố cấu thành tội phạm thể hiện một nội dung cụ thể liên quan đến tội phạm
và tổng hợp bốn yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ giữa người thực
hiện hành vi phạm tội, hành vi, hậu quả gây ra. Do đó, bất kỳ hành vi phạm tội nào
dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù
xâm phạm đến quan hệ xã hội nào, mức hình phạt ra sao thì bao giờ cũng đều thể
hiện mối quan hệ thống nhất giữa những biểu hiện khách quan và chủ quan của nó.
1.1.2.2. Quy định về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Theo từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là chiếm của người làm của mình bằng
cách dựa vào vũ lực, quyền thế, ở khái niệm này, chiếm đoạt được xem là hành vi
dùng vũ lực, quyền uy để lấy tài sản của người khác có chủ đích. Trên cơ sở các quy
định của pháp luật hình sự có thể hiểu: Các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt là những tội phạm xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt nên trong

cấu thành tội phạm của những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt [38, tr.11]. Theo đó,
“chiếm đoạt tà sản là hành vi cố ý dịch chuyển trái pháp luật tài sản đang được sự
quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình”[38, tr.11].
Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là hoạt
động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Trên cơ sở các dấu hiệu cơ
bản của cấu thành các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, các cơ quan
tiến hành tố tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự) phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó thuộc nhóm tội gì,
thuộc khoản (khung) cụ thể nào từ đó ban hành các quyết định tố tụng tương ứng
theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào định nghĩa các tội phạm có tính chất chiếm đoạt có thể thấy nhóm
tội này có những đặc điểm đặc trưng thể hiện qua cấu thành tội phạm cụ thể:

17


Thứ nhất, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bắt buộc phải có
mục đích chiếm đoạt tài sản trong cấu thành tội phạm vì không phải tội phạm nào
có mục đích tư lợi đều là tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản
lý của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới dạng hành vi
hoặc mục đích phạm tội. Bằng hành vi chiếm đoạt với các thủ đoạn khác nhau, các
tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có cùng đặc điểm là xâm phạm
quyền sở hữu tài sản của người khác và cùng được thực hiện bằng hành động.
Hành vi chiếm đoạt, xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài sản mất
hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và
tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ sở
hữu tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Quá trình này

xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ
làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi
chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được thể hiện ở những dạng hành vi
cụ thể khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với tài
sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể [38, tr.12]. Hành vi chiếm
đoạt bao giờ cũng được thể hiện bằng hành động cụ thể và luôn là cố ý trực tiếp với
mong muốn biến tài sản của người khác thành của mình.
Theo đó, đặc điểm của hành vi chiếm đoạt là bằng hành vi dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc những hành vi khác làm cho chủ sở hữu bị tê liệt về
ý chí (không nhận biết được sự việc xảy ra) hoặc làm tê liệt khả năng chống cự (biết
sự việc xảy ra nhưng không có khả năng phản kháng) làm chủ sở hữu mất đi khả
năng thực hiện quyền sở hữu của mình.
Hành vi chiếm đoạt bắt đầu và kết thúc tùy thuộc vào tính chất tài sản và thủ
đoạn chiếm đoạt. Nếu trong quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt, nếu người
phạm tội thay đổi từ hình thức chiếm đoạt này sang hình thức chiếm đoạt khác để

18


có được tài sản thì xuất hiện khả năng chuyển hóa hình thức chiếm đoạt từ tội này
sang tội khác.
Hành vi chiếm đoạt là một quá trình và pháp luật hình sự Việt Nam quy định
đối với từng tội phạm cụ thể hành vi chiếm đoạt được thể hiện một cách khác nhau:
- Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, để thực hiện được hành vi phạm tội,
người phạm tội nhận tài sản từ chủ sở hữu tài sản. Tức là, người phạm tội tiếp cận
tài sản qua việc dùng thủ đoạn gian dối, chiếm giữ tài sản rồi thực hiện việc chiếm đoạt.
- Đối với các tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm đoạt tài sản, người
phạm tội chiếm giữ tài sản trước sự chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực
hiện hành vi chiếm đoạt thông qua các giai đoạn tiếp cận tài sản, thực hiện hành vi
chiếm giữ cũng là hành vi chiếm đoạt, tức hành vi chiếm giữ và hành vi chiếm đoạt

là một.
- Đối với tội trộm cắp tài sản, người phạm tội chiếm giữ tài sản không có sự
chứng kiến của người bị hại nên quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt chỉ có việc
tiếp cận, thực hiện hành vi chiếm đoạt mà không có hành vi chiếm giữ tài sản.
Chính vì vậy, trong khoa học luật hình sự, thực tiễn xét xử thống nhất, tội trộm cắp
tài sản là tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện qua việc người phạm tội chiếm đoạt
được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa phải dựa
vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt, được thể hiện qua 03 mức độ sau: (1) Nếu
vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã dấu được
tài sản trong người; (2) Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm
đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản; (3) Nếu vật chiếm
đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã
chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu [38, tr.22]
Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm
là còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý của chủ tài sản. Tài sản đã thoát ly khỏi sự
chiếm hữu, sự quản lý của chủ tài sản (tài sản thất lạc) thì không còn là đối tượng
của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới
có thể nói đến nói đến hành vi chiếm đoạt, làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản.
19


Thứ hai, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đều là các tội được
thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Khoa học luật hình sự coi lỗ
là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho
xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự như: Sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế
cấp thiết…
Xét về mặt chủ quan, lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp.

Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người
quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Những
trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc là tài sản không có người quản lý
đều không phải là hành vi chiếm đoạt.
Thứ ba, hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt gây ra
có thể là hậu quả kép do xâm phạm đến hai loại quan hệ xã hội: tài sản và tính
mạng, sức khỏe. Ở các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thiệt hại chủ
yếu gây ra là về tài sản nhưng cũng có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh sự của con người; xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến
đoạt động của các cơ quan, tổ chức. Hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu gây ra
chủ yếu là thiệt hại về tài sản. Thiệt hại về mặt tài sản được xem là thước đo để
đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong
một số tội cụ thể, giá trị tài sản bị thiệt hại được coi là căn cứ để phân biệt tội phạm
với các hành vi vi phạm khác như: Trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…
Từ những đặc điểm trên có thể thấy, trong cấu thành tội phạm của nhóm tội
xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt, dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục
đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được. Do vậy, khi nghiên
cứu từng tội danh cụ thể, phải chú ý xem dấu hiệu chiếm đoạt trong cấu thành tội
phạm là hành vi chiếm đoạt hay chỉ là mục đích chiếm đoạt hay phải là chiếm đoạt
20


×