Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Ảnh hưởng của phật giáo tới du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
BỘ MÔN DU LỊCH
---------------------------------

TIỂU LUẬN
Học phần: Các tôn giáo trên thế giới
Tên bài tiểu luận: Giá trị của Phật giáo trong phát triển du lịch

Giảng viên: Nguyễn Đức Khoa
Sinh viên: Vũ Thị Hồng Minh
Mã sinh viên: A29545
Lớp: Các tôn giáo trên thế giới 1
Nhóm: 3

HÀ NỘI, tháng 6 năm 2018
1


MỤC LỤC
PHẦN 1: CÁC GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO.........................................................3
1.1 : Tổng quan về Phật giáo............................................................................3
1.1.1

: Lịch sử hình thành...........................................................................3

1.1.2

: Nội dung cơ bản...............................................................................7

1.2 Giá trị..........................................................................................................11
1.2.1



Triết lý................................................................................................11

1.2.2

Kiến trúc, nghệ thuật........................................................................21

1.2.3

Tâm Linh...........................................................................................25

PHẦN 2 PHẬT GIÁO VỚI PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH..............26
2.1 Thị trường khách.........................................................................................26
2.2 Sản phẩm du lịch..........................................................................................30
2.2.1: Tài nguyên du lịch................................................................................30
2.2.2: Các hoạt động du lịch...........................................................................40
2.3: Dịch vụ du lịch............................................................................................42
2.3.1: Các dạng dịch vụ..................................................................................42
2.3.2 Trình độ thái độ của người phục vụ.....................................................43
PHẦN 3 KẾT LUẬN..............................................................................................46

2


PHẦN 1: CÁC GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO

1.1 : Tổng quan về Phật giáo
1.1.1 : Lịch sử hình thành
Thời gian và nơi bắt nguồn
Đạo Phật ra ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ VI đến thế kỷ V trước công nguyên

Điều kiện lịch sử - xã hội của sự hưng khởi Đạo Phật.
Thời đại mà Đạo Phật ra đời chính là thời kỳ phát triển rầm rộ của phong
trào triết học tôn giáo ở Ấn Độ và trên toàn thế giới. Ở Ba Tư, Zoroastre đã sáng
lập ra Đạo Zoroastre, ở Trung Quốc đã xuất hiện cục diện trăm nhà tranh tiếng thời
Xuân Thu, ở Hy Lạp phái ngụy biện đang triển khai hoạt động với quy mô lớn.
Những hoạt động này tuy phát triển song song, nhưng cũng có thể tìm ra sự liên hệ
ít nhiều giữa chúng.
Vào khoảng 2000 năm TCN, người Aryan từ Trung á vượt qua dãy núi
Hindu Cuso và cao nguyên Pamia tràn vào vùng Pungiap (Ngũ Hà), thượng lưu
sông Ấn. Khoảng 1000 đến 600 năm TCN, người Aryan lại từ sông Ấn di chuyển
về hướng đông sông Hằng, sông Chomuna. Lưu vực sông Hằng từ đây đã trở thành
trung tâm chính trị, kinh tế và hoạt động xã hội của Ấn Độ. Lúc này sức sản xuất
của vùng Tây Bắc Ấn Độ và Trung Ấn Độ đã tương đối phổ biến đồ sắt, nông
nghiệp chiếm địa vị chủ đạo, thủ công đã tách ra từ nông nghiệp, sự phân công lao
động ngày càng cao. Thời kỳ dầu, trong Kinh Phật có nêu là có thợ gốm, thợ vàng,
thợ thủ công luyện kim loại, v.v… và họ đã tổ chức ra 10 hàng hội ở thành Vương
Xá. Ngoài ra, thương nghiệp lúc đó, các nhà buôn đã có đội buôn vận chuyển bằng
đường bộ và đường thủy tương đối quy mô. Truyền thuyết nói trên một đường phố
3


lớn mà Phật Đà đang trầm tư suy nghĩ đã có 500 chiếc xa lớn đi qua. Quá trình lưu
thông hàng hóa đã sử dụng phổ biến tiền bằng kim loại, ngay đến giá một con chuột
cũng dùng tiền tệ đê tính toán. Những loại tiền này do thương nhân phát hành có
ghi dấu hiệu trên đó. Hoạt động thương mại ở Đông Bắc Ấn Độ đã vượt Mianma, ở
Tây Bắc đã vượt các nước Ba Tư, A rập. Theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa,
hàng loạt các thành phó, thị trấn bắt đầu mọc lên; nhà nước theo chế độ nô lệ thống
nhất đầu tiên đã được thành lập, lấy thành phố, thị trấn làm trung tâm. Căn cú theo
ghi chép của kinh điển Đạo Phật và Đạo Giaina, vào thế kỷ VI TCN, từ lưu vực
Cabun đến bờ sông Cotaoali đã tồn tại 16 quốc gia, trong đó có bốn nước có chính

trị, văn hóa tương đối phát triển là Magadha, Câu Tát La, A Bàn Đề và Bạt Kỳ.
Trong số đó có quốc gia theo chính thể quân chủ, có quốc gia dưới ách thống trị
quả đầu quý tộc với hình thức cộng hòa, ngoài ra có một số vùng còn rơi rớt các tổ
chức bộ lạc hoặc bộ tộc, trong đó quan trọng có Ma La và Lê Xa Tì…
Chế đọ đẳng cấp xã hội của Ấn Độ trước khi Đạo Phật ra đời là chế độ dòng
họ đã được xác lập lúc đó, đẳng cấp hoặc còn gọi là “varna” có bốn loại:
(1) Bà la môn tức tế tư, là người chỉ đạo đời sống tinh thần, có đặc quyền xã
hội và chính trị, được tôn là “Thần của nhân gian”
(2) Sát đế lợi (Sattria) tức võ sĩ, quý tộc, người chấp hành quyền lực thế tục,
được coi là người bảo hộ của nhân dân
(3) Phê xá (Vaisia) bao gồm nông dân, thợ thủ công và thương nhân, là
những người sản xuất và lưu thông của xã hội, nhưng phải gánh vác nghĩa vụ nộp
thuế
(4) Thủ đà là (Sudra), tức là nô lệ, không phải tộc người Aryan, là người
phục vụ cho ba đẳng cấp trên.
4


Varna trong các phương diện như địa vị xã hội, quyền lợi, nghĩa vụ và
phương thức sống đều có những quy phậm khác nhau. Trong thời kỳ Đạo Phật
hưng khởi, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, đã xuất hiện nhà nước nô lệ,
chế độ đẳng cấp trên cũng đã có những biến đổi tương ứng. Bà la môn đã không chỉ
là một tập đoàn quý tộc tế tư giữ chức nghiệp cúng bái tế lễ đơn thuần, một bộ phận
trong số họ đã không chỉ dựa vào cái gọi là “bố thí” mà là dựa vào bóc lột nô lệ để
duy trì cuộc sống. Sát đế lợi là kẻ thống trị của nhà nước chuyên chế mới hưng
thịnh lúc đó, trong số họ đã tuyển chọn ra La Đô (Vua). Trong việc xây d và quản l
ý nhà nước, Sát đế lợi đã cố gắng tăng cường quyền lợi của mình và mở rộng đối
tượng bóc lột, do đó, về phương diện kinh tế và chính trị đã mâu thuẫn với Bà la
môn. Họ không thừa nhận sự thống trị tối cao của Bà la môn nữa, nhưng Bà la môn
và Sát đế lợi đều thuộc giai cập thống trị chủ nô, lợi ích của họ cũng có những mặt

cơ bản nhất trí, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh với quảng đại quần chúng bị bóc
lột, Sát đế lợi không thể không xây dựng liên minh chính trị - tinh thần với Bà la
môn. Phệ xá là đẳng cấp bị phân hóa vô cùng lợi hại lúc đó, trong đó có một bộ
phận nhỏ đã trở thành Xá địa (Phú thương) hoặc Già càp bạc đế (nông dân tự do)
giàu có, vương lên hàng ngũ giai cấp thống trị. Phật điển thời kỳ đầu thường nói tới
nhưng thương nhân giàu có trong thành phố - Xá địa. Họ năm giữ các hàng hội,
quản lý mậu dịch và công nghiệp, có tài sản cực lỳ lớn, được quốc vương và Sát đế
lợi tôn kính. Phật điển cũng đề cập tới tình hình giàu có của Già cáp bạc đế nổi
tiếng đã từng chu cấp lương thực cho quân đội nhà vua; ngoài ra, ông còn cùng với
vài thí chủ tổ chức 1250 kẻ chăn nuôi phục vụ cho Phật và tăng đoàn. Nhưng đại đa
số người trong đẳng cấp này vẫn là nông nô, tá điền và những thợ thủ công nghèo
khó ở thành thị. Sudra là giai cấp bị bóc lột và áp bức, bị tước đoạt tất thảy những
quyền lợi trong đời sống xã hội tôn giáo, chủ nô lệ có thể tùy ý áp bức bóc lột và nà
dịch họ. Ngoài ra, ở ngoài các đẳng cấp trên còn tồn tại những tiện dân, đại bộ phận
5


họ là nhng thổ dân bị người Aryan chinh phục, chủ yếu lấy việc săn bắt muông thú
để sống, văn hóa tương đối lạc hậu.
Đạo Phật ra đời trong điều kiện lịch sử xã hội như vậy, nó là sự phản ánh quá
trình tiến hóa của xã hội lúc đó.
Cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni
Người sáng lập ra Đạo Phật tương truyền là Siddhartha Gautama. Đối với
cuộc đời và lịch sử của ông vẫn là một vấn đề mà giới học thuật không ngớt tranh
luận. Có nhiều ý kiến cho rằng ông chỉ là nhân vật hư cấu, có ý kiến khác lại cho
rằng ông là một nhân vật có thật trong lịch sử
Thích Ca Mâu Ni vốn tên là Siddhartha (Người thành tựu), mẹ họ Gautama
(Cù Đàm) tộc người Thích Ca. Thích Ca Mâu Ni là tên gọi sau khi thành đạo, có
nghĩa là “ông thánh của tộc Thích Ca”. Thích Ca Mâu Ni còn thường được gọi tắt
là Phật, có nghĩa là “Người giác ngộ”, hoặc “Người giác ngộ chân lý”. Phật sinh ra

ở Kapilavastu ở cổ Ấn Độ, nay là Didoraka ở gần biên giới phía nam của Nê pan,
giáp Ấn Độ. Tương truyền người là con cháu đời sau của tộc Cantrouy, thuộc đẳng
cấp Sát đế lợi (quý tộc), cha tên là Suddedana (Tịnh Phạn Vương) là vua xứ
Kapilavastu. Mẹ tên là Ma Da ( huyễn hóa), là con gái trưởng của vua Thiện Giác
thành Thiên Tí cách một con sông nhìn sang Kapilavastu. Đối với năm tháng sinh
và mất của Phật, các quốc gia theo Đạo Phật ở Đông Nam Á tính cho Phật sinh
năm 624 TCN mất năm 544 TCN
Căn cứ theo tuyền thuyết Đạo Phật, Phật sinh ra sau bảy ngày thì mẹ mất, do
người dì ruột là Mahaprajapati nuôi dưỡng trưởng thành, lúc nhỏ chịu sự giáo dục
của Bà là môn, sống cuộc sống cung đình vô cùng xa xỉ, 16 tuổi kết hôn với Da Xá
Đà La, sinh được một người con trai đặt tên là Ruhala. Năm 29 tuổi Phật xuất gia tu
hành. Về nguyên nhân xuất gia của Phật, nói chung đều cho rằng người cảm thấy
6


thống khổ của sinh, lão, bệnh, tử trên trần thế, mong tìm sự giải thoát về tinh thần.
Nhưng cũng có tư liệu nói rõ, sự xuất gia của người có liên quan tới hoàn cảnh mà
đất nước đang gặp phải. Lúc đó, tộc người Thích Ca đang chịu sự uy hiếp của nước
Câu Tát La, chỉ sớm chiều có khả năng bị hủy diệt, Phật đã ý thức được nguy cơ
này, do đó bỏ ra đi. Sau khi Phật xuất gia đã tới nước Magadha là trung tâm chính
trị và văn hóa lúc đó, theo những người thuộc lớp đầu tiên của phái Số luận
(SamKhya) là Alola Gialamo và Uấtđàgia Lamatư tu tập thiền định, nhưng sự tu
hành quên mình của Alola, ..không thể thỏa mãn được yêu cầu tinh thần của Phật,
do đó Người lại tới khu rừng rậm Cabo bên cạnh sông Ni liên hiền để theo đuổi
việc tu luyện khổ hành, quãng chừng 6 năm. Thế nhưng, sự khổ tu nhiều năm vẫn
không thể giải quyết được sự khao khát về mặt tinh thần của Người. Sau đó Phật lại
tới dưới gốc cây Bồ Đề nổi tiếng ở Buddhagaya ngồi xếp bằng suy nghĩ về “chân
đế” của nhân sinh. Theo truyền thuyết kể lại thì cuối cùng đã đắc đạo, lúc đó Người
35 tuổi. Sauk hi Thích Ca Mâu Ni đắc đạo bắt đầu một cuộc sống thuyết giáo dài
tới 45 năm, phạm vi truyền đạo chủ yếu là ở các nơi thuộc lưu vực sông Hằng Ấn

Độ, đông tới Cachagiara, năm tới phía nam lưu vực dãy núi Sadopura của
Buddhagaya và các khu vực phía nam sông Chomuna, tây bắc tới Khamaxadamu
của nước Câu Lô, bắc tới chân núi Hymalaya. Năm cuối đời, Phật an cư ở gần
thành Vương Xá, do ăn nhầm phải thức ăn độc, chết ở thành Cusinara.

1.1.2 : Nội dung cơ bản
Sự phân chia của Đạo Phật
Sau khi đức Phật qua đời, do dự bất đồng trong việc giải thích lời dạy của
Phật đến đến những bất đồng trong việc tu tập, các đệ tử của người có khuynh
hướng tách thành 2 phái. Vào thời điểm đó khái niệm Đại thừa và Tiểu thừa chưa rõ
rang, chỉ được gọi là Đại chúng bộ (Mahasaghika) và Thượng tọa bộ (Theravada).
7


Đại chúng bộ hầu hết là các vị xuất gia còn trẻ có cái nhìn cấp tiến chủ trương
không cố chấp theo kinh điền, khoan dung đại lượng không cố chấp thực hiện giáo
luật thu nạp tất cả những ai quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều người, thờ nhiều
Phật, và tu qua các bậc La Hán, Bồ Tát đến Phật. Thượng tọa bộ là những vị trưởng
thượng tuổi tác cao ở trong chùa lâu đi theo khuynh hướng truyền thống, bảo thủ
chủ trương bám sát kinh điền, giữ nghiêm giáo luật; Phật tử phải tự giác ngộ cho
bản thân mình, chỉ thờ Phật Thích Ca và chỉ tu đến bậc La Hán
Phái Đại chúng bộ tự soạn ra kinh sách riêng, tự xưng là Đại thừa
(Mahayana), nghĩa là “cỗ xe lớn” (chở được nhiều người) và gọi phái Thượng tọa
bộ là Tiểu thừa (Hinayana), nghĩa là “cỗ xe nhỏ” (chở được ít người).

So sánh phái Đại thừa và Tiểu thừa

Điểm chung:
Điểm giống nhau dễ nhận thấy nhất giữa hai hệ phái lớn của Phật giáo là
cùng bắt nguồn từ đức Phật, và cùng tôn kính đức Phật Thích Ca. Giáo pháp cơ bản

của PG Đại thừa và PG Tiểu thừa gồm có: Tứ diệu đế (1), Thập nhị nhân duyên (2)
(Mười hai nhân duyên), Bát chánh đạo (3), Nhân quả (4), Nghiệp (5)...
Tuy nhiên trong nhiều vấn đề khác, giữa hai phái có những sự khác biệt lớn.
Điểm khác biệt cơ bản
Về nôi dung, quan điểm , giáo lý
- PG Đại thừa xem đức Phật như một vị Thần vạn năng, uy lực tuyệt đối. Thọ
mệnh của đức Phật là vô cùng, sắc thân của Ngài là vô biên, những gì do Ngài nói
8


ra cũng đều viên mãn không có khuyết điểm, đều là chân lý. Ngoài đức Phật Thích
Ca Mâu Ni, ở Tam thế (Quá khứ, hiện tại, vị lai) còn có vô số Phật các vị Phật
khác, như lời của đức Cồ Đàm "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành".
Trong một ngôi chùa theo hệ phái PG Đại thừa thờ rất nhiều hình tượng, Phật Thích
Ca, Phật A Di Đà, Phật Dược Sư Lưu Ly, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Di Lặc, Tổ
Bồ Đề Đạt Ma...
- PG Tiểu thừa coi đức Phật như một nhân vật lịch sử, một Con người và một Thày
dạy, là một vị Giáo chủ chứ không phải như một vị Thần vạn năng, giáo lý của
Ngài là con đường đi đến Giác ngộ, như Ngài đã khẳng định rằng mọi chúng sinh
đều bình đẳng trong việc chứng ngộ chân lý, điều này không phụ thuộc vào thành
phần xuất thân, mà vào hành vi đạo đức và sự hiểu biết về chân tướng của vạn
pháp. Trong một ngôi chùa của PG Tiểu thừa, ta thấy chỉ thờ chủ yếu hình tượng
của đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
- PG Đại Thừa cho rằng Niết bàn (S: Nirvana) và Thế gian không khác biệt. Muốn
đạt được Niết bàn chỉ là tiêu trừ Vô minh, và nhận thức được thực tướng của các
hiện tượng sự vật. Cảnh giới Niết bàn không tồn tại độc lập với Thế gian.
- PG Tiểu Thừa cho rằng Niết bàn là cảnh giới đạt được sau khi thoát khỏi luân hồi
sinh tử. Cảnh giới này hoàn toàn khác biệt với cảnh giới Trần thế.
- PG Đại thừa không quá chú trọng đến đời sống xuất gia, cư sĩ tại gia cũng có thể
đạt đến Niết bàn với sự tế độ của chư Phật và chư Bồ tát. Niết bàn không chỉ là giải

thoát khỏi Luân hồi (S&P: Samsara), mà Hành giả còn giác ngộ về Chân tâm và an
trú trong đó. PG Đại Thừa xem trọng sự nhập thế, sự liên hệ mật thiết với đời sống
thế tục, có như thế mới thực hiện được tính chất phổ độ chúng sinh, giúp chúng
sinh vượt qua bể khổ (Bồ Tát hạnh)*.

9


- PG Tiểu Thừa chú trọng sự xuất gia, xa lánh thế gian, vì vậy PG Tiểu thừa quan
niệm phải sống cuộc đời của kẻ tu hành. Đối với Tiểu thừa cuộc sống tại gia không
thể đem đến sự giải thoát, hình ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là đắc quả A La Hán (S:
Arhat), là người phải dựa vào chính bản thân để giải thoát. Không có thần thánh
nào có thể làm việc ấy thay ta.
Một số điểm khác biệt khác

Số tông phái

Đại thừa
7 tông phái

Tiểu thừa
3 tông phái

(Pháp tướng tông, tam luận

(Câu-xá tông, Thành thật tông,

tông, Thiên thai tông, Hoa

Luật tông)


nghiêm tông, Chân ngôn
tông, Thiền tông, Tịnh độ
Đối tượng
thờ tụng
Giới tăng lữ

tông)
Thích Ca và hơn 500 vị La

Chỉ thờ 1 mình Thích Ca

Hán
Có sư nữ làm trụ trì
Nhà sư phải ăn chay trường

Không có sư nữ
- Được ăn thịt trừ thịt rắn, rùa, hổ,
báo, chó sói…
- Phải đi khất thực (chỉ được nhận
đồ ăn không được nhận tiền)
- Ngày chỉ được ăn 1 bữa trước 12h
trưa
- Con trai từ 13-14 tuổi là cạo đầu
đi tu

10


1.2 Giá trị

1.2.1 Triết lý
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục
(vô thường ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều
thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp
( mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến
toàn Pháp. Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh
điển rất lớn, được tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả năm bộ
phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật của “Đại
chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” … Sau này còn thêm các Bộ luật của
Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập dưới
dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật giáo. Tạng
luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật
giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân
sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục
(vô thường ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều
thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp
( mỗi một sự việc hiện tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến
11


toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn
luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “ Có người cố

chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định
ra chư pháp và đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều bị chi phối bởi luật nhân
quả, biến hoá vô thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể,
không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả biến đổi
không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn ( vĩnh viễn ). Cái nhân nhờ có
cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân
khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân
khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới … Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế
giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Như vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản
của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo
thế giới của các “đấng tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới
tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là
sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật
trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất kỳ hình
thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại tuân hành nghiêm ngặt theo luật nhân
quả.
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng,
thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình
đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của
sự vật và hiện tượng.

12


Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm
chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.

- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một
cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến
chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp
thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên
hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường
của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày
thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở
của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp
quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái
nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là
nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành
và làm nhân cho Danh sắc).

13


+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do
danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri
thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập
mà có xúc – tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng
xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho
Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ

mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả
cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả
cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do
Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh.
Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng
chết – sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng
linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân
hồi ( khổ não).

14


Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không
bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh
mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước,
rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ
sinh hoá vô thường.
- Mối quan hệ Nhân – Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời
gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái
lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành
trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng
như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do
nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra.
Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thường vô

thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật, vạn sự
theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là
dòng biến hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực có
sinh, có diệt, có người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó
chính là cái chân lý cho ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được
điều đó gọi là “ chân như” là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt,
niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành.
Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” ( địa, thuỷ, hoá, phong )
tức là cái cảm giác được.
15


- Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà
không có hình chất gọi là “ Danh”.
Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không nhìn thấy
được nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến sắc” như vật
chất chuyển hoá thành năng lượng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con người
là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội
thân hay tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân – Duyên tạo thành mỗi sinh vật
cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là
diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân – Duyên là vô cùng tận.

- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá không
ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không có sự vật
riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay.
Kinh Phật có đoạn viết “ Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc là
không, không là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là
chân thực, vĩnh viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con người sẽ
lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó, mà
16


con người cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra kết
quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền
miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không thấy
được cái luật nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào sự chi phối
của Luật Nhân – Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển
tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật
giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả
việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Được gọi là “ thân nghiệp”, còn hậu
quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì được gọi làg “ khẩu nghiệp”. Hay
những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên được gọi là ‘ý nghiệp”. Tất cả
những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn
thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc
chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là luôn luôn biến đổi không có gì là
thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các
kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.

Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại
cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện
hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho
rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và
17


đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài
vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp
trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân
duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con
đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức được
nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh
phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ, chết
là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải chia lìa nhau là
khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ. …. Những nỗi khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp
tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại mà tạo ra
nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê, mê
muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con người
không nắm được nhân duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng
sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi tưởng là có
nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua đời
khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được căn

nguyên của sự khổ – để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực chất là
thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
18


4. Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong thế
giới nội tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là thực hành
YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt tới trình độ
giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân như và thanh thản tuyệt đối, hết
ham muốn, hết tham vọng tầm thường, tức là đạt tới cói “niết bàn” không sinh,
không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập
trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc ( Bát
chính Đạo – buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để cho những
cái sai che lấp sự sáng suốt.
- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không được bỏ
điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới
chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính, không nghĩ đến những
điều bạo ngược gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị thoái
chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ.

19



Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện
nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm
điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là
thực hiện “ Ngũ giới” ( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác, không nói dối.
- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ
không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để cho cái xấu
cho lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành
đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi
khổ. Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật
20


giáo lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua
Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa
vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo
tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ
có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã, vô tạo giả) và có tư tưởng

biện chứng ( vô thường, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo
cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái
tâm vô minh của con người tạo ra.

1.2.2 Kiến trúc, nghệ thuật

Nói đến kiến trúc của Phật giáo là chúng ta nghĩ đến kiến trúc chùa chiền. Các ngôi
chùa ở các nước chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung quốc tựu chung đều có chung
kiến trúc cơ bản như:
Cổng tam quan: trước tiên, mở đầu cho ngôi chùa là Tam Quan, tức cổng (ngôi)
chùa, song nó đã mang ý nghĩa cao về Phật đạo. Cửa chùa thường có ba lối vào, là
một kiến trúc riêng, có khi là một tòa nhà ba gian hai mái hay một gác chuông
vuông cũng hai tầng tám mái. Theo thuyết của thiền tông Phật giáo, Tam Quan bao
gồm cửa Không (ở giữa): Phải quan sát tất cả các pháp đều không có tự tánh, do
nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, nếu không đạt được như thế thì tự tại đối với các
Pháp. Cửa Vô tướng (bên phải) dù là nam nữ, già trẻ, giàu sang hay nghèo hèn,…
thì bình đẳng như nhai khi bước chân vào chùa. Và cửa Vô tác (bên trái), bỏ hết
mọi ham muốn, sân si, rũ bỏ hết mọi tranh đua hơn thiệt, mọi buồn lo

21


Sân chùa: Bước qua cổng Tam quan là đến sân chùa. Các sân chùa thường trồng
cây xanh, đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên
nhiên cho ngôi chùa
Tiền đường: từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là chính điện.
Chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa, vì nơi đây bày những pho tượng
Phật chủ yếu cả điện thờ Phật.
Chùa có các kiểu trúc chính như kiểu chữ Công, chữ Quốc, chữ Đinh, chữ Tam.
Việt Nam là quốc gia cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo trong đó có

cả Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa. Điểm khác nhau dễ nhận thấy của các
ngôi chùa Đại thừa và tiểu thừa có lẽ là phần mái và chinh điện

Ảnh 1.1: Chùa Từ Hiếu (Huế) là một ngôi chùa theo kiểu kiến trúc Đại thừa
Loại kiến trúc tiêu biểu của hầu hết các ngôi chùa của Việt Nam (nguồn: google)

22


Ảnh 1.2: Ban thờ Mẫu ở chính điện chùa Nhất Trụ (Hà Nội) với nghệ thuật chạm
khắc trang trí bên trong vô cùng độc đáo mang lối kiến trúc riêng. (nguồn: google)

Ảnh 1.3: Chùa Khmer được xây dựng dựa trên tinh thần văn hóa Phật giáo Tiểu
thừa (nguồn: google)

23


Ảnh 1.4: Không gian bên trong chính điện của chùa Khmer được bài trí với bệ thờ
Đức Phật Thích Ca. (nguồn: google)

24


Đại thừa

Tiểu thừa

Thường có ít lớp mái hơn


Có nhiều lớp mái

Chùa phát triển theo chiều ngang

Chùa phát triển theo chiều dọc

Trần chùa thấp hơn

Trần chùa cao

Ưu điểm, ứng dụng

Ưu điểm, ứng dụng

- thích hợp để trưng bày nhiều tượng

- Khi giảng kinh sẽ tập trung chú ý vào

Phật, hoàng phi câu đối…

1 hướng duy nhất là hướng về tượng
Thích Ca
- Trần cao tạo cho chùa không gian
thoáng mát hơn vì bề ngang hẹp không
gây cảm giác ngột bí, ngoài ra cũng tạo
độ vang khi nghe giảng kinh

1.2.3 Tâm Linh
Tâm linh trong tôn giáo thần quyền chính là Phật tánh theo quan điểm Phật giáo.


25


×