Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 88 trang )

TRẦN VĂN TƯỜNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI

TRẦN VĂN TƯỜNG
2013 - 2015

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
TRẦN VĂN TƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 62380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

HÀ NỘI - 2015


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1:

7

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

1.1.

Khái quát về tranh chấp kinh doanh, thương mại

8

1.1.1.


Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại

8

1.1.2.

Các đặc điểm chung của tranh chấp kinh doanh, thương mại

10

1.1.3.

Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại

11

1.2.

Cơ sở của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại

18

1.2.1.

Pháp luật tố tụng kinh doanh, thương mại (Bộ luật Tố tụng Dân sự

18

(2004))

1.2.2.

Pháp luật nội dung liên quan đến việc giải quyết tranh chấp kinh

19

doanh, thương mại
1.2.3.

Mối quan hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật hình thức

20

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

21


22

Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI

2.1.

Pháp luật nội dung về giải quyết kinh doanh, thương mại

22


2.1.1.

Về chủ thể trong tranh chấp kinh doanh, thương mại

22

2.1.2.

Về nội dung của tranh chấp kinh doanh, thương mại (Quyền và nghĩa

24

vụ của các bên trong quan hệ kinh doanh, thương mại)
2.1.3.

Về hình thức biểu hiện của tranh chấp kinh doanh, thương mại

26

2.2.

Pháp luật tố tụng về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại

27

Toà án nhân dân
2.2.1.

Thẩm quyền của Toà án


27

2.2.2.

Thời hiệu khởi kiện và thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại

34

2.2.3.

Tư cách đương sự và người đại diện của đương sự tham gia tố tụng

39

2.2.4.

Cơ quan tiến hành tố tụng

44

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

48


Chương 3:
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT


3.1.

TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

49

Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn

49

tỉnh Yên Bái
3.1.1.

Thực trạng tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Yên

49

Bái
3.1.2.

Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án

54

nhân dân tỉnh Yên Bái
3.2.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh

59


doanh, thương mại
3.2.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh

59

doanh, thương mại
3.2.2.

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh

60

chấp kinh doanh, thương mại
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

77

KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
XÁC NHẬN CỦA
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
(Luận văn đã được chỉnh sửa

NGƯỜI CAM ĐOAN

theo ý kiến hội đồng chấm luận văn)

TS. Nguyễn Triều Dương

Trần Văn Tường


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
một trong những vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, thể hiện
rõ nét trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, Nghị quyết số 48/NQ-TW, và được
nhấn mạnh trong Nghị quyết số 49/NQ-TW: “Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động
tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao”. Đặc biệt, khi nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn hội nhập quốc
tế, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại đang diễn ra với chiều hướng

gia tăng, nội dung tranh chấp đa dạng, phức tạp. Chính vì vậy, nhu cầu giải
quyết những tranh chấp trong lĩnh vực này cần nhanh chóng, kịp thời. Mặc dù
Nhà nước luôn khuyến khích các chủ thể có mâu thuẫn tự giải quyết với nhau,
nếu không giải quyết được có thể thông qua các cơ chế khác để giải quyết
như trọng tài thương mại, việc giải quyết bằng con đường Toà án chỉ là giải
pháp cuối cùng. Tuy nhiên, trên thực tế giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại cho thấy giải quyết thông qua con đường Toà án mới có thể bảo
đảm tối đa quyền lợi các bên, điều này cũng có thể lý giải bởi vì Toà án có
các công cụ bảo đảm cho các bên thực hiện nghĩa vụ của mình thông qua các
biện pháp cưỡng chế thi hành các phán quyết của Toà án.
Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có ý
nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên
mà còn có ý nghĩa đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung trong đó có
tỉnh Yên Bái. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại hiệu quả sẽ góp


2

phần không nhỏ trong việc xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh
cho sự phát triển chung của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Từ năm 2005 trở lại đây, với việc áp dụng các văn bản pháp luật chủ
yếu như Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) (2004) (sửa đổi, bổ sung năm
2011), Luật Thương mại (2005), Luật Doanh nghiệp (2005) (2014)…cùng
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, Toà án nhân dân trên địa bàn tỉnh Yên
Bái đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, thực tiễn trong việc giải quyết những loại
tranh chấp này tại Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề
vướng mắc cần phải nghiên cứu liên quan đến sự hạn chế bất cập trong thực
tiễn, giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và sự thiếu đồng bộ, hạn
chế trong hệ thống các văn bản pháp luật…Điều này ít nhiều đã và đang làm

cho hoạt động xét xử của Toà án mà ở đây là Toà án nhân dân cấp huyện và
Toà Dân sự – Kinh tế - Lao động thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc, dẫn đến tình trạng có những vụ án kinh doanh, thương
mại kéo dài qua nhiều cấp giải quyết, hướng dẫn của ngành không đạt được
sự thống nhất, quan điểm giải quyết cũng không thống nhất giữa các cấp giải
quyết dẫn đến tình trạng bản án bị sửa, bị huỷ ngày càng nhiều...
Chính vì vậy, trong điều kiện hiện nay, nghiên cứu về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái sẽ có ý nghĩa
về lý luận và thực tiễn. Nhận thức đúng đắn về vai trò của Toà án cũng như
các quy định pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại nói chung, đánh giá hoạt động giải quyết này trên địa bàn tỉnh
Yên Bái sẽ góp phần hoàn thiện nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại nói riêng cũng như hoàn thiện khung pháp luật kinh tế nói
chung.


3

Xuất phát từ những yêu cầu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn xét xử tại Toà án
nhân dân tỉnh Yên Bái” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề đặt ra xung quanh việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại luôn được sự quan tâm không chỉ những người hoạt động trong
công tác thực tiễn mà còn cả đối tượng nghiên cứu khoa học luật. Việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong khoa học pháp lý Việt Nam đã
được đề cập từ rất sớm, cụ thể: Đầu những năm 90, một số đề tài nghiên cứu
của các cơ quan Nhà nước được thực hiện: “Trọng tài kinh tế Nhà nước” – Bộ
Tư pháp chủ trì. Tiếp theo đó là các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác

nhau và theo nhiều khía cạnh khác nhau, có thể lấy ví dụ như: Luận văn Thạc
sĩ Luật học của Nguyễn Thị Vân Anh về “Giải quyết tranh chấp công ty bằng
Toà án ở Việt Nam”; Luận văn Thạc sĩ của Cung Mỹ Anh về “Giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
- Những vướng mắc và giải pháp khắc phục” năm 2008;
Nhìn chung, các công trình đã đề cập, nghiên cứu những vấn đề khái
quát của loại hình tài phán Toà án kinh tế ở Việt Nam. Mặc dù các công trình
này cũng đã đề cập đến thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại khá chi tiết và đầy đủ, tuy nhiên do có khoảng cách nhất định về
thời gian nghiên cứu nên không tránh khỏi những hạn chế, chưa đánh giá một
cách kịp thời đối với thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Toà án hiện nay. Hơn nữa, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam là thành viên của WTO, khi tiến hành
sửa đổi, bổ sung BLTTDS (2004) (có hiệu lực từ tháng 01/2012), sửa đổi, bổ
sung Luật Thương mại (2005)…thì hầu như chưa có công trình nào nghiên


4

cứu một cách toàn diện trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đang
đặt ra cần giải quyết. Đặc biệt, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái – nơi có điều kiện kinh
tế, xã hội chưa thực sự phát triển chưa được quan tâm thoả đáng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Với đề tài nghiên cứu: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
từ thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái”, học viên đặt ra các mục
đích trọng tâm nghiên cứu như sau:
Thứ nhất: Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại là cơ sở để tiếp cận các quy định pháp luật Việt Nam
liên quan đến việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại này;

Thứ hai: Phân tích thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ở Việt Nam hiện nay thông qua hệ thống các quy định
pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức.
Thứ ba: Nghiên cứu tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại trên địa bàn tỉnh Yên Bái, đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại của tỉnh.
Để thực hiện những mục tiêu đề ra, học viên xác định nhiệm vụ làm
sáng tỏ những nội dung sau đây:
Thứ nhất: Xác định được các vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại như: Khái niệm, đặc điểm chung và phương
thức giải quyết và cơ sở của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại.
Thứ hai: Tập trung vào phân tích các quy định pháp luật nội dung và
pháp luật về hình thức (tố tụng) trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Toà án nhân dân.


5

Thứ ba: Phân tích thực trạng tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân dân trên địa bàn
tỉnh Yên Bái, từ đó đưa ra các phương hướng và giải pháp cụ thể hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung chủ yếu vào việc phân tích, đánh giá các quy định
của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Toà án nhân dân trên phương diện luật nội dung và luật hình thức, trong đó
quy định pháp luật về luật hình thức (tố tụng) liên quan đến thẩm quyền của
Toà án được nghiên cứu triệt để. Luận văn cũng đồng thời đi sâu vào phân

tích thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án nhân
dân tỉnh Yên Bái với những đặc thù nhất định so với các địa phương khác.
Qua đó thấy được những hạn chế trong quá trình giải quyết và đưa ra định
hướng cũng như những giải pháp hoàn thiện pháp luật cụ thể.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và
phát triển kinh tế về giải quyết tranh chấp để các quy định đó có thể đáp ứng
yêu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện nay.
Luận văn đồng thời vận dụng các phương pháp luận của triết học Mác
– Lê nin, của Lý luận Nhà nước và Pháp luật trong điều kiện thực tế hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh,
đối chiếu, tổng hợp, thống kê…để giải quyết vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Với mong muốn đóng góp ít nhiều về mặt lý luận và thực tiễn trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Yên Bái, luận
văn đã có những đóng góp cho khoa học pháp lý như sau:


6

Thứ nhất: Làm rõ được những vấn đề lý luận về tranh chấp kinh doanh,
thương mại và bước đầu nêu được cơ sở của việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại ở Việt Nam.
Thứ hai: Hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại bao gồm luật nội dung và luật hình thức (tố tụng), trong đó luật
hình thức (tố tụng) được bổ sung, phân tích những quy định mới, những vấn
đề pháp lý đang được quan tâm trong giới nghiên cứu khoa học luật và nhà
hoạt động thực tiễn.
Thứ ba: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên phân tích và chỉ ra

thực trạng tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Yên Bái – địa phương có tình hình kinh
tế đặc thù, để tìm ra các nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ tư: Luận văn đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trên cơ sở những nhu
cầu thực tế đòi hỏi trong tình hình mới hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái và phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Trong khoa học pháp lý, các khái niệm như: tranh chấp kinh tế, tranh
chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh, thương mại thường được đề cập
với nội hàm rộng, hẹp khác nhau. Nhìn chung, các khái niệm này đều được
hiểu là những xung đột, bất đồng về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong quan hệ thương mại.

Ở góc độ ngôn ngữ, “kinh doanh” là tổ chức, sản xuất, buôn bán sao
cho sinh lời; “kinh tế” là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định; “thương mại” là thực hiện lưu thông hàng
hoá bằng mua bán.
Theo cách tiếp cận này, nội hàm tranh chấp kinh tế rộng hơn, bao gồm
cả tranh chấp kinh doanh, thương mại; gồm các tranh chấp phát sinh trong các
khoản đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi hoặc tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài
với quốc gia tiếp nhận đầu tư, tranh chấp giữa quốc gia trong việc thực hiện
điều ước quốc tế về thương mại song phương và đa phương…
Ở góc độ pháp lý, hiện nay phần lớn các quan điểm đồng nhất “tranh
chấp kinh tế” với “tranh chấp kinh doanh, thương mại”. Cụ thể:
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Uỷ ban Luật
Thương mại quốc tế (UNCITRAL) đưa ra khái niệm “thương mại” với nội
hàm rất rộng, liên quan đến tất cả các quan hệ mang bản chất thương mại.
Chính vì vậy, tranh chấp thương mại cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao
gồm toàn bộ các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thương mại.


8

Quan niệm về tranh chấp kinh tế ở Việt Nam cũng có sự khác biệt qua
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung – nền kinh tế được quản lý
bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, hợp đồng kinh tế thời kỳ này không
chỉ là một hình thức pháp lý để triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các đơn vị kinh tế mà còn được sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế
của Nhà nước. Do vậy, ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế có tính chất bắt
buộc chứ không hoàn toàn xuất phát từ lợi ích kinh tế của các bên tham gia
hợp đồng. Cũng chính vì vậy, trách nhiệm thực hiện hợp đồng giữa các bên

tham gia quan hệ với nhau bị coi nhẹ hơn so với trách nhiệm của các bên đối
với cơ quan quản lý và trách nhiệm phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế
được đánh giá “nhẹ” về yếu tố vật chất mà “nặng” về tính chất hành chính.
Có thể thấy, trong giai đoạn này, quan hệ kinh tế với tính chất đơn giản về nội
dung và thành phần chủ thể, được điều chỉnh bởi kinh tế Nhà nước nên các
tranh chấp kinh tế phát sinh không nhiều và chủ yếu là các tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị kinh tế với nhau để triển
khai kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê duyệt từ trước. Các tranh
chấp nếu phát sinh cũng không thể hiện rõ bản chất của tranh chấp kinh
doanh, thương mại vốn được coi là tranh chấp phát sinh do xung đột lợi ích
của các bên và việc giải quyết tranh chấp cũng không xuất phát từ quyền lợi
thiết thực của các bên mà chủ yếu vì sự ổn định, hài hoà chung cho cả nền
kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế
thế giới với việc nước ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO năm 2007.
Từ đó, ngày càng xuất hiện nhiều hơn các chủ thể kinh doanh, bên cạnh
doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã, các loại hình công ty và hộ kinh doanh


9

cá thể. Các quan hệ kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức phong
phú và tính chất phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, Nhà nước phải tạo ra một môi
trường kinh doanh lành mạnh, để các quan hệ kinh tế được xây dựng và thực
hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình đẳng, cùng có lợi và tự chịu trách
nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trong giai đoạn này, kinh doanh
đúng pháp luật để đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu của các doanh nghiệp. Môi
trường đó phát sinh ngày càng nhiều các tranh chấp liên quan đến việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế, đồng

thời cũng đặt ra nhu cầu cần phải nghiên cứu, mở rộng nội hàm của khái niệm
tranh chấp kinh tế.
Luật Thương mại (2005) không đưa ra khái niệm về tranh chấp kinh
doanh, thương mại mà đưa ra khái niệm hoạt động thương mại là “nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Khoản 1 Điều
3). Theo đó, quan niệm về hoạt động thương mại cũng đã được mở rộng, bao
gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Với hướng tiếp cận này, Luật
Thương mại (2005) đã cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được
mở rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp
(2005) tại Khoản 2 Điều 4 nay là Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
(2014): “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự (2004) (BLTTDS) thì tranh chấp
kinh doanh, thương mại được hiểu là những tranh chấp trong hoạt động kinh
doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận.


10

Một cách khái quát, cũng có thể hiểu rằng, tranh chấp kinh doanh,
thương mại theo quy định của BLTTDS thực chất là tranh chấp kinh tế đã
được mở rộng nội hàm cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của tranh chấp kinh doanh, thương mại
được liệt kê tại Điều 29 BLTTDS thực chất là những tranh chấp thương mại
theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại (2005).
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: “Tranh chấp kinh doanh,
thương mại là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền và nghĩa vụ của

các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích kinh tế trong quá trình hoạt
động kinh doanh, thương mại”.
1.1.2. Các đặc điểm chung của tranh chấp kinh doanh, thương mại
Việc phân định tranh chấp kinh doanh, thương mại hay tranh chấp
thuộc các ngành luật khác như tranh chấp dân sự, tranh chấp trong quan hệ
quốc tế…phụ thuộc vào tính chất của mối quan hệ pháp luật; chủ thể của các
mối quan hệ đó cũng như lợi ích của mối quan hệ đó mạng lại. Tranh chấp
kinh doanh, thương mại có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về nội dung: Là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, thương mại như: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân
phối, đại diện, đại lý, ký gửi, thuê và cho thuê, thuê mua, xây dựng...
Thứ hai, về chủ thể: Các bên tranh chấp có đăng ký kinh doanh, chủ thể
trong tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu là các thương nhân. Trong
một số trường hợp chủ thể của tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể là
các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân. Ví dụ tranh chấp giữa công
ty và thành viên của công ty là tranh chấp giữa một bên chủ thể là thương
nhân (công ty) và một bên là cá nhân không phải là thương nhân (thành viên
công ty).


11

Thứ ba, về cách thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại: Do
các bên tranh chấp tự định đoạt – Điều này thể hiện ở các bên trong tranh
chấp có nhiều hơn một cách để giải quyết tranh chấp như: Hoà giải, thương
lượng, trọng tài, toà án. Việc chọn phương pháp giải quyết nào là quyền của
các bên nhưng vẫn trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau và lợi ích của Nhà
nước.
Thứ tư, về tính chất: Tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính tài
sản. Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp mang yếu tố vật chất

và thường có giá trị lớn. Các tranh chấp này đều chủ yếu liên quan đến những
lợi ích vật chất có ảnh hưởng lớn và liên quan trực tiếp đến lợi ích của các
bên. Mức độ tranh chấp thường gay gắt, tính chất phức tạp, do đó các tranh
chấp kinh doanh, thương mại nếu không được giải quyết thì không những để
lại hậu quả xấu cho các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến các chủ thể
khác, thậm chí ảnh hưởng đến nền kinh tế của đất nước.
1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại
Do sự đa dạng của các tranh chấp kinh doanh, thương mại và trước yêu
cầu của sự linh hoạt trong việc giải quyết tranh chấp này, các phương thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại rất phong phú và đa dạng. Hiện
nay, các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại thường
được áp dụng đó là:
1.1.3.1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò
của người thứ ba ngoài các bên tranh chấp. Đây là phương thức giải quyết
tranh chấp có đặc điểm cơ bản đó là các bên cùng nhau trình bày quan điểm,
tìm ra các biện pháp thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải quyết
các bất đồng. Thương lượng là biện pháp khá phổ biến và thích hợp cho việc


12

giải quyết các tranh chấp, với những ưu điểm như: Tính chất đơn giản, ít tốn
kém, không làm phương hại đến các quan hệ hợp tác vốn có của các bên, giữ
được bí mật kinh doanh lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý.
Phương pháp này đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực và hợp
tác; phải có những kiến thức cần thiết về pháp luật. Đối với các vụ việc phức
tạp, mỗi bên có thể chỉ định những chuyên gia có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm nghề nghiệp thay mặt mình để tiến hành thương lượng. Kết quả

của thương lượng thường là những cam kết, thoả thuận về những giải pháp cụ
thể nhằm tháo gỡ những bất đồng phát sinh trước đó.
Tuy nhiên, hình thức thương lượng có một số hạn chế như: Khó thực
hiện nếu các bên đã mâu thuẫn căng thẳng trong các vấn đề tranh chấp và
không có thiện chí với nhau. Giá trị pháp lý của biên bản thương lượng chưa
được quy định cụ thể và không có giá trị cưỡng chế thi hành.
1.1.3.2. Hoà giải
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cũng chấp nhận hay chỉ
định, đóng vai trò trung gian nhằm hỗ trợ các bên tìm kiếm những giải pháp
thích hợp cho việc giải quyết xung đột. Nếu hoà giải thành công sẽ đạt được
giải pháp là tự thoả thuận giữa các bên để giải quyết tranh chấp. So với hình
thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hoà giải có điểm khác là sự có
mặt của bên thứ ba với tư cách là người trung gian để giúp đỡ các bên tìm ra
giải pháp. Giống như thương lượng, hoà giải là một biện pháp mang tính
truyền thống không phải chỉ mới xuất hiện trong giai đoạn hiện nay mà được
hình thành từ rất lâu. Mặc dù hoà giải cũng là biện pháp mang tính hiệu quả
và được nhà kinh doanh ưa chuộng để giải quyết tranh chấp nhưng hạn chế là
quá trình hoà giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy
định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hoà giải. Kết quả


13

hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của
các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành
những cam kết của các bên trong quá trình hoà giải.
1.1.3.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng tài
Có thể thấy, đây là phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến và
được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là

một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường và ngày càng được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Thông qua hoạt
động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc
lập nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá
trị bắt buộc các bên phải thi hành.
Ưu điểm của phương thức này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động
cho các bên; tính nhanh chính, tiết kiệm được thời gian, có thể rút ngắn thủ
tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh
chấp theo nguyên tắc xét xử không công khai hoặc xử kín. Theo nguyên tắc
này các bên có thể giữ được bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của
mình. Giải quyết tranh chấp tại trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do
các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh
chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế
vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hoà giải.
Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo
trước bất kỳ một tổ chức hay toà án nào.
Tuy nhiên, phương thức giải quyết tranh chấp này vẫn có những hạn
chế nhất định như chi phí tương đối cao, đối với vụ việc càng kéo dài thì phí
trọng tài càng cao. Việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng
trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
1.3.1.4. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Toà án


14

Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án là hình thức
giải quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh
quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải chấp hành, bằng
sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Việc giải quyết tranh chấp của Toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các

quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, bên cạnh đó tuân thủ các
nguyên tắc xét xử cũng là một trong những điểm đặc thù của hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại để nhằm mục đích bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt
động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại phải tuân thủ những nguyên tắc đặc trưng riêng như: Nguyên tắc
đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự; Nguyên tắc hoà giải; Nguyên tắc
cung cấp chứng cứ và chứng minh; Nguyên tắc giải quyết nhanh chóng, kịp
thời; Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Bên cạnh
đó, còn một số nguyên tắc chung thể hiện tính dân chủ và pháp chế xã hội chủ
nghĩa như: Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ; Nguyên tắc xét xử
công khai; Nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng;
Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật…
Trong phạm vi luận văn, tác giả không trình bày toàn bộ các nguyên tắc
của tố tụng mà chỉ trình bày một số nguyên tắc mang tính đặc trưng chi phối
nhiều trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà
án.
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự:
Theo Điều 5 BLTTDS, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự được quy định: “1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện,
yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý
giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và


15

chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. “2. Trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các
yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái
pháp luật và đạo đức xã hội.”

Về nguyên tắc, các quan hệ kinh doanh, thương mại là những quan hệ
được xác lập một cách tự nguyện, xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các
bên mà không có bất cứ sự cưỡng ép, đe doạ nào trong quá trình xác lập, thực
hiện. Nói cách khác, sự xác lập các quan hệ kinh doanh, thương mại hoàn
toàn do các bên tự quyết định, và được Nhà nước bảo đảm nếu không trái với
các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Chính vì thế, khi phát sinh
tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Ngược lại, họ cũng có quyền từ bỏ quyền lợi của
mình đã bị xâm phạm cho dù đã có yêu cầu Nhà nước bảo vệ. Nhà nước
không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh đúng pháp luật, Nhà nước chỉ
tham gia giải quyết khi các đương sự có yêu cầu. Cơ quan tài phán không tự
đưa các tranh chấp kinh doanh, thương mại của các bên ra xét xử, mà phải có
đơn khởi kiện của một trong các bên tranh chấp.
Đương sự có quyền tự hoà giải ở Toà án, quyền rút đơn kiện, quyền
thay đổi nội dung đơn kiện, quyền tự do lựa chọn các phương thức giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nguyên tắc này được thể hiên trong suốt
các giai đoạn của quá trình tố tụng: Họ có thể khởi kiện hoặc không khởi
kiện; Trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của đương
sự không chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm mà còn
được thực hiện trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.


16

Quyền tự định đoạt còn được thể hiện các bên có thể uỷ quyền cho luật
sư hoặc người khác thay mặt mình mà không cần trực tiếp phải tham gia tố
tụng.

Thứ hai, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền: Để bảo đảm cho đương sự thực hiện được nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và Toà án
có đầy đủ chứng cứ để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn thì phải quy định
trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ
cho đương sự và Toà án. Vì vậy, điều 7 BLTTDS đã quy định rất rõ về
nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền. Hiện nay, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS có sửa
đổi, bổ sung Điều 7 BLTTDS như sau: “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và
đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà
mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm
sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng
cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn
bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ.” Sửa đổi, bổ sung như trên của Luật sửa
đổi, bổ sung BLTTDS chủ yếu là bổ sung chủ thể “Viện kiểm sát” để phù hợp
với việc sửa đổi, bổ sung nguyên tắc kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự.
Thứ ba, nguyên tắc hoà giải: Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng kinh tế
được quy định tại Điều 10 BLTTDS, theo đó: “Toà án có trách nhiệm tiến
hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.” Bản chất
của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự định đoạt


17

của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hoà giải là một

biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Hoà giải có ý nghĩa hết sức
quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết,
tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết
các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đồng thời, làm tốt hoà giải sẽ
hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian, công sức của Nhà nước mà
người đại diện là các cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế những
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS cũng quy định cụ thể việc
hoà giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi
chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên toà, trừ những vụ án không
được hoà giải như yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản Nhà nước, hoặc
những vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội
[9].
Việc hoà giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các vụ án kinh tế. Việc
hoà giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Xu hướng chung
của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ đúng sai giữa các doanh nghiệp;
chưa hoặc chưa biết quan tâm đúng mức đến vấn đề mà các đương sự hướng
tới là lợi nhuận (nhiều hay ít nhưng phải có lợi) đó là điều kiện tiên quyết để
đi tới xu hướng nhân nhượng hợp tác trong kinh doanh của các bên đương sự.
Toà án chỉ đưa ra vụ án xét xử khi hoà giải không thành.
Thứ tư, nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời: Nguyên tắc
này là cơ sở để bảo đảm khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm. Trong
BLTTDS quy định cụ thể thời hạn ở các giai đoạn tố tụng, như thời hạn thụ
lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử, thời hạn ra quyết
định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết theo trình tự giám


18

đốc thẩm, tái thẩm…Phần lớn Toà án các cấp đều phải giải quyết vụ việc
trong thời hạn luật định.

Để thực hiện được nguyên tắc này, bản thân Toà án phải được tổ chức
và hoạt động sao cho có hiệu quả, đặc biệt là trình độ của Thẩm phán được
nâng cao không chỉ trong lĩnh vực pháp luật nói chung mà còn cả trong lĩnh
vực kinh doanh, thương mại.
Thứ năm, nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng:
Đây là nguyên tắc quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử, BLTTDS ra đời
đã có những quy định rõ ràng về nguyên tắc này, tạo cơ chế phân định trách
nhiệm cá nhân Thẩm phán, Thư ký và những người tiến hành tố tụng khác.
Có thể nói rằng, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh,
thương mại đều có những đặc điểm và hạn chế nhất định, chỉ có các đương sự
và các luật sư của họ mới hiểu rõ họ cần đến hình thức giải quyết tranh chấp
nào trong những vụ việc cụ thể. Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh hiện nay ở các nước trên thế giới như Anh – Mỹ, Đức,
Pháp…[14] thì các hình thức như thương lượng, hoà giải, trọng tài chiếm ưu
thế, còn ở Việt Nam thì việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng con đường Toà án đóng vai trò quan trọng nhất, được các chủ thể tranh
chấp lựa chọn.
1.2. Cơ sở của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.2.1. Pháp luật tố tụng kinh doanh, thương mại (Bộ luật Tố tụng
Dân sự (2004))
BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình
tự, thủ tục khởi kiện, yêu cầu Toà án giải quyết các vụ án, tranh chấp về dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động; quy định trình tự thủ tục giải
quyết các vụ việc này tại Toà án; quyền hạn và trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, tổ


19

chức liên quan và nguyên tắc cơ bản về thi hành án nhằm bảo đảm cho việc

giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, công minh và đúng pháp
luật.
Trước đây, thủ tục tố tụng được phân chia thành nhiều thủ tục: tố tụng
dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động…trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994; Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động năm 1996, BLTTDS…Khi có sự ra đời của BLTTDS
(2004) đã thống nhất các thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế và tố tụng lao
động. Đó là một bước tiến lớn trong việc cải cách tư pháp, là sự phát triển phù
hợp thực tế cũng như thích hợp với hệ thống tổ chức Toà án của nước ta hiện
nay – không phân biệt các loại Toà án khác nhau. Việc đánh giá thực trạng
pháp luật tố tụng hiện hành nhằm nhìn nhận đúng thực trạng pháp luật đang
tồn tại với những ưu điểm đã được kiểm nghiệm qua quá trình áp dụng, trên
cơ sở đó khẳng định tính kế thừa và hợp lý của những chế định phù hợp, đồng
thời chỉ ra những khiếm khuyết cần bổ sung, sửa đổi để khắc phục trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự – cơ sở nền tảng cho
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
1.2.2. Pháp luật nội dung liên quan đến việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại
Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại bao gồm:
Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm…tạo
lập nên một hệ thống pháp luật bao gồm những nội dung khác nhau để điều
chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Trên cơ sở những quy định của pháp luật nội dung cụ thể này đối chiếu
với việc xác định được các tình tiết, sự kiện khách quan thuộc nội dung của
các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Hay một cách khác, pháp luật về giải


×