Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn huyện thanh oai, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.52 KB, 54 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ĐÔNG

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN
TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN, GIA ĐÌNH TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN YĂN



Nguyễn Thị Đông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH..........................................................................................7
1.1.

Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn
nhân

và gia đình ...................................................................................................................................7
1.2.

Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các tranh chấp

hôn nhân, gia đình.........................................................................................................................10
1.3........................................................................................................................................... Cơ
sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự......................12
1.4...........................................................................................................................................Kh
ái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong TTDS qua các thời kỳ.................17
1.5 Pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án Hôn
nhân gia đình ................................................................................................................................22

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN, GIA

ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.................36
2.1.

Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Thanh Oai và cơ cấu tổ chức của Tòa án

nhân dân huyện Thanh Oai...........................................................................................................36
2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm

của kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân, gia đình huyện Thanh Oai....................37
2.3.

Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong áp dụng các quy định pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn
nhân, gia

đình huyện Thanh Oai ..................................................................................................................49


2.4.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

của Kiểm sát viên trong TTDS cũng như trong các vụ án hôn nhân gia đình .............................52

KẾT LUẬN....................................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................65
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự
BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, xung quanh vấn đề vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và vị trí pháp lý
của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ án Hôn nhân

và gia đình nói riêng luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và những người làm công tác
thực tiễn. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đều có

quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc

giải quyết các vụ việc dân sự. Thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và kiểm
sát việc giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nói riêng của Viện kiểm sát cũng đạt được kết quả nhất định, góp
phần giải quyết các vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật; qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự.

Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng trong tố tụng dân sự nói chung cũng như trong quá
trình giải quyết vụ án hôn nhân gia đình nói riêng. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay đã trải qua hơn 60 năm. Bước sang thế
kỳ thứ XXI, tiến trình cải cách tổ chức và hoạt động của VKSND trong đó có Kiểm sát viên trong lĩnh vực dân sự
đã được tiến hành ngày càng sâu rộng.

Ngày 12/3/2014, Ban chấp hành trung ương đã ban hành kết luận số 92 - KL/TW của Bộ chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị khoá IX và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 và điều chỉnh một số nội dung về quan điểm và nhiệm vụ cải các tư pháp nêu trong Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ chính trị như sau: bổ sung nội dung “kiểm soát” vào quan điểm 2.1 của Nghị quyết số 49-NQ/TW
và viết lại “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhàn
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Về tổ chức Viện kiểm sát “ tiếp tục thực hiện chủ trương tổ
chức toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” [9].
Như vậy, kết luận trên đã chỉ rõ nhiều nội dung cụ thể về cải cách tư pháp đòi hỏi phải được thể chế hóa,
tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) nói chung cũng như vị trí,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nói riêng trong tố tụng dân sự.


1


Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 thì
Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự nhưng tại Điều 21 Bộ luật Tố
tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 hạn chế phạm vi tham gia phiên toà của VKS đối với vụ án dân sự.
So với BLTTDS 2004, sửa đổi 2011 thì BLTTDS năm 2015 quy định phạm vi VKS tham gia phiên tòa đã
mở rộng hơn: Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên toà sơ thẩm đối với
những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công
cộng...; Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Thực tiễn thi hành
BLTTDS năm 2015 cho thấy các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên còn có vướng
mắc, bất cập; chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án còn có mặt hạn chế, cần tiếp tục nghiên
cứu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật.
Từ những lý do nêu trên, Là một cán bộ đang công tác trong ngành kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân
huyện Thanh Oai), qua nghiên các quy định của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn tại địa phương, tác giả đã
lựa chọn đề tài: "Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hôn nhân và
gia đình từ thực tiễn huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội" để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Kiểm sát viên là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi hỏi
khách quan nêu trên, đã có nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo,
chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án... có liên quan đến nội dung, nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên cũng như VKSND trong tố tụng dân sự như: Luận án tiến sĩ ”Quá trình hình thành, phát
triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam", của tác giả Trần Văn Nam,
năm 2010; Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học "Sự

tham gia tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của tác giả Võ Thị Phượng, năm


2010," Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh,
Tạp chí Kiểm sát, số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008...

2


Có thể thấy có khá nhiều các công trình khoa học nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
và Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự mà hầu như không có công trình nào nghiên cứu về nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình hoặc có công trình, bài viết tuy có
trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiê n cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề
đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện BLTTDS năm 2015 đã đi vào cuộc sống
nhiều quy định mới, do đó tác giả đã lựa chọn đề tài này để tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình; đánh giá tính có căn cứ và khoa học về
thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ
đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự.
3.2. Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và
gia đình.
- Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình qua các
thời kỳ, đặc biệt là theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành từ đó xác định những hiệu quả, hạn chế
và nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình trong thời gian tới, góp phần bảo đảm cho việc giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức, xã hội và công dân.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

3


Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình theo yêu cầu cải cách tư pháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn
Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội; việc tổ chức thực hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình trên thực tế và những quy định của pháp luật có liên quan
đến các vấn đề nêu trên. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong
giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, thời điểm lấy số liệu
từ năm 2013 đến nay.
5. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mới tổ chức hoạt động của VKS trong
điều kiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị và những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học
Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật, chú
trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự nói chung và nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn
nhân và gia đình từ thực tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội nói riêng, từ đó góp phần tiếp tục đổi mới

nhiệm vụ, quyền hạn và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của VKSND trong tố tụng dân sự.
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Đảm bảo cho việc giải quyết
các vụ việc dân sự của Tòa án khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
4


- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm
công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học
pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát viên
khi giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình
Chương 2: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình từ thực
tiễn Huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
NHIỆM VỤ QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
^
1- t

T

. Ị

*

7




_ * A _ _

_

r

A

_ _ _



J

.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyên hạn của Kiêm sát viên trong giải quyêt các vụ án hôn nhân và gia
đình
Hiến pháp năm 2013, BLTTDS 2015, Luật Tổ chức VKSNDTC đã khẳng định Kiểm sát viên là người
tiến hành tố tụng trong VKSND, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự; tham
gia phiên toà xét xử vụ án dân sự (trong đó có các vụ án hôn nhân và gia đình), phiên họp giải quyết việc dân sự.
Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là nhằm bảo đảm cho các hành vi
xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
là việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm,
tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của

5



đương sự. Để có thể sử dụng được các biện pháp, quyền năng pháp lý quy định tro ng BLTTDS, Kiểm sát viên có
những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định.
Trong khoa học pháp lý, "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" ''thẩm quyền", là các khái niệm khác nhau. Thẩm
quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định [41, tr. 459]. Khái niệm "thẩm quyền'' bao hàm hai nội dung chính là quyền hành
động và quyền quyết định của cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được làm
những công việc nhất định, c òn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật
cho phép (thẩm quyền hành động); trong khi đó, “nghĩa vụ” là việc mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ
chức) phải thực hiện hoặc không được phép thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật.

Theo Đại Từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý thì "nhiệm vụ" được hiểu là "công việc phải làm,
gách vác" [45, tr. 1384]; Ngoài ra theo cách giải thích của tác giả Hoàng Phê trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Đà Nẵng năm 2006 thì "nhiệm vụ" là "công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định" [17].
Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải thực
hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được
pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định
nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của Kiểm sát viên là những hoạt động cụ thể của Kiểm sát viên
được Hiến pháp và pháp luật quy định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong một thời gian nhất định của
Kiểm sát viên.
Nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự nói chung và trong việc giải quyết các vụ án hôn nhân
gia đình nói riêng là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức
VKSND, BLTTDS, Pháp lệnh Kiểm sát viên và các văn bản pháp luật khác mà Kiểm sát viên phải thực hiện bằng
những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là:
- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Tòa án các cấp nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ
và kịp thời.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành
đúng pháp luật, kịp thời.


6


Như vậy, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình là những công việc cụ
thể do pháp luật quy định đối với kiểm sát viên trong các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng các vụ án
hôn nhân, gia đình (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử đến phiên tòa) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án và những người tham gia tố tụng.
Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho phép [45]. Dưới góc độ

pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt

động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật
[41, tr. 651].
Quyền hạn thông thường sẽ gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý, quyền
hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức đó. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong

phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối với quyền của chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật
dân sự phải xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên hoặc do pháp luật quy định.
Quyền hạn và nhiệm vụ là hai khái niệm khác nhau, song lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhiệm vụ
của Kiểm sát viên là việc phải thực hiện các chức năng tố tụng mà BLTTDS quy định, nếu không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nhiệm vụ thì tùy theo tính chất và mức độ giải quyết vụ việc dân sự sẽ không chính xác.
Tuy nhiên, khái niệm quyền hạn và nhiệm vụ đặt trong một điều kiện với một chủ thể xác định thì quyền hạn và
nhiệm vụ là tương đối thống nhất. Pháp luật quy định nhiệm vụ của Kiểm sát viên phải thực hiện những công việc
gì, đồng nghĩa là pháp luật trao cho Kiểm sát viên những quyền hạn để thực hiện nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ, quyền
hạn của Kiểm sát viên nói chung được quy định trong Luật tổ chức VKS và Pháp lệnh Kiểm sát viên. Còn trong
tố tụng dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định cụ thể trong BLTTDS và các văn bản pháp
luật tố tụng dân sự có liên quan.
Như vậy, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết các vụ án hôn

nhân gia đình nói riêng là quyền quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng (từ khi Tòa án thụ lý, chuẩn bị xét xử
đến phiên tòa giải quyết vụ án hôn nhân gia đình) nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những
người tham gia tố tụng.

7


1.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giải quyết các tranh chấp hôn nhân,
gia đình
Thứ nhất, nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên do pháp luật quy định, Kiểm sát viên không thực hiện
những hoạt động ngoài nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Đây chính là nội dung trong nguyên tuân thủ
pháp luật trong TTDS (Điều 3 BLTTDS 2015) - nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước, của tổ chức xã hội, của những người có chức vụ, quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên tắc
hiến định được hiểu là việc thường xuyên, nhất quán tuân thủ và chấp hành các quy định của Hiến pháp, của các
đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác của tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, của
những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân.
Để đảm bảo việc kiểm sát các vụ án hôn nhân gia đình khách quan, công bằng, đúng pháp luật thì trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Kiểm sát viên phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là vấn đề có ý
nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự nên việc chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp
luật quy định.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động giải quyết vụ án hôn nhân, gia
đình của Tòa án nhân dân (TAND), Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát thông báo, quyết định và các
văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản có
liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản trên của Tòa
án có đúng quy định của BLTTDS hay không...
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án và những người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình, góp
phần bảo đảm tính đúng đắn, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án. Là người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự, Kiểm sát viên có những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị)
với vị trí pháp lý hoàn toàn khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng dân sự.
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp kiểm sát viên đại diện cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
VKSND được pháp luật tố tụng dân sự quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tham
gia tố tụng. Vấn đề này được thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến hành là kiểm sát viên. Trong tố

8


tụng dân sự, VKS là chủ thể đặc biệt. Khi thực hiện chức năng giám sát hoạt động giải quyết vụ việc dân sự tại
phiên tòa, phiên họp trong phạm vi quyền hạn của mình, kiểm sát viên phải tiến hành theo trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định.
Thứ ba, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được thực hiện thông qua chính hoạt động của Viện
trưởng VKS (trong một số vụ án, Viện trưởng VKS cũng tham gia với tư cách là Kiểm sát viên). Đứng đầu VKS
là Viện trưởng VKS. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Viện trưởng VKS có nhiều nhiệm vụ, quyền
hạn như: tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự;
quyết định phân công kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia
phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này; kiểm tra hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của kiểm sát viên; quyết định thay đổi kiểm sát viên; kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này;
giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định. Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng tham gia bảo
đảm tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS. Trong tố tụng dân sự,
kiểm sát viên khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự có
nhiệm vụ, quyền hạn như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc
dân sự của Tòa án. Đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự tân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thủ tục, cũng
như nội dung; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng như: nguyên đơn, bị đơn, ngườ
i làm chứng, người phiên dịch...
1.3. Cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự, để xác định được nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên cần dựa vào những yếu tố
như: vị trí, vai trò của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát; tính chất của vụ việc dân sự; việc thực quyền tự định đoạt
của đương sự và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự; thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án.

1.3.1.
Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) kiểm sát
hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự quy đinh về sự tham gia của Viện kiểm sát trong

9


các vụ án dân sự tại phiên Tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Sự tham gia của Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm thực thi đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc
giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật được quy định tại Điều 4 và Điều 27 của Luật tổ chứ c Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014. Theo quy định của pháp luật hiện hành, VKSND không thực hành quyền công tố, không khởi tố
vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện bất kỳ một giai đoạn tố tụng dân sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án, lập
hồ sơ vụ án, thu thập chứng cứ, hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, trưng cầu
giám định...), mà chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể hiện rõ được cơ chế phân công, phối
hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 giữa TAND và VKSND.
Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về vị trí, vai trò của viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự như sau: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật,Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc
dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này,Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên
họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành Điều này.Cụ thể, vai trò của viện kiểm sát nhân dân được quy định trong Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 bao gồm:Việc tham gia phiên tòa, phiên họp: Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với

các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng
tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi;Việc phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa, phiên họp sơ thẩm: Sau khi
những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân
theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá

10


trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án. (Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
1.3.2. Việc thực quyền tự định đoạt của đương sự và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự
ảnh hưởng đến quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
Khác với pháp luật tố tụng hình sự giải quyết quan hệ giữa một bên là Nhà nước, đại diện cho lợi ích
công và một bên là người phạm tội do đó, trong đó, VKS với vai trò đại diện Nhà nước ra cáo trạng buộc tội đối
với bị cáo. Pháp luật tố tụng dân sự giải quyết những tranh chấp các lợi ích tư giữa các đương sự. Mục đích trực
tiếp của pháp luật tố tụng dân sự là bảo vệ lợi ích tư của các đương sự nên một trong những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật tố tụng dân sự là trao quyền tự quyết cho đương sự - chủ thể của các lợi ích. Các chủ thể tiến hành tố

tụng chỉ thực hiện các nhiệm vụ làm sáng tỏ vụ việc để giải quyết trên cơ sở pháp luật chứ không thay mặt cho
đương sự quyết định những lợi ích của chính họ. Do đó, trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự
luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc tham gia tố tụng của Kiểm sát viên nhằm bảo đảm việc giải quyết
vụ việc dân sự của Tòa án được chính xác, khách quan, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
nhưng không được hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự. Mọi cá nhân có quyền tự mình lựa chọn những
phương thức giải quyết tranh chấp dân sự miễn sao không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những biện pháp giải
quyết tranh chấp thay thế như hòa giải, thương lượng, trọng tài đều được khuyến khích. Trong trường hợp không
thỏa mãn với những giải pháp đó, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong suốt quá trình tố tụng kể từ khi khởi kiện đến trước khi kết

thúc phiên tòa, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền
tranh tụng, việc thực hiện nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ nhất định. Đó là trường hợp đương sự không
được thay đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu đó diễn ra tại phiên tòa mà vượt quá phạm vi
khởi kiện ban đầu.
Trong tố tụng dân sự, do quan hệ pháp luật dân sự đa dạng về nội dung, hình thức và chủ thể tham gia.

Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng những nội dung đã cam kết
và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi một trong các bên không tuân thủ các quy định pháp luật hoặc không
tuân thủ thỏa thuận đã cam kết, xâm phạm đến lợi ích của bên kia thì bên bị vi phạm có quyền tự bảo vệ hoặc yêu
cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ. Do đó, khi xây dựng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của

11


Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự như quyền kháng nghị, kiến nghị... phải xem xét đến quyền tự định đoạt của
đương sự.
1.3.3. Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án
Số lượng các vụ việc dân sự (trong đó có các vụ án hôn nhân và gia đình) mà ngành Tòa án thụ lý giải
quyết ngày càng tăng (trong 3 năm 20132016, số vụ việc dân sự mà toàn ngành thụ lý tăng từ 118.582 vụ việc lên
163.365 vụ việc [33]), tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa vẫn còn nhiều (năm 2013 đối với các vụ việc dân
sự: Tòa án cấp phúc thẩm sửa 2.164 vụ án do cấp sơ thẩm sai; 864 vụ án do có tình tiết mới; hủy 1.424 vụ án do
cấp sơ thẩm sai, 226 vụ án do có tình tiết mới; ở giai đoạn giám đốc thẩm đã hủy 805 bản án, quyết định của Tòa
án cấp dưới [33]. Điều đó cho thấy sai lầm trong việc giải quyết các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó,
không loại trừ khả năng còn có những bản án, quyết định của Tòa án có sai sót nhưng không bị phát hiện ra. Do
đó, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát bản án, quyết định của Tòa án một cách có hiệu quả. Trong khi đó
hiệu quả giám sát từ phía các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội còn hạn chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người
dân chưa cao (đặc biệt là một bộ phận người dân như người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất,
tâm thần... luôn bị thua thiệt khi tham gia tố tụng) nên sự tham gia vào quá trình tố tụng dân sự của VKS vẫn cần
thiết trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa, về nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là thuộc về các
đương sự nhưng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều


khó khăn để tự chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án thì họ phải yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
Do đó, để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử, Kiểm sát viên cần tham gia phiên tòa để kiểm sát chặt
chẽ hoạt động xét xử của Tòa án.
1.4. Khái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong TTDS qua các thời kỳ
1.4.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1959
Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám, để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, Nhà nước
VNDCCH đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Pháp luật trong giai đoạn này quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của công tố viên (kiểm sát viên ngày nay)
và công tố viện (Viện kiểm sát ngày nay) trong tố tụng dân sự như sau:
Cuộc cải cách tư pháp ở nước ta lần thứ nhất: Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa và các ngạch
thẩm phán theo quy định thẩm phán được chia thành hai ngạch: sơ cấp và nhị cấp (trong đó, Thẩm phán ở ngạch

12


đệ nhị cấp được chia thành hai loại: thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội). Viện kiểm sát (Công tố viện) lúc đó
được ra đời ở Tòa thượng thẩm và chịu sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Cơ quan công tố không được
thành lập ở tòa đệ nhị mà chỉ có cán bộ làm công tác biện lý. Trong giai đoạn này, Thẩm phán buộc tội đã hợp
thành một bộ phận độc lập và chịu sự lãnh đạo của Chưởng lý. Khi tham gia phiên tòa, "Biện lý ngồi ghế Công tố
viên". Sắc lệnh số 7/SL ngày 15/01/1946 còn quy định: "Đứng buộc tội, tùy quyết nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chưởng lý Tòa thượng thẩm chỉ định". Theo quy định của Sắc lệnh số 51/SL
ngày 17/4/1946 thì Công tố viện tham gia tố tụng dân sự dưới hình thức, đó là tham gia tố tụng đối với những vụ
án dân sự với tư cách là người thi hành quyền công tố (Điều 22 Sắc lệnh) và khởi tố vụ án dân sự (đứng là Chánh
tố - Điều 41 Sắc lệnh). Như vậy, công tố viện bước đầu được hình thành và nằm trong hệ thống của cơ quan Tòa
án với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước.
Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ hai: bắt đầu vào năm 1950, Công tố viện được đặt dưới sự điều khiển
của Ủy ban kháng chiến hành chính. Trong giai đoạn này, Công tố viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp;
cũng từ đây, các đường lối phạm vi hoạt động, sự tham gia tố tụng của Công tố viện được mở rộng sang các vụ
việc dân sự.

Công cuộc cải cách tư pháp lần thứ ba: diễn ra vào năm 1958, đây là giai đoạn giao thời, quyết định cho
việc chuyển Công tố viện thành VKSND, một hình thức hoàn thiện hơn, đáp ứng như cầu mới của cách mạng
trong những năm tiếp theo. Trong tố tụng dân sự, theo Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958 của Bộ Tư pháp về
việc đơn giản một số thủ tục ở phiên tòa quy định rõ hơn về quyền khởi tố và tham gia tố tụng của Công tố viện
có hướng dẫn như sau: "... về việc dân sự, Công tố viện có nhiệm vụ khởi tố và tham gia tố tụng đối với những vụ
án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích Nhà nước của nhân dân. Còn đối với những vụ án dân sự thường thì
Công tố viện không cần phải tham dự phiên tòa".
1.4.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1988
Hiến pháp 1959 ra đời, Công tố viện chính thức được chuyển thành VKSND, Công tố viên cũng chính
thức được thay thế bằng Kiểm sát viên. Do đây là Luật Tổ chức VKSND đầu tiên của nước VNDCCH nên hầu
như chưa có sự tách biệt giữa nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên với nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương và không phụ
thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa phương. Ngoài chức năng công tố, VKSND còn được

13


giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ các Bộ trở xuống; trong đó có cả hệ thống các TAND. Quyền
hạn và nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự được quy định cụ thể tại các Điều 17, 18 và 19
Luật tổ chức VKSND năm 1960. Theo quy định tại các điều trên thì VKSNDTC và các VKSND địa phương có
quyền:
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước
và của nhân dân;
- Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và cấp dưới một cấp;
- Kiểm sát việc chấp hành các bản án và các quyết định của TAND.
Khi VKSNDTC thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND các cấp là sai
lầm thì có quyền kháng nghị. Khi VKSND địa phương thấy các bản án hoặc các quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của TAND cấp mình hoặc cấp dưới là sai lầm thì báo cáo lên VKSNDTC để kháng nghị. Tiếp đến, ngày
13/7/1981, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức VKSND, trong đó tại Điều 3 và Điều 13 có quy định cụ thể các
hình thức tham gia kiểm sát xét xử của Tòa án như tham gia tố tụng tại phiên tòa; kháng nghị các bản án quyết

định của Tòa án và khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân cùng cấp
khởi tố những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng
của nhân dân.
Nhìn chung, cho đến năm 1989 trở về trước nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên và VKSND trong
tố tụng dân sự không được quy định trong các văn bản pháp luật nào khác ngoài Luật tổ chức VKSND.
1.4.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến trước năm 2004
Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và hai đạo Luật tổ chức VKSND (1981, 1992) ra đời tiếp tục kế thừa và
quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên cũng như của VKSND đáp ứng nhu cầu thay đổi của xã
hội đặc biệt là quá trình cải cách tư pháp trong giai đoạn toàn Đảng toàn dân bước vào xây dựng nền kink tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là thời kỳ đổi mới,
trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, là sự ra đời của Pháp lệnh trình tự giải quyết các vụ án dân sự
(1989), pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kink tế (1994), pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động
(1996)...

14


So với Luật Tổ chức VKSND 1960 trước đây thì tại Luật Tổ chức VKSND 1981 và nhất là Luật Tổ chức
VKSND 1992, vị trí vai trò, nhiệm vụ của Kiểm sát viên đã có sự thay đổi nhưng vẫn chưa rõ nét và rạch ròi như
hiện nay. Điều 7 Luật Tổ chức VKSND 1992 quy định: ” Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc
hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội; Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
địa phương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện
kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, tỉnh và khu vực, điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Kiểm sát viên làm nhiệm vụ do Viện
trưởng cấp mình phân công theo Quy chế kiểm sát viên.”
Chỉ đến khi Luật tổ chức VKSND 2002 ra đời thì vai trò, nhiệm vụ của Kiểm sát viên mới có sự tách bạch

rõ ràng. Vị trí vai trò; nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định tại Khoản 1 Điều 45 Luật tổ chức
VKSND 2002 và Pháp lệnh về Kiểm sát viên VKSND 2002. Cụ thể, tại các Điều 12, 13, 14 Pháp lệnh về Kiểm
sát viên VKSND 2002 quy định: ” Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tư pháp thuộc thẩm quyền Viện kiểm sát cấp mình theo phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm
trước Viện trưởng. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp do pháp luật quy định. Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái
pháp luật; nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành, nhưng Viện trưởng phải chịu trách
nhiệm về quyết định của mình; trong trường hợp này Kiểm sát viên có quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên
trực tiếp và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó; Kiểm sát viên phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định; Trong phạm vi công tác
được giao, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu theo quy định của pháp luật, trừ
những việc thuộc thẩm quyền của Viện trưởng.”

15


1.4.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định tại các văn bản pháp luật
quan trọng như: Bộ luật TTDS 2004, sửa đổi, bổ sung 2011; Bộ luật TTDS 2015 hiện hành; Luật Tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân 2014; Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND 2002; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND được ban hành ngày 19/02/2011...
Có thể thấy, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự nói chung và trong kiểm sát các vụ án
hôn nhân gia đình nói riêng đã được quy định rất đầy đủ, chi tiết trong các văn bản pháp luật tố tụng hiện hành.
Đơn cử Điều 27 Luật Tổ chức VKSND quy định như sau: ” 1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc.
3. Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định.
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án,
vụ việc theo quy định của pháp luật.

5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
6. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
7. Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.
8. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.”
1.5 Pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình
Pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên khi giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình được
quy định trong Hiến pháp 2013, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014
Theo Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm
sát viên khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình: “(4). Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật. (6) Kiểm sát
hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm

16


minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; (8). Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật”.
Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, khi được Viện trưởng Viện kiểm sát phân công
thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
“1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự.
3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự theo quy định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của Bộ
luật này.
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc theo quy

định của Bộ luật này.
5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này.
7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật.
8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo quy định của
Bộ luật này.”
Điều 4 Quy chế kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự cũng nêu rõ khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, Hôn nhân và gia đình, Kinh doanh thương mại, Viện kiểm sát có các
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
- Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự;

17


- Kiểm sát việc Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ; yêu cầu Tòa án xác minh thu thập tài liệu,
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm
cho việc thực hiện quyền kháng nghị;
- Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Tòa án;
- Kiểm sát kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải;
- Nghiên cứu hồ sơ vụ việc;
-Tham gia phiên tòa, phiên họp; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký
phiên tòa, phiên họp, người tham gia tố tụng tại phiên tòa, phiên họp; phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
giải quyết vụ việc tại phiên tòa, phiên họp;
- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án;
- Yêu cầu Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét, quyết định việc kháng

nghị;
- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy
định của pháp luật;

- Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoãn thi hành bản án, quyết định của Tòa án để xem xét kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án khi thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;

- Tiếp nhận, giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt;
- Kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo thủ tục đặc biệt;
- Kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của
pháp luật; kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; yêu cầu, kiến nghị cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kiến nghị cơ
quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong quản lý nhà
nước và thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị khác theo quy định của pháp luật;

18


-Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, có thể chia nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong kiểm sát giải quyết vụ án Hôn nhân gia
đình thành các hoạt động sau:
1.5.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
Khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
“Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản
nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại,

kiến nghị khi có yêu cầu.”
Khoản 1, Điều 194 quy đinh:
“1. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền
khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
...3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét,
giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện
Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành
phiên họp.
.5. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện của Thẩm phán, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án
Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết...”
Có thể thấy, các quy định trên đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát và Kiểm sát
viên. Trên cơ sở quy định của pháp luật, quy chế nghiệp vụ của ngành kiểm sát, nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động kiểm sát trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
1.5.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc thụ lý vụ án
Hoạt động đầu tiên của VKS trong giai đoạn này là hoạt động kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự của
TAND. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự là kiểm sát đối với hoạt động tố tụng dân sự đầu tiên của Tòa án. Nhiệm vụ

19


của VKSND trong hoạt động này là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thụ lý vụ việc dân sự của
Tòa án, bảo đảm việc thụ lý được thực hiện theo các quy định của pháp luật.
Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của VKS có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu làm tốt công tác kiểm sát ngay từ
khi thụ lý vụ việc dân sự sẽ có nhiều tác dụng như: góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết vụ việc của
Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo quan hệ tích cực chặt chẽ giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự; tạo sự chủ động và là tiền đề cho kiểm sát viên nhanh chóng nắm bắt nội dung, vấn đề cơ bản của
vụ việc dân sự; đồng thời chủ động phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các sai lầm có thể xảy ra
ngay từ thời điểm bắt đầu các hoạt động tố tụng dân sự. Vì vậy, việc phát hiện kịp thời việc thụ lý vụ việc sai còn
tránh được tình trạng phải tiến hành các thủ tục tố tụng kéo dài, không cần thiết; tiết kiệm được thời gian, tiền

của, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
Để VKS có thể thực hiện hoạt động kiểm sát thụ lý, Điều 196 BLTTDS 2015 quy định: "Trong thời hạn 3

ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án" [30].
Theo quy định này, mọi trường hợp thụ lý vụ việc dân sự đều phải thông báo cho VKSND cùng cấp. Khi nhận
được thông báo thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án, VKS vào sổ theo dõi, kiểm tra văn bản thông báo thụ lý vụ việc
dân sự của Tòa án về hình thức và nội dung có đúng quy định không? VKS sẽ nắm số lượng vụ việc được Tòa án
thụ lý, sau đó tùy thuộc vào nội dung thông báo thụ lý mà VKS có thể xem xét việc thụ lý ở các khía cạnh thẩm
quyền, thời hạn để xác định việc thụ lý có vi phạm pháp luật hay không. Hoạt động kiểm sát việc thụ lý sẽ có
thuận lợi hơn trước đây. Điều này thể hiện ở chỗ VKS không phải chủ động sang Tòa án để nắm số liệu mà chỉ
tiếp nhận thông báo thụ lý để theo dõi quá trình giải quyết vụ việc, theo đó thực hiện việc kiến nghị hoặc kháng
nghị khi có vi phạm.
Trong giai đoạn này, công tác kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự gồm hai nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, kiểm sát việc xác định thẩm quyền của Tòa án sau khi nhận đơn khởi kiện để góp phần phát

hiện và khắc phục kịp thời tình trạng Tòa án xác định không đúng thẩm quyền dẫn đến việc thụ lý sai hoặc từ chối
việc thụ lý dù đúng thẩm quyền, dẫn đến tình trạng đùn đẩy việc thụ lý vụ án dân sự giữa các Tòa án.
Thứ hai, kiểm sát việc tiến hành các thủ tục thụ lý theo đúng quy định của BLTTDS. Như vậy hoạt động
thụ lý của VKSND có ý nghĩa rất quan trọng, nếu làm tốt công tác kiểm sát ngay từ khi thụ lý vụ việc dân sự có

20


nhiều tác dụng như: góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết vụ việc của Tòa án được chính xác ngay từ
đầu; tạo quan hệ tích cực chặt chẽ giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; đồng thời chủ
động phòng ngừa, góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết vụ việc của Tòa án được chính xác ngay từ
đầu; tạo quan hệ tích cực chặt chẽ giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; đồng thời chủ
động phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các sai lầm có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các
hoạt động tố tụng dân sự. Do đó, việc phát hiện kịp thời việc thụ lý vụ việc sai còn tránh được tình trạng phải tiến

hành các thủ tục tố tụng kéo dài, không cần thiết.
1.5.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án hôn nhân
và gia đình
Trong giai đoạn này, VKSND tiến hành kiểm sát các hoạt động tố tụng của Tòa án trên cơ sở các tài liệu
tập hợp trong hồ sơ này bao gồm các biên bản
hoạt động của Tòa án, các chứng cứ của vụ việc đã được thu thập và các tài liệu có liên quan khác.
Với nội dung lập hồ sơ và vai trò của Tòa án trong việc lập hồ sơ như quy định trên thì mục đích của việc
kiểm sát lập hồ sơ của VKS để đảm bảo việc xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án được đầy đủ, chính xác,
khách quan và làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án dân sự. Tuy nhiên, VKSND không chỉ thực hiện
kiểm sát việc thụ lý hoặc lập hồ sơ vụ việc dân sự không chỉ được thực hiện ở thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm mà còn
tiếp tục kiểm sát việc lập hồ sơ của Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm khi vụ án bị kháng cáo, kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm. Bởi lẽ, không thể nói rằng khi kiểm sát xét xử giám đốc thẩm hay tái thẩm, VKSND không có
trách nhiệm xem xét và phát hiện các vi phạm trong việc lập hồ sơ vụ án nhất là trong trường hợp VKS không

tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Thực tế đã có những vụ việc dân sự khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
mới phát hiện thụ lý không đúng thẩm quyền loại việc, phải hủy án để đình chỉ giải quyết, chuyển cho cơ quan có
thẩm quyền giải quyết.
Tòa án gửi hồ sơ cho VKS theo quy định tại Điều 2 Thông tư số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 01/8/2012 của VKSNDTC, TANDTC. Khi nhận được hồ sơ vụ việc do Tòa án chuyển đến, kiểm sát viên
được phân công nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn luật định. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phải trực tiếp nghiên
cứu hồ sơ để nắm đầy đủ nội dung vụ việc, các quy định pháp luật có liên quan và phải tuân thủ trình tự sau:

21


×