Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.7 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Bình An

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN GÓP VỐN THÀNH LẬP
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN
TRỞ LÊN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Bình An

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN GÓP VỐN THÀNH LẬP
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN
TRỞ LÊN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

Ngành
Mã số

: Luật Kinh tế
: 838.01.07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sỹ này, trước hết tôi xin gửi đến quý thầy,
cô giáo trong khoa Luật – Học viện Khoa học Xã hội lời cảm ơn chân thành.
Các thầy cô đã giúp đỡ tôi có thêm những tài liệu hữu ích để bổ sung vào luận
văn của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới giáo viên hướng dẫn của tôi là PGS.TS. Vũ
Thị Lan Anh. Cô đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo cho tôi trong quá trình xây
dựng luận văn.
Vì kiến thức bản thân còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai
sót khi nghiên cứu và tìm hiểu. Vì vậy tôi mong nhận được sự góp ý và quan
tâm của quý thầy cô để luận văn của tôi được hoàn thiện một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP
DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN GÓP VỐN .....................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của góp vốn thành lập doanh nghiệp ..........................8
1.2. Tài sản góp vốn ...............................................................................................12
1.3. Chủ thể, hình thức và thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam19
1.4. Định giá tài sản góp vốn thành lập doạnh nghiệp...........................................35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY TNHH HAI
THÀNH VIÊN TRỞ LÊN ......................................................................................40
2.1. Hệ thống các quy định pháp luật về định giá tài sản góp vốn thành lập công ty
TNHH hai thành viên trở lên .................................................................................40
2.2. Nội dung các quy định pháp luật về định giá tài sản góp vốn thành lập công
ty TNHH hai thành viên trở lên .............................................................................41
2.3. Đánh giá các quy định pháp luật về định giá tài sản góp vốn thành lập công ty
TNHH hai thành viên trở lên .................................................................................46
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN GÓP VỐN THÀNH LẬP
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN .......57
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
định giá tài sản góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên .............57
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về định giá tài sản góp vốn
thành lập công ty TNHH 2 thành viên trở lên .......................................................61
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về định giá tài
sản góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên ................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 26/11/2014, Luật Doanh nghiệp chính thức được Quốc hội ban
hành với mục tiêu cao nhất là đưa doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh
doanh an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, để qua đó tăng cường
huy động và thu hút hơn nữa mọi nguồn lực, cũng như vốn đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được
của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005, đồng thời khắc
phục những điểm hạn chế, bất cập của quy định hiện hành và thể chế hóa các

quan điểm của Đảng, giải quyết các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, Luật
Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định mới nhằm tạo ra một môi trường
kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời phản ánh được nhiều tư
tưởng và mục tiêu nổi bật của Luật Doanh nghiệp 2014 là hình thành một
khung pháp lý chung, bình đẳng áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh
nghiệp. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2014 đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động bình đẳng trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, cũng như hội nhập kinh tế quốc tế.
Để tạo thuận lợi cho chủ đầu tư trong việc định giá tài sản góp vốn,
Luật Doanh nghiệp quy định tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải
được các thành viên cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc
do một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá.
Vấn đề về vốn trong công ty TNHH hai thành viên nói riêng và đối với
các loại hình doanh nghiệp khác nói chung, đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường hiện nay là quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vốn là một nhân tố cực kỳ
quan trọng và là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, có vốn thì doanh nghiệp
1


mới hoạt động có hiệu quả, thực hiện được các chiến lược, mục tiêu kinh
doanh đã đề ra, vượt qua được các khó khăn và các đối thủ sẽ gặp phải trên
thương trường, đem lợi nhuận về cho công ty thông qua đó góp phần giải
quyết việc làm cho người dân, tăng ngân sách cho Nhà nước, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển…
Vốn là một yếu tố quyết định sự sống còn của một doanh nghiệp, quyết
định quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, chủ đầu tư của doanh nghiệp. Mà một
trong các nguồn quan trọng và chủ yếu nhất để hình thành vốn của doanh
nghiệp chính là vốn góp của các thành viên khi thành lập doanh nghiệp.

Trên thực tế, có nhiều vướng mắc phát sinh khi áp dụng quy định của
Luật doanh nghiệp về góp vốn, ví dụ như: Vấn đề quy trách nhiệm cho người
đại diện theo pháp luật của công ty về việc xác định giá trị tài sản góp vốn cao
hơn giá trị thực tế là không thoả đáng. Có nhiều lý do để lãnh đạo các công ty
“cố ý” xác định giá trị tài sản góp vốn cao hơn so với giá trị thực tế, trong đó
không loại trừ các lý do chủ quan có tính chất tiêu cực, như: gia tăng chi phí
khấu hao tài sản để giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp, làm ảo tổng
số vốn góp của chủ sở hữu nhằm giả tạo năng lực tài chính của công ty, giúp
cho người góp vốn bằng tài sản (phải định giá) được hưởng quyền lợi nhiều
hơn các cổ đông, thành viên khác… Khi đó, quyền lợi của công ty, của chủ nợ
và của các đồng chủ sở hữu khác đồng thời bị xâm phạm. Do vậy, cần phải
xác định trách nhiệm pháp lý, trước hết là trách nhiệm dân sự, cho những cá
nhân trực tiếp “thiết lập” các giao dịch góp vốn có tính chất man trá này.
Thứ hai, mặc dù Luật doanh nghiệp 2014 quy định nếu tài sản được
định giá cao hơn giá trị thực tế thì các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới
chịu trách nhiệm góp thêm vào phần chênh lệch. Tuy nhiên, vấn đề là ai sẽ là
người xác định giá trị thực tế của tài sản được định giá. Và việc góp thêm
phần chênh lệch giữa giá trị tài sản được định giá so với giá trị tài sản thực tế
2


sẽ được thực hiện như thế nào? Tỷ lệ góp thêm giữa các thành viên, cổ đông
sáng lập sẽ được tính ra sao? Như vậy sẽ rất khó để kết luận các thành viên,
cổ đông sáng lập cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn thực tế. Và nếu có
thiệt hại xảy ra thì tỷ lệ gánh chịu thiệt hại sẽ được phân chia cho các thành
viên, cố đông sáng lập như thế nào?
Vì những khó khăn, vướng mắc nêu trên tác giả đã chọn đề tài: “Định
giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên theo Luật doanh nghiệp 2014” làm luận văn thạc sỹ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014 là một đề tài mới nên chưa có
tác giả nào nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực
tiễn về vấn đề này. Chỉ có một số tác giả nghiên cứu về các lĩnh vực tổ chức
và quản lý của công ty, hành vi góp vốn, định giá tài sản góp vốn thành lập
công ty cổ phần, hoặc so sánh thủ tục thành lập doanh nghiệp. Có thể kể đến
như luận văn thạc sĩ "Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo
pháp luật Việt Nam" của tác giả Lưu Thu Hà (2015), Khoa Luật – Trường Đại
học Quốc Gia Hà Nội; Luận văn “Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ
phần ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Tố (2016), Học viện khoa học
xã hội; Luận văn “Chế độ pháp lý về vốn của công ty cổ phần theo pháp luật
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Hải Tố (2007), Khoa Luật – Trường
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có thể
khai thác trong luận văn như: Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật thương
mại – Phần chung và Thương nhân, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội; Lê Tài
Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân (1972), Luật thương mại Việt Nam
dẫn giải, Quyển I và Quyển II, Sài Gòn; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007),
3


Giáo trình luật thương mại - Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Viện
quản lý kinh tế trung ương (CIEM), Công ti Vision & Associates, \ Tổ chức
hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) (2005), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp; Nguyễn
Như Phát (1997), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội; Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình luật kinh tế - Tập 1: Luật doanh
nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội; Bùi Ngọc Cường (2001), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm
bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công

ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức,
TP. Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các đề tài của các tác giả chủ yểu khái quát về các loại
hình doanh nghiệp, trong đó có công ty TNHH hai thành viên; so sánh các
loại hình doanh nghiệp đó với nhau theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, các
tác giả cũng đề cập đến vấn đề vốn góp trong việc thành lập doanh nghiệp;
tuy nhiên điểm hạn chế là chưa đi sâu vào phân tích một cách có hệ thống về
mặt lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề, một số nghiên cứu khác lại chỉ tập
trung đến loại hình công ty cổ phần. Tuy nhiên, ít có tác giả nào nghiên cứu
chuyên sâu về định giá tài sản khi góp vốn, càng hiếm có tác giả nghiên cứu
định giá tài sản góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên. Vì
thế, luận văn này sẽ là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống và toàn
diện về vấn đề định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu luận văn là nghiên cứu các quy định về định giá
tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
4


theo Luật Doanh nghiệp 2014 và thực tiễn thi hành các quy định này, từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về định giá tài sản góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành
viên trở lên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, luận văn phải khái quát được những vấn đề lý luận về góp
vốn thành lập doanh nghiệp theo quy định pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, luận văn phải đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về định giá
tài sản góp vốn cũng như những khó khăn, tồn tại vướng mắc trong thực tiễn

hoạt động định giá tài sản góp vốn.
Thứ ba, đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về định giá tài sản góp vốn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về
định giá tài sản góp vốn trong việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014 và thực tiễn thi hành pháp
luật về vấn đề này ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đồng thời để phù hợp với
mục đích, đối tượng nghiên cứu, tác giả tập trung chủ yếu vào những quy
định của Luật Doanh nghiệp 2014 về định giá tài sản góp vốn trong việc
thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; qua đó đưa ra
các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định trên trong thực tiễn áp
dụng.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tác giả vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý
luận về nhận thức của triết học Mác - Lê Nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, về quyền con người; Quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, chứng minh dùng để làm
rõ về mặt lý luận các quy định của pháp luật về định giá tài sản góp vốn trong

việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật
doanh nghiệp 2014.
- Phương pháp lịch sử được vận dụng nhằm phân tích, đánh giá sự kế
thừa và phát triển của các quy định trong pháp luật về định giá tài sản góp
vốn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của
pháp luật về định giá tài sản góp vốn trong việc thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014. Qua đó, luận
văn đánh giá một cách khách quan về thực tiễn thực hiện quy định của pháp
luật về định giá tài sản góp vốn trong doanh nghiệp nói chung, trong công ty
TNHH hai thành viên trở lên nói riêng. Từ đó, luận văn chỉ rõ những bất cập
trong quy định của pháp luật cần hoàn thiện cũng như những vướng mắc
trong quá trình áp dụng pháp luật cần khắc phục. Trên những cơ sở đó, luận
văn đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành về định giá tài sản góp vốn.

6


Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng
dạy, học tập về pháp luật kinh tế. Đây cũng cỏ thể là nguồn tư liệu mang tính
lý luận và thực tiễn cao, dùng để tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung
để hoàn thiện Luật doanh nghiệp 2014.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về góp vốn thành lập doanh nghiệp và
định giá tài sản góp vốn
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về định giá tài sản

góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
GÓP VỐN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của góp vốn thành lập doanh nghiệp
Vốn là yếu tố quan trọng không thể thiếu khi thành lập bất kì loại hình
doanh nghiệp nào. Nó không những quyết định sự sống còn của doanh nghiệp
mà còn thể hiện khả năng gánh chịu nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp, quyết
định quyền và nghĩa vụ của các chủ sở hữu, chủ đầu tư của doanh nghiệp.
Một trong các nguồn quan trọng và chủ yếu nhất để hình thành vốn của doanh
nghiệp chính là vốn góp của các thành viên khi thành lập doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm góp vốn
Theo Từ điển Luật học (2006): “Góp vốn là việc nhà đầu tư đưa tài
sản dưới các hình thức khác nhau vào Doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu
hoặc đồng chủ sở hữu doanh nghiệp”.[2]
Theo Vũ Tuấn Anh (2012): “Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển
giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để
đổi lại những lợi ích từ việc góp vốn đó”[1]. Góp vốn thành lập công ty là
việc một người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự
mình hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản
góp vốn về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp
luật Việt Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tuy

nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản góp vốn đối với từng trường
hợp cụ thể. Theo Điều 35 Luật Doanh nghiệp 2014, tài sản góp vốn có thể là
Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất,

8


giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có
thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
Theo Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014: “Góp vốn là việc góp tài sản để
tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập
doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành
lập” .
Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty
thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà
chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu của công ty góp vào vốn điều lệ. Lợi ích mà
người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần trong vốn điều lệ của
công ty. Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế
giới vật chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm
được hình thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu
trí tuệ). Phần vốn góp phải là tài sản của người góp vốn và được chuyển từ
người góp vốn sang công ty.
Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai khái niệm khác
nhau. Phần vốn góp là khoản vốn được tính theo tỷ lệ của người góp vốn
trong tổng số vốn điều lệ của công ty mới hình thành hoặc nhận góp vốn. Tài
sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn. Về mặt pháp
lý, vốn điều lệ của công ty là do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối
với chủ nợ của công ty, số tiền mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty
chính là sự cam kết lâu dài cho việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá
sản, các chủ nợ có thể thu hồi nợ trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng

với các tài sản khác của công ty.
Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền
sử dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ
hoặc đồng sở hữu chủ của công ty đó.
9


1.1.2. Đặc điểm của góp vốn
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy góp vốn có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, góp vốn là hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài
sản của người góp vốn, làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo
lập ra công ty thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của
những người góp vốn trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Góp vốn là việc tạo ra tài sản cho công ty nhằm đảm bảo thực hiện các
hoạt động kinh doanh theo mục đích đã đăng ký của công ty và đảm bảo
quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp công ty bị phá sản. Khi tài sản
được một thành viên, một cổ đông góp vào công ty, tài sản đó được chuyển
dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông đó sang công ty. Việc dịch
chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện thông qua cách giao kết hợp
đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên góp vốn. Bằng hành vi
góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra sản nghiệp ban đầu
cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty.
Thứ hai, quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật
và điều lệ của công ty. Việc góp vốn hay hùn vốn là việc nhiều người cùng
góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực
hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng xuyên suốt
lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng với sự phát
triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có khi chỉ đơn
giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không thực sự chú
trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ thể. Góp vốn

vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó cho người khác
để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng người góp vốn
được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp vốn có thể thay

10


đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt lớn của công ty
đối vốn so với công ty đối nhân.
Thứ ba, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản để đổi lấy quyền lợi đối
với công ty. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của
người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm phát sinh quyền
sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát sinh quyền sở hữu
của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo tỷ lệ với các phần
vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người mua cổ phần) đối
với một hoặc một số cổ phần của công ty. Một vấn đề kinh tế khác khi các
thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản lý
công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong
công ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp
của từng thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông.[1]
Thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ pháp lý được tạo lập. Nghĩa
vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa
vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê. Hành vi góp
vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tài
sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng tài sản cho
công ty, thì người góp vốn không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc
chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ quyền đặc biệt đó là quyền sở
hữu gắn liền với quyền lợi của chủ sở hữu công ty. Quyền lợi này có thể tính
thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và quy chế

riêng có thể có.
Quyền lợi này khi tham gia vào công ty thì đương nhiên trở thành viên
của công ty và được tham dự họp Hội đồng thành viên, thảo luận, kiến nghị,
biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên. Có số
11


phiếu biểu quyết tương ứng với phần vốn góp; kiểm tra, xem xét, tra cứu, sao
chép hoặc trích lục sổ đăng ký thành viên, sổ ghi chép và theo dõi các giao
dịch, sổ kế toán, báo cáo tài chính hàng năm, sổ biên bản họp Hội đồng thành
viên, các giấy tờ và tài liệu khác của công ty. Được chia lợi nhuận tương ứng
với phần vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và hoàn thành các nghĩa vụ
tài chính khác theo quy định của pháp luật. Được chia giá trị tài sản còn lại
của công ty tương ứng với phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá sản.
Ngoài ra, thành viên khi góp vốn vào công ty còn được định đoạt phần vốn
góp của mình bằng cách chuyển nhượng, để thừa kế, tặng cho và cách khác
theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty…
Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi tài
sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại quyền
lợi từ công ty. Do đó, khi góp vốn vào công ty thì người góp vốn có phần vốn
góp luôn luôn gắn với công ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của
công ty và khi công ty không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất
đi.[1]
1.2. Tài sản góp vốn
1.2.1. Khái niệm tài sản
Tài sản là một từ ngữ quen thuộc đối với bất kì ai, đó là vấn đề trọng
tâm của các quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ pháp luật nói riêng.
Tài sản tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, phong phú và đa dạng, do vậy việc
phân loại tài sản có vai trò quan trọng trong giải quyết các vấn đề tranh chấp
phát sinh. Tuy nhiên, trong thực tế khái niệm tài sản được hiểu mơ hồ, chưa

có sự thông nhất chung đề có thể xác định đối tượng đó có phải là tài sản hay
không và hậu quả gây ảnh hưởng đến giao dịch dân sự, thương mại và kinh tế.
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì tài sản được liệt kê khép kín
gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
12


Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con
người có thể cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa
khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật, do vậy, nếu bộ phận của
thế giới vật chất mà con người không thể kiểm soát được chiếm hữu được nó
thì đồng nghĩa với việc con người không thể tác động được vào nó. Như vậy,
muốn trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những điều kiện sau:
Thứ nhất, là bộ phận của thế giới vật chất: đây là một điều kiện không
thể thiếu để trở thành vật trong giao dịch dân sự.
Thứ hai, chỉ khi con người chiếm hữu được nó thì nó mới được coi là
vật, tức là con người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào
giao dịch dân sự và được coi là vật.
Thứ ba, có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.Ví dụ
như: một dự án nhà chung cư đang chuẩn bị khởi công xây, công trình đường
sắt trên cao…cả hai cái đó đều được đưa vào giao dịch dân sự như một vật sẽ
hình thành trong tương lai.
Còn đối với tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được
sử dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là
tiền hiện nay khi nó đang có giá trị lưu hành trên thực tế. Tiền được coi là một
dạng đặc biệt của tài sản và cũng là thước đo để xác định toàn bộ khối tài sản
của một chủ thể nào đó trong quan hệ pháp luật dân sự.
Về giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao dịch dân sự hiện
nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác. Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao

gồm: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng; Trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu…giấy tờ có giá là một
loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự và có các thuộc tính như xác nhận

13


quyền tài sản của một chủ thể xác định; trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao quyền sử hữu cho thủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Về quyền tài sản, theo Điều 181 BLDS 2005 định nghĩa: “Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân
sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Quyền này được hiểu là một quyền năng dân
sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền đó phải
được xác định tương đương với một đại lượng vật chất nhất định. Hiện nay,
một số quyền tài sản được công nhận như quyền sử dụng đất, quyền tài sản
phát sinh từ quyền tác gia, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ…
1.2.2. Khái niệm tài sản góp vốn
Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 3, khoản 4) định nghĩa:
“Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc
các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở
hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ
công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”.
Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 4), cũng đưa ra định nghĩa
tương tự. Xét về mặt biểu hiện bên ngoài, các định nghĩa này cho thấy góp
vốn là việc người đầu tư đổi tài sản thuộc sở hữu của mình để trở thành chủ
sở hữu của công ty.
Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 4, khoản 13) đã xem xét và định nghĩa
lại như sau: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào tạo thành vốn điều lệ của công
ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc góp thêm

vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”.
Vốn góp là khái niệm nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của
những tài sản mà nhà đầu tư nào đó đóng góp vào công ty. Như vậy, vốn góp
được định lượng bằng tiền. Luật Doanh nghiệp coi góp vốn là việc dịch
14


chuyển tài sản từ người góp vốn sang cho công ty để trở thành chủ sở hữu của
công ty. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp cũng quy định cụ thể tài sản góp vốn
bao gồm những loại nào. Tuy nhiên dùng phương pháp liệt kê có thể dẫn tới
sự không đầy đủ. Do vậy, Luật Doanh nghiệp có quy định mở là ngoài các tài
sản đã liệt kê thì các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty cũng được coi là
tài sản góp vốn. Luật Doanh nghiệp chỉ đề cập đến việc góp vốn thành lập
công ty bằng tài sản và liệt kê các loại tài sản. Còn tài sản là gì, các loại tài
sản như thế nào và việc thực hiện góp vốn bằng tài sản, chuyển giao vốn góp
như thế nào thì đòi hỏi phải có sự quy định về tài sản và quyền sở hữu trong
Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên có thể thấy các định nghĩa về góp vốn nói trên trong các đạo
luật về doanh nghiệp được ban hành trong các thời kỳ khác nhau gần đây,
khái niệm góp vốn có sự khác biệt. Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh
nghiệp 2005 xuất phát từ góc độ pháp lý để định nghĩa. Còn Luật Doanh
nghiệp 2014 lại xuất phát từ góc kinh tế để định nghĩa. Việc định nghĩa khái
niệm góp vốn dưới góc kinh tế không thuận tiện cho việc nhận biết các dấu
hiệu pháp lý của việc góp vốn và cũng không cho thấy rõ quyền và nghĩa vụ
cơ bản của người góp vốn cũng như người nhận vốn. Luật Doanh nghiệp
2014 chỉ ra tài sản có thể đem vào góp vốn bao gồm:
“1. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng tiền Việt Nam.
2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác

giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp
luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các
quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35)
15


Khác với Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, Bộ luật Dân sự của một
số nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản. Song
theo quan niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm hai loại
là vật và quyền. Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về mặt
phạm vi. Hiện rất hiếm thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của các
quốc gia. Thế nhưng tài sản là đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp vốn.
Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp
2014 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng không thể không có các thiếu
sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra khỏi khuôn khổ của các
qui định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam nơi đã đặt ra tiền
đề cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt Nam “vật
chất liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới
quyền tài sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn
bằng các vật quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất.
Khái niệm tài sản được quy định trong Điều 163 Bộ luật Dân sự năm
2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Khái
niệm tài sản tại Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản.Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương
lai”.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu bao gồm
ba quyền năng là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu.
Như vậy, chiếm hữu là một trong những quyền năng mà chủ sở hữu tài sản có

được đối với tài sản của mình.
Trong lịch sử nghiên cứu khoa học pháp luật về tài sản, đã có rất nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu và đã có những đóng góp, những cống hiến rất to
lớn cho nền khoa học pháp lý nước ta. TS. Nguyễn Ngọc Điện là một trong số
16


các tác giả đó. Cuốn sách “Nghiên cứu về tài sản trong pháp luật dân sự Việt
Nam” NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có thể được coi là một
trong những “dấu ấn” đầu tiên nghiên cứu pháp luật về tài sản một cách có hệ
thống trong lịch sử nghiên cứu lập pháp tại Việt Nam. Theo tác giả tài sản
được hiểu theo hai cách:
Một là, theo phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử
dụng.
Hai là, trong ngôn ngữ thông dụng thì tài sản là một vật cụ thể được
con người nhận biết và sử dụng, có tài sản vô hình hữu hình, tài sản vô hình.
Nhưng dù tồn tại ở bất cứ dạng nào thì chúng đều có thể được sở hữu, tức là
phải thuộc riêng về một chủ thể nào đó. [9]
1.2.3. Phân loại tài sản góp vốn
Theo từ điển mở Wikipedia định nghĩa: “Tài sản là của cải vật chất
dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản theo chu kỳ
sản xuất, ta có tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn khi phân loại tài sản
theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô
hình”[40] .
Tài sản cố định là những tư liệu sản xuất, là một trong những loại tài
sản có giá trị lớn được huy động và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời và thường thì các loại tài sản
này có chu kì sử dụng trong dài hạn. Tài sản cố định được phân thành bất
động sản và động sản. Bất động sản là các tài sản bao gồm: a) Đất đai; b)
Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với

nhà, công trình xây dựng đó; c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai; d) Các
tài sản khác do pháp luật quy định. Động sản là những tài sản cố định không
phải là bất động sản.

17


Tài sản lưu động là đối tượng lao động chỉ dùng được trong một chu kỳ
sản xuất. Đó là tổng thể nói chung tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và những
khoản có thể chuyển ngay thành tiền mặt, như thương phiếu, v.v.
Tài sản hữu hình bao gồm những vật (có những điều kiện nhất định)
tiền và giấy tờ có giá (ngôn ngữ luật học). Tài sản hữu hình là những thứ có
thể dùng giác quan nhận biết được hoặc dùng đơn vị đo lường được. Điều
kiện để vật trở thành tài sản là một vấn đề còn tranh cãi rất nhiều, bởi vì khi
vật không thuộc của ai gọi là vật vô chủ, nhưng không ai gọi là tài sản vô chủ
cả. Khi nói đến tài sản hữu hình bắt buộc chúng phải có một số đặc tính riêng
như: Thuộc sở hữu của ai đó; Có đặc tính vật lý; Có thể trao đổi được; Có thể
mang giá trị tinh thần hoặc vật chất; Là những thứ đã tồn tại(tài sản trước kia)
đang tồn tại và có thể có trong tương lai. Tài sản hữu hình khi có càng nhiều
đặc tính nêu trên thì càng chắc chắn đó là tài sản hữu hình.
Tài sản vô hình là những quyền tài sản (nghĩa hẹp) thuộc sở hữu của
một chủ thể nhất định và thường chỉ gắn với một chủ thể nhất định và thường
không thể chuyển giao. Tuy nhiên một số quyền tài sản có thể chuyển giao
như thương hiệu, hàng hóa, tiền mã hóa (Bitcoin, Ethereum, ...), tài sản trí tuệ
hoặc ủy quyền cho chủ thể khác. Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng
giác quan để thấy được và thường không thể dùng đại lượng để tính. Nhưng
trong quá trình chuyển giao có thể quy ra tiền (cái này là quan trọng nhất).
Tùy từng thời điểm nhất định mà quyền tài sản có giá như thế nào. Việc gây
thiệt hại về tài sản vô hình của chủ thể sẽ phải bồi thường nhưng rất khó để
xác định giá trị của nó. Ngoài những quy định trong luật còn việc xác định giá

trị của tài sản vô hình không thể xác định được.

18


1.3. Chủ thể, hình thức và thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp tại
Việt Nam
1.3.1. Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, góp vốn thành lập
doanh nghiệp là nghĩa vụ của nhà đầu tư. Nhưng tự do kinh doanh không
đồng nghĩa với việc bất cứ người nào, cơ quan, tổ chức nào cũng có quyền
thành lập doanh nghiệp trong kinh doanh. Để đảm bảo quyền bình đẳng giữa
các doanh nghiệp trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích cộng đồng, xã hội, Nhà
nước quy định mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền góp vốn, thành lập hoặc
quản lý doanh nghiệp, trừ các trường hợp mà các hoạt động kinh doanh của
họ có nguy cơ phá vỡ sự bình đẳng của các doanh nghiệp và lợi ích xã hội.
Khoản 3 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Tổ chức, cá
nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của luật
này, trừ các trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước
góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức.
Ngoài ra, vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con của những người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu cơ quan nhà nước không được góp vốn vào doanh
nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện
việc quản lí nhà nước (Điều 37 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005).
Các quy định về thành lập doanh nghiệp một mặt nhằm bảo đảm quyền
tự do kinh doanh của nhà đầu tư, mặt khác phải đáp ứng yêu cầu của quản lý

nhà nước đối với doanh nghiệp. Vì thế, các chủ thể muốn thành lập, góp vốn

19


doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện mà pháp luật thương mại nói
chung và pháp luật doanh nghiệp nói riêng.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng các quy định về chủ thể kinh doanh của
doanh nghiệp là sự thể hiện một bước tiến trong việc ghi nhận quyền của Nhà
đầu tư từ chỗ “chỉ làm những gì Nhà nước cho phép” sang “được làm tất cả
những gì Nhà nước không cấm”. Điều này góp phần tạo cơ hội thuận lợi cho
các nhà đầu tư nhận thức đựợc khả năng của mình, tự hoàn thiện các điều kiện
kinh doanh để lựa chọn cho mình một phương án kinh doanh phù hợp. Cũng
như các quy định trên đây đã hạn chế tình trạng mỗi ngành mỗi cấp tùy tiện
đưa ra các điều kiện kinh doanh đối với nghành, nghề của mình quản lý.
Thông qua các quy định về điều kiện của chủ thể kinh doanh, Nhà nước thực
hiện sự quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh theo định hướng phát triển kinh
tế phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của đất nước.
Theo khoản 2 Điều 48 Luật doanh nghiệp 2014 thì thành viên phải góp
vốn phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi
đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thành viên công ty chỉ được góp
vốn phần vốn góp cho công ty bằng các tài sản khác với loại tài sản đã cam
kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên còn lại. Trong thời hạn này,
thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã
cam kết.
Nhiều công ty khi thành lập cần có điều kiện, cụ thể như nếu doanh
nghiệp đăng ký ngành nghề kinh doanh bình thường không yêu cầu mức vốn
pháp định, thì theo luật không quy định mức vốn tối thiểu để thành lập công
ty. Trong thực tế có nhiều đơn vị doanh nghiệp đã đăng ký vốn điều lệ công

ty là một triệu đồng, điều này hoàn toàn pháp luật không cấm, tuy nhiên khi
đăng ký mức vốn điều lệ quá thấp như vậy thì khi đi giao dịch và làm việc với
20


đối tác, các cơ quan ngân hàng, thuế thì họ thường không tin tưởng doanh
nghiệp này và rất hạn chế giao dịch và cũng là một trở ngại lớn khi đăng ký
mức vốn điều lệ quá thấp. Cho nên cần đăng ký mức tương đối và phù hợp
với thực tế để thuận tiện hơn cho việc kinh doanh. Còn nếu doanh nghiệp
đăng ký ngành nghề kinh doanh yêu cầu mức vốn pháp định để hoạt động, thì
vốn tối thiểu để thành lập công ty chính là bằng với mức quy định của ngành
nghề kinh doanh đó.
1.3.2. Hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp
Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân
loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó
chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức
góp vốn dường như phụ thuộc vào một quy chế pháp lý khác nhau xuất phát
từ đối tượng của hành vi góp vốn.
Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không
có tài sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản
đều có thể đem góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự
thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có
thể thuộc bất kể dạng nào: vật chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện
các tài sản này phải là các tài sản có thể được chuyển giao trong giao lưu dân
sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp vốn đó là một hành vi chuyển giao tài
sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung có liên quan tới việc chuyển
giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia các hình thức góp
vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như góp vốn
bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền. Góp
vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền sử

dụng, sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ.

21


×