Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

HỘI THẢO MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CỦA MÔN VẬT LÍ TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 170 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

----------

KỶ YẾU
HỘI THẢO
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CỦA
MÔN VẬT LÍ TRONG KÌ THI THPT
QUỐC GIA

Sóc Trăng, ngày 25 tháng 12 năm 2016


MỤC LỤC
Trang
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM
MÔN VẬT LÍ ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA
Tổ Vật lí – KTCN, Trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai ..................... 1
SỬ DỤNG “TRỤC THỜI GIAN” ĐỂ GIẢI NHANH MỘT SỐ BÀI TẬP
TRẮC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ 12
Trần Xuân Kế, Trường THPT Hoàng Diệu .......................................................... 6
MỘT SỐ LƯU Ý NHẰM GIÚP HỌC SINH ÔN LUYỆN VÀ LÀM TỐT BÀI
TRẮC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ TRONG KỲ THI THPT QUỐC GIA
Nguyễn Quốc Văn, Trường THPT Kế Sách ....................................................... 11
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LÀ BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM
ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA MÔN VẬT LÍ
Châu Trường Thọ, Trường THPT Mỹ Xuyên .................................................... 15
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM
MÔN VẬT LÍ ĐẠT KẾT QUẢ CAO


Nguyễn Quí Đạo, Trường THPT Trần Văn Bảy................................................. 18
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG YẾU KÉM TRONG VIỆC DẠY VÀ
HỌC BỘ MÔN VẬT LÍ KHỐI 12
Bùi Thanh Nhã, Trường THPT Kế Sách............................................................. 22
XÂY DỰNG MA TRẬN ĐỀ THI THPT QUỐC GIA
Tổ Vật Lí – KTCN, Trường THPT Phan Văn Hùng ......................................... 27
XÂY DỰNG MA TRẬN ĐỀ THI THPT QUỐC GIA
Tổ Vật lí, Trường THPT Vĩnh Hải ..................................................................... 36
XÂY DỰNG MA TRẬN ĐỀ THEO HƯỚNG TRẮC NGHIỆM KHÁCH
QUAN VẬT LÍ THPT
Nguyễn Văn Thắng, Lê Minh Hùng, Trường THPT Thuận Hoà ....................... 37
PHÂN TÍCH MA TRẬN ĐỀ THI MẪU MÔN VẬT LÍ KÌ THI THPT QUỐC
GIA NĂM 2017
Trần Mộng Thu, Trương Văn Đực, Trường THPT Lương Định Của ................ 49
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG DAO ĐỘNG CƠ VÀ SÓNG CƠ - VẬT
LÍ 12
Tổ Vật lí, Trường THPT Nguyễn Khuyến .......................................................... 60


SỬ DỤNG BẢNG GHI NHỚ THỜI GIAN GIÚP HỌC SINH GIẢI NHANH
BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM DẠNG THỜI GIAN, QUÃNG ĐƯỜNG, LI ĐỘ,
VẬN TỐC TRONG DAO ĐỘNG ĐIỀU HÒA
Đặng Văn Hữu, Trường THPT Kế Sách ............................................................. 67
NHỮNG LỖI THƯỜNG GẶP KHI HỌC SINH LÀM BÀI TRẮC NGHIỆM
MÔN VẬT LÍ LỚP 12
Nguyễn Thanh Hồng, Trường THPT Huỳnh Hữu Nghĩa ................................... 73
DAY HỌC THEO CHUYÊN ĐỀ CHƯƠNG DAO ĐỘNG CƠ VÀ CHƯƠNG
SÓNG CƠ – VẬT LÍ 12
Tổ Vật lí, Trường THPT Phú Tâm ...................................................................... 81
BÀI THAM LUẬN VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM

TRA ĐÁNH GIÁ
Ngô Minh Kết, Trường THPT Mai Thanh Thế................................................... 83
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG DAO ĐỘNG CƠ VÀ SÓNG CƠ VẬT
LÍ LỚP 12
Nguyễn Thị Hồng Tươi, Trần Thị Hồng Trang, Trường THPT Mỹ Hương ...... 86
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
QUA CHỦ ĐỀ DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU VÀ SÓNG ĐIỆN TỪ
Giang Vũ Bảo, Trường THPT Ngã Năm ............................................................ 91
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG DAO ĐỘNG VÀ SÓNG ĐIỆN TỪ –
VẬT LÍ 12
Tổ Vật lí, Trường THPT An Lạc Thôn ............................................................... 95
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU - DAO
ĐỘNG VÀ SÓNG ĐIỆN TỪ - VẬT LÍ 12
Tổ Vật lí, Trường THCS&THPT Thạnh Tân.................................................... 102
CÁC DẠNG BÀI TẬP “LẠ” TRONG CHƯƠNG TRÌNH VẬT LÍ 12
Dương Văn Trung, Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng ................................ 108
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ GIAO THOA VỚI ÁNH SÁNG ĐƠN SẮC
Tổ Vật lí, Trường THPT DTNT Huỳnh Cương ................................................ 113
DẠY HỌC VẬT LÍ THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CỦA KÌ THI THPT
QUỐC GIA - CHƯƠNG SÓNG ÁNH SÁNG
Lâm Thái Nghiệp, Trường THPT Ngọc Tố ...................................................... 118


DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG VẬT LÍ HẠT NHÂN – VẬT LÍ 12
Nguyễn Văn Nhật, Trường THPT Hòa Tú ....................................................... 123
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG SÓNG ÁNH SÁNG VẬT LÍ HẠT
NHÂN
Ông Minh Thuyết, Trường THPT An Ninh ...................................................... 129
VẬN DỤNG CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN ĐỂ GIẢI MỘT SỐ BÀI TOÁN
CHƯƠNG I DAO ĐỘNG CƠ VÀ CHƯƠNG VII VẬT LÍ HẠT NHÂN - VẬT

LÍ 12
Nguyễn Bình Kha, Trường THPT Kế Sách ...................................................... 136
DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ CHƯƠNG V SÓNG ÁNH SÁNG
Tổ Vật lí – Tin học – KTCN, Trường THCS&THPT Tân Thạnh .................... 140
DẠY HỌC THEO CHUYÊN ĐỀ CHƯƠNG DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU
Lâm Phùng Hiệp, Trường THPT Văn Ngọc Chính .......................................... 149


LỜI NÓI ĐẦU
Nhằm quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 29 - NQ/TW về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong năm học 2016 – 2017 Sở Giáo
dục và Đào tạo Sóc Trăng tiếp tục xác định tạo sự đột phá trong hoạt động bằng
việc chủ động, tích cực đổi mới quản lý và đặc biệt là đổi mới hoạt động dạy và
học trong trường phổ thông, trong đó xác định kỳ thi THPT Quốc gia là một
trong những nhiệm vụ quan trọng.
Trên tinh thần đó, Sở Giáo dục và Đào tạo Sóc Trăng đã có kế hoạch tổ
chức nhiều Hội thảo chuyên đề trong đó có môn Vật lí với nội dung: “Một số
giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí trong kì thi THPT
Quốc gia”. Lâu nay giáo viên và học sinh đã quen với cách dạy và học môn Vật
lí 12 theo hình thức thi trắc nghiệm. Tuy nhiên, trong kì thi năm nay đã có sự
thay đổi về “vị trí” của môn Vật lí, cũng như thay đổi về số lượng câu hỏi trong
đề thi và thời gian làm bài cũng được thay đổi tương ứng. Do đó, để đạt được
kết quả cao trong kì thi THPT Quốc gia năm nay thì quá trình dạy và học môn
Vật lí 12 cũng cần có sự đổi mới.
Xuất phát từ thực tế hết sức cấp thiết như vậy, đòi hỏi đặt ra là phải có sự
trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm và cuối cùng là đi đến sự thống nhất
chung trong toàn tỉnh và đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học
của môn Vật lí trong kì thi THPT Quốc gia, qua đó giúp học sinh có thể đạt
được kết quả cao nhất có thể trong kì thi THPT Quốc gia môn Vật lí.
Trong quá trình chuẩn bị cho Hội thảo, Ban tổ chức đã nhận được 27

tham luận từ các trường THPT, các trường THCS&THPT trong tỉnh gửi về.
Trong quá trình biên tập, bước đầu Ban tổ chức đánh giá đây là những tham luận
có chất lượng, có nhiều tham luận đã trình bày những nội dung mới lạ, qua đó
thể hiện được tâm huyết cũng như tinh thần làm việc nghiêm túc của các tác giả.
Nội dung của các tham luận tập trung vào những chủ đề chính như sau:
- Một số giải pháp giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu quả cao
trong kì thi THPT Quốc gia môn Vật lí.
- Xây dựng ma trận đề theo định hướng trắc nghiệm khách quan.
- Dạy học theo chủ đề Chương Dao động cơ học và Chương Sóng cơ học
– Vật lí 12.
- Dạy học theo chủ đề Chương Dao động điện từ và Chương Điện xoay
chiều – Vật lí 12.
- Dạy học theo chủ đề Chương Sóng ánh sáng, Lượng tử ánh sáng và Vật
lí hạt nhân – Vật lí 12.
BAN BIÊN TẬP


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH
LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA
Tổ Vật lí - KTCN
Trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, kết quả kì thi THPT Quốc gia môn Vật lí tại
trường THPT Chuyên Nguyễn Thị Minh Khai, Sóc Trăng đã đạt được những kết
quả tương đối ổn định, góp phần làm tăng tỷ lệ đậu Đại học cho nhà trường.
Kết quả đạt được của môn Vật lí tuy không quá cao, nhưng nó đánh giá được

việc áp dụng các giải pháp giúp học sinh làm bài trắc nghiệm có hiệu quả.
Trong bài viết này, chúng tôi phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn
từ đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc
làm bài thi trắc nghiệm môn Vật lí cho học sinh trong kì thi THPT quốc gia.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trắc nghiệm là một hình thức thi đã và đang được áp dụng trong các kì thi
quan trọng ở nước ta. Việc sử dụng bài tập trắc nghiệm trong dạy học và thi cử
được thực hiện có hiệu quả trong những năm gần đây, nhất là từ khi Bộ Giáo
dục và Đào tạo khuyến nghị các trường Đại học sử dụng bài tập trắc nghiệm
trong việc ra đề thi tuyển sinh Đại học - Cao đẳng. Các câu hỏi trắc nghiệm cũng
như các bài tập trắc nghiệm có lẽ không phải là điều quá mới mẻ đối với những
người dạy và học Vật lí. Nhưng làm thế nào để học sinh làm bài thi trắc nghiệm
đạt hiệu quả tốt nhất mới là vấn đề quan trọng mà giáo viên cần phải tìm tòi
nghiên cứu.
Mặt khác, qua cuộc khảo sát trên mạng gần đây cho thấy đa số học sinh
lớp 12 vẫn chưa có kĩ năng làm bài trắc nghiệm đúng hướng, học sinh thường bị
chi phối thời gian do lượng kiến thức quá nhiều và bao quát. Các em băn khoăn
không biết phải làm thế nào để phát huy được hết năng lực của mình, đạt kết quả
như ý muốn trong các kì thi sắp tới. Vậy, làm thế nào để học sinh làm bài thi
trắc nghiệm môn Vật lí đạt hiệu quả cao nhất trong kì thi THPT quốc gia hàng
năm là điều rất quan trọng. Với mong muốn học sinh làm bài thi tốt dẫn đến tỷ
lệ đỗ đạt vào các trường Đại học và Cao đẳng càng cao, tôi đã mạnh dạn viết bài
tham luận với đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh làm bài thi trắc nghiệm
môn Vật lí đạt hiệu quả cao trong kì thi THPT Quốc gia”.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Thực trạng
2.1.1. Thuận lợi
1



Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

- Giáo viên rất quan tâm trong việc đổi mới kiểm tra đánh giá, có sự nhận
thức đúng đắn về sự cần thiết và vai trò của trắc nghiệm nên áp dụng phương
pháp này ngày càng hiệu quả.
- Được tập huấn và thường xuyên tự nghiên cứu, học hỏi nên phần lớn
giáo viên có kĩ năng sử dụng trắc nghiệm do đó học sinh được rèn luyện nhiều
hơn.
- Trắc nghiệm được áp dụng ở tất cả các bài kiểm tra đảm bảo tính khách
quan, bao quát toàn bộ kiến thức cho học sinh.
2.1.2. Khó khăn
- Mất nhiều thời gian cho việc xây dựng ngân hàng câu hỏi, để có một bài
trắc nghiệm có giá trị, đảm bảo độ khó, độ phân biệt, có thể phân hóa trình độ
năng lực học sinh đòi hỏi giáo viên phải nắm vững chuyên môn và kĩ thuật xây
dựng câu hỏi trắc nghiệm.
- Những khó khăn của học sinh khi làm bài trắc nghiệm môn Vật lí.
STT

NỘI DUNG

SỐ LƯỢNG

1

Chưa nắm vững hết kiến thức

58/100

2


Chưa có kĩ năng làm bài trắc nghiệm

18/100

3

Đề kiểm tra quá khó

12/100

4

Thời gian quá ngắn

6/100

5

Dễ gây ra sự căng thẳng mệt mỏi

4/100

6

Ý kiến khác

2/100

Qua bảng số liệu ta thấy khó khăn lớn nhất mà học sinh gặp phải là chưa

nắm vững kiến thức, khó khăn này phản ánh ý thức, thái độ học tập của học
sinh. Tuy nhiên điều này cũng dễ dàng khắc phục nếu học sinh có ý thức tự giác
học tập cao, giáo viên thường xuyên trau dồi kiến thức cho các em.
2.2. Giải pháp làm bài thi trắc nghiệm có hiệu quả
Hiện nay, hầu hết các môn học đều thi theo phương pháp trắc nghiệm. Để
làm tốt bài thi trắc nghiệm, cần phải có những hiểu biết đầy đủ và đúng đắn về
hình thức thi rất phổ biến và hiệu quả này. Hãy cùng nhau tham khảo vài giải
pháp giúp các em học sinh có thể làm tốt một bài thi trắc nghiệm.
2.2.1. Nắm vững các dạng câu trắc nghiệm
Thi trắc nghiệm ở nước ta hiện nay là thi trắc nghiệm viết. Trắc nghiệm
viết được chia thành hai dạng chính: trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách
quan nhưng trắc nghiệm khách quan là chủ yếu. Trong trắc nghiệm khách quan
có thể phân chia ra 5 kiểu câu hỏi: 1. Câu ghép đôi: Cho 2 cột nhóm từ, đòi hỏi
thí sinh phải ghép đúng từng cặp nhóm từ ở hai cột với nhau sao cho phù hợp về
nội dung. 2. Câu điền khuyết: Nêu một mệnh đề có khuyết một bộ phận, thí sinh
2


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

phải nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào ô trống. 3. Câu trả lời ngắn: Là câu
trắc nghiệm đòi hỏi chỉ trả lời bằng câu rất ngắn. 4. Câu đúng sai: Đưa ra một
nhận định, thí sinh phải lựa chọn một trong hai phương án trả lời để khẳng định
nhận định đó là đúng hay sai. 5. Câu nhiều lựa chọn: Đưa ra một nhận định và 4
- 5 phương án trả lời, thí sinh phải chọn để đánh dấu vào một phương án đúng
hoặc phương án tốt nhất.
2. 2.2. Nhận diện nhanh câu dễ - câu khó
Trong đề thi sẽ có câu dễ, câu khó, do đó, trước khi đặt bút làm các thí
sinh nên dành vài phút để xác định xem câu nào dễ hơn, câu nào khó hơn. Ưu

tiên những câu dễ làm trước, câu khó sẽ giải quyết sau. Nếu là đề thi trắc
nghiệm thì việc này sẽ không mất quá nhiều thời gian cũng như công sức, tuy
nhiên như khối A, 2/3 môn sẽ áp dụng hình thức thi trắc nghiệm thì việc xác
định câu dễ, câu khó sẽ khó khăn hơn nhiều. Ngoài một kiến thức vững vàng ra
thì các thí sinh cần phải nhanh nhạy nắm bắt các câu để có thể phân bổ thời gian
làm bài một cách hợp lý.
2.2.3. Phân bổ thời gian
Thông thường, một bài thi trắc nghiệm tuyển sinh ĐH, CĐ có 40 - 60 câu.
Thời gian làm bài là 50- 90 phút. Như vậy, thí sinh có khoảng chưa đầy một
phút để trả lời một câu hỏi.
Nên bắt đầu làm bài từ câu số 1, lần lượt lướt nhanh, quyết định làm
những câu cảm thấy dễ và chắc chắn, đồng thời đánh dấu trong đề thi những câu
chưa làm được. Lần lượt thực hiện đến câu trắc nghiệm cuối cùng trong đề. Sau
đó, quay trở lại giải tiếp nốt những câu đã “tạm thời” bỏ qua. Nên làm những
câu tương đối dễ hơn, bỏ lại những câu khó để giải quyết lượt thứ ba, nếu còn
thời gian.
Thông thường, số điểm dành cho một câu hỏi khó và câu hỏi dễ là như
nhau. Vì vậy, thí sinh không nên dành quá nhiều thời gian cho một câu hỏi khó
mà không còn thời gian để trả lời những câu hỏi dễ.
2.2.4. Đọc kĩ câu hỏi
Mặc dù cần phải đọc nhanh câu hỏi để làm nhưng không có nghĩa các thí
sinh được phép đọc lướt một cách cẩu thả. Nhiều bẫy rất nhỏ trong đề thi, chỉ
khi đọc kĩ các thí sinh mới tìm ra được. Chẳng hạn câu hỏi “Hãy tìm câu trả lời
không đúng trong những câu dưới đây”. Như vậy, nếu bạn chỉ đọc lướt qua mà
không chú ý sẽ có thể bỏ sót chữ “không”, “không đúng” = “sai”, nhưng nếu chỉ
chú ý tới chữ “đúng” cộng với kiến thức không chắc thì rất có thể bạn sẽ mất
điểm câu đó một cách dễ dàng. Đáng tiếc chưa nào.
Do đó, hãy luyện tập cách nhìn câu hỏi nhanh mà vẫn bao quát được cả
câu hỏi. Nếu cần các thí sinh có thể đánh dấu những từ quan trọng trong đề, điều
đó sẽ giúp bạn tránh được sai sót trong quá trình làm bài.

3


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

2.2.5. Tránh tỉ mẩn, cần cù trong cách giải
Nếu như tỉ mẩn, cần cù trong cách làm có thể giúp các em đạt điểm cao
trong bài thi tự luận thì đó lại là bất lợi trong bài thi trắc nghiệm. Với số lượng
câu hỏi nhiều, cộng với thời gian có hạn, nếu như các em quá cẩn thận viết hẳn
ra giấy cách giải như thế nào thì sẽ rất tốn thời gian. Đề thi trắc nghiệm không
đòi hỏi ở các em cách làm như thế nào mà chỉ cần biết kết quả cuối cùng mà bạn
tô vào ô đáp án ra sao. Với 40 câu hỏi, chỉ trong 50 phút, nếu có thể các em hãy
nhẩm trong đầu hoặc tốc kí viết ra nháp không cần theo từng bước giải như thế
nào hay chữ phải đẹp mà chỉ cần ngắn gọn, dễ hiểu, tránh làm mất thời gian.
2.2.6. Phương pháp phỏng đoán và loại trừ
Phỏng đoán là phương pháp phù hợp với những câu không chắc chắn về
câu trả lời, việc phỏng đoán lôgic và kho học nhiều khi sẽ cho các bạn những
câu trả lời chính xác. Trong trường hợp thí sinh có thời gian để suy nghĩ nhưng
không chắc chắn về câu trả lời thì có thể dùng phương pháp loại trừ. Trong 4
câu trả lời, thí sinh có thể phân tích và tìm ra câu trả lời sai. Như vậy câu trả lời
đúng sẽ nằm trong số còn lại. Nếu loại trừ được càng nhiều phương án trả lời sai
thì xác suất trả lời đúng càng cao.
2.2.7. Phương châm làm bài “Thà tô nhầm còn hơn bỏ sót”
Khi không thể trả lời được câu nào, cộng với thời gian còn rất ít thì đừng
nên do dự. Do không bị trừ điểm nếu thí sinh chọn câu sai, nên trước khi hết giờ
thi, các bạn cần chọn nhanh đáp án hợp lý nhất cho những câu chưa trả lời.
Không nên để trống một câu nào, phải trả lời tất cả các câu. Mỗi câu đều có
điểm, cho nên bỏ câu nào là mất điểm câu đó. Để có cơ hội giành điểm cao nhất,
các bạn phải tô các phương án trả lời theo phương châm thà tô nhầm còn hơn bỏ

sót.
Ví dụ: bạn điền tất cả các đáp án là B. Như vậy, trong 10 câu, có thể có ít
nhất 1->3 câu sẽ có đáp án B, bạn hoàn toàn có thể ghi điểm một cách may mắn.
2.2.8. Quan trọng nhất là thường xuyên làm đề thi trắc nghiệm
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các loại sách nâng cao, tham khảo,
đề thi, các em học sinh có thể tới các hiệu sách mua về và rèn cho mình thói
quen thường xuyên luyện đề. Điều này giúp bạn nắm rõ được kiểu ra đề như thế
nào, trọng tâm nên học ở đâu hay đơn giản là biết được cách gài bẫy trong mỗi
đề ra sao. Tuy nhiên, các em nên tránh tình trạng học lan man.
Khi tự giải xong rồi thì có thể kiểm tra lại đáp án ở đằng sau, nếu cảm
thấy đó là kiến thức quan trọng và mình chưa biết thì nên ghi và học lại nhưng
không nên quá tham lam khi thấy phần đó đề thi có thể rơi vào thì phần na ná,
liên quan đến đó cũng có thể mà ôm đồm một lúc một mớ kiến thức với quan
niệm “thừa còn hơn thiếu”. Điều đó chỉ khiến bạn bị rối loạn, không tập trung
được vào phần chính mà thôi.
4


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

3. KẾT LUẬN
Hầu hết tất cả giáo viên đã có sự nhận thức đúng đắn về sự cần thiết và
vai trò của phương pháp trắc nghiệm, hiểu được những thuận lợi và khó khăn
khi cho học sinh làm bài thi trắc nghiệm, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả làm bài thi trắc nghiệm môn Vật lí cho học sinh trong
kì thi THPT Quốc gia. Với những giải pháp như trên, trong những năm gần đây
bộ môn Vật lí của trường THPT chuyên đã đạt được kết quả tương đối cao,
nhiều em đỗ vào các trường Đại học, nâng tỷ lệ đỗ đại học của toàn trường lên
so với các năm trước.

Trên đây chỉ là một số giải pháp và một vài kinh nghiệm nhỏ mà chúng
tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy, ôn luyện cho các em thi Đại học.
Chắc chắn rằng nhiều đồng nghiệp sẽ có những ý kiến và giải pháp khác quí giá
hơn. Rất mong nhận được sự trao đổi và giúp đỡ của các đồng nghiệp, để chúng
tôi có thể làm tốt hơn công việc của mình góp phần vào thành tích của nhà
trường và sự nghiệp giáo dục của địa phương.

5


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

SỬ DỤNG “TRỤC THỜI GIAN” ĐỂ GIẢI NHANH MỘT SỐ BÀI
TẬP TRẮC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ 12
Trần Xuân Kế
Trường THPT Hoàng Diệu
Theo phương án tổ chức kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017 đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo công bố thì Vật lí là một trong ba môn thi của bài thi tổ hợp
Khoa học Tự nhiên (KHTN). Đề thi môn Vật lí gồm 40 câu trắc nghiệm và thời
gian làm bài 50 phút, như vậy thời gian trung bình để làm mỗi câu là 1,25 phút.
Nếu so với đề thi chính thức môn Vật lí của kỳ thi THPT Quốc gia năm 2016 thì
đề thi năm 2017 có số lượng câu trắc nghiệm giảm đi 10 câu nhưng thời gian
làm bài giảm 40 phút. Cũng theo phương án này thì đề thi vẫn phải có câu hỏi
phân hóa phục vụ cho xét tuyển Đại học, Cao đẳng. Với thời gian có thể nói là
“hạn hẹp” như vậy rõ ràng để làm tốt bài thi môn Vật lí kỳ thi THPT Quốc gia
năm 2017 đòi hỏi thí sinh không những vững về kiến thức Vật lí mà còn phải có
một kỹ năng làm bài tốt (đặc biệt là kỹ năng giải nhanh bài trắc nghiệm) mới có
thể hoàn thành tốt bài làm của mình.
Việc ứng dụng vòng tròn lượng giác để giải nhanh các bài toán vật lí liên

quan đến thời gian đã và đang được giáo viên, học sinh sử dụng bởi những tính
ưu việt của nó. Tuy nhiên, khi sử dụng vòng tròn lượng giác thì học sinh (đặc
biệt là học sinh trung bình và yếu) gặp không ít những khó khăn do hạn chế về
mặt toán học. Để giúp học sinh có thể giải nhanh một số bài toán Vật lí liên
quan đến thời gian tôi đã tiến hành hướng dẫn học sinh xây dựng và sử dụng
“Trục thời gian” từ đó áp dụng cụ thể vào trong quá trình học tập giúp các em
giải nhanh các câu trắc nghiệm và hoàn thành tốt bài kiểm tra Vật lí của mình ở
các kỳ kiểm tra, kỳ thi THPT Quốc gia các năm qua.
I. XÂY DỰNG “TRỤC THỜI GIAN”
Để học sinh có thể hiểu về “Trục thời gian” và sử dụng chúng một cách
có hiệu quả vào trong học tập thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng
được “Trục thời gian” ngay từ chương Dao động Cơ học bằng cách cho học sinh
giải bài tập liên quan đến thời gian trên các đoạn của trục với các vị trí đặc biệt
v
2
A 3
v
A A 2
như:{biên ( ± A ), cân bằng(O),  , 
,
,  vmax  max ,  max
,
2
2
2
2
2
v
3
a

2
a
3
a
 max
Wñ  3Wt , Wñ  Wt , Wt  3Wñ …
,  amax  max ,  max
,  max
2
2
2
2
từng bước hình thành trục thời gian như hình dưới đây. Giáo viên không nên
đưa ra ngay trục thời gian mà nên để học sinh tự giải bài tập và hoàn thiện dần
trục thời gian; có như vậy thì học sinh mới có thể hiểu sâu và vận dụng tốt trục
thời gian này để giải nhanh bài tập một cách có hiệu quả.
6


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

Không chỉ dừng lại ở chương Dao Động Cơ Học, khi dạy đến các chương
Dòng Điện Xoay Chiều, Dao Động Và Sóng Điện Từ giáo viên có thể mở rộng
“Trục thời gian” trên để giúp học sinh giải nhanh một số bài tập trắc nghiệm của
các chương này liên quan đến thời gian với các vị trí đặc biệt.

II. SỬ DỤNG “TRỤC THỜI GIAN” ĐỂ GIẢI NHANH MỘT SỐ BÀI
TẬP TRẮC NGHIỆM VẬT LÍ 12
Câu 1: (ĐH 2009) Một con lắc lò xo gồm lò xo nhẹ và vật nhỏ dao động

điều hòa theo phương ngang với tầnsố góc 10 rad/s. Biết rằng khi động năng và
thế năng (mốc ở vị trí cân bằng của vật) bằng nhau thì vận tốc của vật có độ lớn
bằng 0,6 m/s. Biên độ dao động của con lắc là
A. 6cm.
B. 6 2 cm.
C. 12cm.
D. 12 2 cm.
Wt  3Wñ

-A  vmax
2

Wñ  Wt



vmax 2
2

Wñ  3Wt



vmax 3
2

Giải: Khi Wñ  Wt  v  

Wñ  3Wt


Wñmax ;Wt  0

O
 vmax



vmax 3
2

Wñ  Wt



vmax 2
2

Wt  3Wñ



vmax
2

+A

vmax
A.10
 0,6 
 A  0,06 2(m)  6 2(cm)

2
2

7


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

Câu 2: (ĐH 2010) Một con lắc lò xo dao động điều hòa với chu kì T và
biên độ 5 cm. Biết trong một chu kì, khoảng thời gian để vật nhỏ của con lắc có
độ lớn gia tốc không vượt quá 100 cm/s2 là

T
. Lấy 2=10. Tần số dao động của
3

vật là
A. 4 Hz.

B. 3 Hz.

C. 2 Hz.
t

amax

amax
2


amax 2
2

amax 3
2

T
12

t

O

T
t
12

Giải: Theo đề a 

D. 1 Hz.
T
12



T
t
12

amax

2



amax 2
2



amax 3
2

amax

amax
5.4 2 . f 2
 100  f  1( Hz )

2
2

Câu 3: (CĐ 2011) Một con lắc đơn có chiều dài dây treo 1m dao động
điều hòa với biên độ góc



20

2


rad tại nơi có gia tốc trọng trường g = 10 m/s . Lấy

π2 = 10. Thời gian ngắn nhất để con lắc đi từ vị trí cân bằng đến vị trí có li độ
 3

góc

40

A.
 0



rad là

1
s
3

0 3



B.

0 2

2




2

1
s
2

C. 3 s

D. 3 2 s
0
2

O

0
2

t

Giải: Theo đề  

 3
40



0 3
2


t 

T

6

l
g

2
6

0 2
2

0 3
2

 0

T
6

1

2




6

 2  1 ( s)
3

Câu 4: (ĐH 2011) Một chất điểm dao động điều hoà trên trục Ox với biên
độ 10 cm, chu kì 2 s. Mốc thế năng ở vị trí cân bằng. Tốc độ trung bình của chất
điểm trong khoảng thời gian ngắn nhất khi chất điểm đi từ vị trí có động năng
bằng 3 lần thế năng đến vị trí có động năng bằng 1/3 lần thế năng là
A. 26,12 cm/s.
B. 21,96 cm/s.
C. 7,32 cm/s.
D. 14,64 cm/s.
Wt  3Wñ

Wñ  Wt

Wñmax ;Wt  0

Wñ  3Wt

Wñ  3Wt

Wñ  Wt

Wt  3Wñ

A 2
2


A 3
2

O
-A  A

3
2



A 2
2

T



s
t

A
2A

Giải:12vtb  

8

3


A 10 3 10


2
2  2
2  21,96 (cm / s)
T
2
12
12

A
2

T
12

+A


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

Câu 5: (CĐ 2012) Con lắc lò xo gồm một vật nhỏ có khối lượng 250g và
lò xo nhẹ có độ cứng 100 N/m dao động điều hòa dọc theo trục Ox với biên độ 4
cm. Khoảng thời gian ngắn nhất để vận tốc của vật có giá trị từ -40cm/s đến 40
3 cm/s là
A.




s.

40

B.



120

s.

C.



20

.

D.



60

s.

T

12 v1 = - 40(cm/s)
v 2 = 40 3(cm/s)

v  0  vmax
2

vmax 2
2





vmax 3
2

O

 vmax



vmax 3
2

T
6

Giải :  




vmax 2
2



v0

vmax
2



K
100

T T T


 20(rad / s)  T  ( s)  t     10  ( s)
m
0, 25
10
12 6 4 4 40

Câu 6: (ĐH 2014) Một vật nhỏ dao động điều hòa theo một quỹ đạo
thẳng dài 14cm với chu kì 1s. Từ thời điểm vật qua vị trí có li độ 3,5cm theo
chiều dương đến khi gia tốc của vật đạt giá trị cực tiểu lần thứ hai, vật có tốc độ
trung bình là

A. 27,3cm/s.
B. 28,0cm/s.
C. 27,0cm/s.
D. 26,7cm/s.
T
2

amax

amax 3
2

amax 2
2

O

amax
2



amax
2

T
2




amax 2
2



amax 3 a
max
2



T
6

s 4,5 A 4,5.7

 27 (cm / s)
Giải: vtb   T
7.1
t
T
6
6





Câu 7: (ĐH2014) Tại thời điểm t, điện áp u  200 2 cos(100 t  ) (trong
2


đó u tính bằng V, t tính bằng s) có giá trị 100 2 (V) và đang giảm. Sau thời điểm
đó

1
s , điện áp này có giá trị là
300

A. 100V.
U 0



U0 3
2



U0 2
U
 0
2
2

Giải: t 

C. 100 2V .

B. 100 3V .
O


D. 200 V.
U0
2

U0 2
2

U0

U0 3
2

T
6

U
1
T
(s)   u   0  100 2 (V)
300
6
2

Câu 8: (ĐH 2011) Trong một mạch dao động LC lí tưởng đang có dao
động điện từ tự do. Thời gian ngắn nhất để năng lượng điện trường giảm từ giá
9


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí

trong kì thi THPT Quốc gia”

trị cực đại xuống còn một nửa giá trị cực đại là 1,5.10 -4 s. Thời gian ngắn nhất
để điện tích trên tụ giảm từ giá trị cực đại xuống còn một nửa giá trị đó là
A. 2.10-4 s.
B. 3.10-4 s.
C. 6.10-4 s.
D. 12.10-4 s.
Wt  3Wñ

O

Q0
2

T
 1,5.104 ( s)  T  12.104 ( s)
8
T 12.104
 2.104 ( s)
Thời gian cần tìm: t  
6
6

Giải: Theo đề:

T
8

Wñ  Wt


Q0 3
2

Q0 2
2

Wñ max

Q0

T
6

III. KẾT LUẬN
Một trong những hạn chế lớn nhất khi sử dụng trục thời gian này là nếu
đại lượng khảo sát không phải là các giá trị đặc biệt thì ta không thể xác định
được đại lượng cần tìm. Tuy nhiên đa số các bài toán trắc nghiệm xuất hiện
trong các đề thi có nội dung liên quan đến thời gian chủ yếu đề cập đến các vị
trí đặc biệt. Vì vậy việc sử dụng “Trục thời gian” để giúp học sinh (đặc biệt là
học sinh hạn chế về mặt toán học) giải nhanh một số bài tập trắc nghiệm Vật lí
12 có thể xem như là một trong những giải pháp giúp học sinh làm tốt bài thi
của mình.

10


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”


MỘT SỐ LƯU Ý NHẰM GIÚP HỌC SINH ÔN LUYỆN VÀ LÀM TỐT
BÀI TRẮC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA
Nguyễn Quốc Văn
Trường THPT Kế Sách
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Bộ GDĐT kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017, mỗi thí sinh sẽ làm ít
nhất 4 bài thi, trong đó có bài thi Khoa học Tự nhiên làm tổ hợp của 3 môn học
Vật lí, Hóa học và Sinh học. Thực tế cho thấy, trong ba môn này thì đa phần học
sinh cho rằng Vật lý là môn dễ lấy điểm nhất, học sinh thường tự tin hơn hai
môn còn lại, thậm chí nhiều học sinh tin rằng Vật lí sẽ là môn “gỡ điểm” cho
những môn kia và giúp các em nâng cao tổng điểm xét tuyển. Ở một góc độ nào
đó thì cũng có phần đúng đối với những học sinh chỉ cần đạt điểm trung bình để
xét tốt nghiệp THPT. Tuy nhiên, nếu học sinh muốn đạt điểm cao (từ 8,0 điểm
trở lên) để xét tuyển vào các trường Đại học thì đòi hỏi ở học sinh phải có kiến
thức vững vàng, kỹ năng làm bài tốt, đặc biệt là phải có thêm một số thủ thuật
thì mới có thể hoàn thành tốt bài thi trong giới hạn thời gian quy định. Sau đây
tôi chia sẻ một vài kinh nghiệm trong việc giúp học sinh ôn luyện và làm tốt bài
thi môn Vật lí trong kỳ thi THPT Quốc gia.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Một số lưu ý để học tốt môn Vật lí
- Chăm chú nghe thầy cô giảng bài. Trước tiên, để có thể hiểu rõ những
vấn đề trong môn Vật lý, học sinh phải chăm chú nghe giảng. Những kiến thức
do giáo viên truyền đạt là cơ sở để học sinh hiểu và có thể làm được bài tập,
giúp các em xử lý nhanh các câu hỏi lý thuyết dễ dàng khi gặp trong đề thi.
- Cần nắm vững kiến thức giáo khoa.Vì các đáp án trong các câu hỏi lí
thuyết thường “na ná” nhau, rất khó để phân biệt. Do đó, nếu không nắm chắc
các tính chất, định nghĩa, định luật… sẽ không thể chọn được đáp án đúng.
- Nhớ chính xác các công thức trong sách giáo khoa, các đại lượng trong
từng công thức, các đơn vị đo kèm theo và cách đổi các đơn vị. Việc nhớ rõ
công thức là điều rất quan trọng. Vì nếu học sinh không nhớ công thức tất nhiên

sẽ không thể làm bài tập, nhớ sai công thức thì kết quả bài làm sẽ sai. Muốn nhớ
được những công thức mới phải làm bài tập nhiều, càng nhiều càng tốt. Trong
lúc làm vẫn lấy công thức ra xem. Như vậy vừa hiểu rõ công thức, vừa biết áp
dụng đúng và nhớ công thức lâu. Trong sách giáo khoa, để cho dễ hiểu, người
viết thường đưa ra những công thức rút gọn cho những trường hợp đặc biệt từ
một công thức tổng quát. Và điều này giúp chúng ta làm câu hỏi trắc nghiệm
nhanh hơn.
11


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

- Biết liên hệ giữa các công thức Vật lí để tìm ra được công thức có chứa
đại lượng phải tìm. Vì trong đề thi của Bộ, có những câu hỏi phải sử dụng đến
hai hoặc ba công thức mới cho ra được kết quả cuối cùng.
- Biết liên hệ kiến thức giữa các chương có liên quan với nhau. Ví dụ các
chương 1, 2, 3, 4 trong sách giáo khoa chương trình chuẩn đều sử dụng phương
trình dao động, do đó có thể sử dụng cách tính thời gian của chương 1 để tính
điện áp tức thời trong chương 3; liên hệ giữa dao động điện từ và dao động điều
hòa; sự tương tự giữa giao thoa sóng trên mặt nước và giao thoa ánh sáng,...
- Kết hợp kiến thức Vật lí lớp 10 và lớp 11 để giải các bài tập Vật lý lớp
12 cũng như kiến thức của các môn khác, đặc biệt là môn Toán và Hóa để giải
bài toán Vật lý. Ví dụ như sử dụng kiến thức về lực hướng tâm, lực tĩnh điện,
lực Lorentz để giải bài toán Electron trong nguyên tử Hyđrô; sử dụng các kiến
thức về chuyển động của vật bị ném, các kiến thức về định luật bảo toàn, đặc
biệt là định luật bảo toàn động lượng và năng lượng để giải bài toán Vật lí hạt
nhân,...
- Tìm tòi thêm nguồn tài liệu mới. Các nội dung kiến thức trong sách giáo
khoa vốn là kiến thức chuẩn, căn bản nhưng không thể giải thích cặn kẽ hết mọi

vấn đề vì thời lượng chương trình không cho phép. Cho nên, để hiểu rõ và nắm
chắc kiến thức trong sách giáo khoa học sinh cũng cần tìm đọc thêm sách tham
khảo. Đọc thêm nhiều sách giúp học sinh nắm chắc và hiểu đúng, sâu sắc hơn
những kiến thức trong sách giáo khoa. (phải lựa chọn các sách có độ tin cậy cao,
dựa trên sự giới thiệu hoặc có sự kiểm tra của giáo viên).
- Sau mỗi mỗi dạng toán, mỗi chương hoặc mỗi chủ đề, học sinh phải tự
luyện tập và tự đánh giá được kiến thức mà mình đã tiếp thu được thông qua các
dạng bài tập tương tự, các đề ôn luyện (có sự thẩm định của giáo viên). Sau khi
tự làm xong, đối chiếu với đáp án, với những câu đúng kiến thức được khắc sâu,
với những câu làm sai, phải tìm nguyên nhân, để từ đó có những suy nghĩ, định
hướng đúng đắn. Những nhận thức còn mơ hồ, chưa đúng được tháo gỡ, kiến
thức lại được khắc sâu.
2. Một số kỹ năng ôn tập môn Vật lí
* Kỹ năng ôn tập lý thuyết Vật lí
Các câu hỏi lý thuyết thường chiếm khoảng 30% đến 40% số lượng câu
hỏi của đề thi, đặc biệt trong những năm qua các câu hỏi lý thuyết này tương đối
dễ và cũng thường lặp đi lặp lại nhiều lần trong các đề thi nên học sinh cần phải
hết sức chú trọng nắm vững kiến thức giáo khoa để làm tốt các câu hỏi lý thuyết
này. Khi ôn tập phần lý thuyết, học sinh cần chú ý đến những yếu tố cơ bản sau:
- Trước hết cần ôn tập theo chủ đề, theo chương hoặc theo bài, sao cho
hiểu và nhớ đến thuộc từng đơn vị kiến thức cơ bản.
- Lập các bảng so sánh các kiến thức có sự tương tự.
- Thiết lập các hình vẽ, các chủ đề kiến thức giúp học sinh khắc sâu kiến
thức, dễ tái hiện, dễ vận dụng, dễ liên hệ các kiến thức với nhau.
* Kỹ năng ôn tập phần bài tập
12


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”


Với phần bài tập, học sinh cần dựa theo các chuyên đề chia dạng toán và
phương pháp làm tương ứng theo các cấp độ bài tập. Đồng thời, thường xuyên
ôn tập các dạng toán và cách làm để không quên.
3. Một số chú ý để có thể làm tốt đề thi THPT Quốc gia
Nếu các đề thi tự luận thường tập trung vào vấn đề lớn, trọng tâm, có tính
hệ thống thì các đề thi trắc nghiệm có thể đề cập, khai thác tất cả chi tiết của bài
học trong sách giáo khoa, những điều mà đề thi tự luận rất ít hoặc không đề cập
đến. Do vậy học sinh không nên bỏ qua bất kỳ một chi tiết nào trong sách giáo
khoa. Do đó, học sinh phải thật sự nắm chính xác các định luật Vật lí, các định
nghĩa, công thức. Hãy tự tóm tắt thật ngắn gọn, nhưng đầy đủ kiến thức Vật lí
cần thiết, đặc biệt là bảng tóm tắt công thức, hằng số Vật lí thường gặp. Đặc biệt
nên chú ý các vấn đề sau:
- Chú ý về đơn vị, thứ nguyên và tính hợp lý của kết quả: Khi làm
xong các phép tính, cần lưu ý đơn vị ở câu trả lời của đề thi, cân nhắc xem đáp
số có phù hợp với thực tế không. Hãy chú ý về đơn vị và cách viết kết quả theo
quy tắc khoa học.
- Để ý đến các sơ đồ mạch điện và các câu hỏi về đồ thị: Dạng câu hỏi
này ít được quan tâm trong các kỳ thi tự luận nhưng sẽ xuất hiện nhiều trong bài
thi trắc nghiệm. Do các hiện tượng Vật lí xảy ra theo quy luật nhất định nên có
thể tìm thấy bài toán đồ thị ở nhiều nội dung của chương trình. Kỹ năng đọc và
vẽ đồ thị đối với học sinh phổ thông hiện nay có thể nói là khá yếu. Nên giáo
viên cần giúp học sinh rèn luyện các dạng tập loại này nhiều hơn.
- Chú ý đến các hiện tượng Vật lí và ứng dụng trong thực tế: Đề thi
trắc nghiệm sẽ khai thác tối đa các hiện tượng, khái niệm hoặc công thức mà học
sinh do chưa nắm kỹ dễ bị nhầm lẫn. Muốn không bị nhầm lẫn, điều quan trọng
là phải hiểu bản chất các hiện tượng. Đặc biệt, học sinh phải chú trọng đến bài
thí nghiệm thực hành. Môn Vật lý có rất nhiều công thức, việc học thuộc ở một
số học sinh là điều khá khó khăn. Vì vậy để học thuộc được tất cả công thức đó
học sinh phải hiểu được bản chất của từng công thức, và phải chú ý gắn nó với

thực tế.
4. Một số lưu ý khi làm bài trắc nghiệm môn Vật lí
Vì hiện nay đề thi được sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó, có thể thấy
phân thành hai phần khá rõ rệt, phần đầu là những câu hỏi khá dễ (chiếm khoảng
60%) và phần còn lại là những câu hỏi khó hơn. Nên khi làm bài học sinh cũng
nên làm những câu dễ trước, sau đó mới làm các câu khó, chứ chúng ta không
nên đọc lướt toàn bộ đề thi như trước kia. Cụ thể như sau:
Đọc kỹ và hoàn thành nhanh và chính xác khoảng 60% câu hỏi dễ. Cố
gắng sử dụng các phương pháp trắc nghiệm nhanh, hoàn thành mỗi câu trong
khoảng 30 giây, và khoanh xong các câu trong trong thời gian ngắn nhất có
thể. Để thực hiện được điều này, thí sinh cần phải nắm chắc lý thuyết, các định
nghĩa công thức Vật lý trong sách giáo khoa và phải sử dụng thành thạo các thao
tác trên máy tính Casio để bấm nhanh đáp số. Sau đó đọc lướt qua các câu hỏi
13


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

còn lại, lựa chọn câu nào có thể giải nhanh được thì tập trung làm trước. Trong
khoảng 40% câu hỏi khó, hầu như ít có câu hỏi lý thuyết đơn thuần và các công
thức sẵn có, mà đề thi đòi hỏi thí sinh cần phải suy luận logic và biến đổi công
thức mới có thể làm tốt. Thí sinh phải chắc chắn làm câu nào là chính xác câu
đó, với những câu khó quá, không làm nhanh được thì để lại sau cùng. Áp dụng
các mẹo “đánh lụi” để qua bài câu hỏi khó Nếu còn nhiều câu hỏi khó chưa làm
được mà đã sắp hết thời gian làm bài thì thí sinh có thể cân nhắc sự phân bố các
đáp án A, B, C, D của các câu đã làm được, với điều kiện chắc chắn các đáp án
này là đúng. Đáp án nào ít xuất hiện nhất thì khả năng khoanh đáp án đó sẽ có
khả năng đúng cao hơn những đáp án khác. Nếu không còn thời gian để phân
tích các đáp án, thí sinh có thể khoanh đáp án theo trực giác. Lưu ý, không nên

bỏ qua bất kỳ câu hỏi nào.
III. KẾT LUẬN
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, sự nỗ lực học tập nghiêm túc, cộng với
những phương pháp ôn luyện phù hợp, những kỹ năng cần thiết cũng như những
chiến thuật nhỏ khi làm bài sẽ giúp học sinh có thể đạt điểm cao môn Vật lí
trong kỳ thi THPT Quốc gia.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã rút ra được trong quá
trình giảng dạy của mình. Chắc chắn rằng quý đại biểu còn có những giải pháp,
những sáng kiến khác quí giá hơn rất nhiều. Rất mong được sự trao đổi, góp ý
của quý đại biểu tôi có thể tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hơn nữa.

14


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LÀ BÀI TẬP TRẮC
NGHIỆM ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TRONG KÌ THI THPT QUỐC GIA
MÔN VẬT LÍ
Châu Trường Thọ
Trường THPT Mỹ Xuyên
I. Đặt vấn đề
Trong năm học 2016-2017 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số
4818/BGDĐT- KĐCLGD quy định về phương án tổ chức thi THPT Quốc gia
năm 2017. Theo đó, ngoài môn Ngữ văn thi theo hình thức tự luận, còn lại các
môn Toán, Ngoại ngữ, tổ hợp các môn Khoa học xã hội (Sử, Địa, GDCD) và tổ
hợp các môn Khoa học tự nhiên (Lí, Hóa, Sinh) đều thi theo hình thức trắc
nghiệm khách quan TNKQ. Mặc dù từ năm học 2007-2008 đến nay hình thức
TNKQ đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng trong các kì thi tốt nghiệp

THPT và tuyển sinh ĐH, CĐ đối với các môn Vật lí, Hóa học, Sinh vật, Ngoại
ngữ nên việc giảng dạy theo hình thức trắc nghiệm đã được các giáo viên và học
sinh vận dụng khá quen thuộc, nhưng trong năm học này các môn Vật lí, Hóa,
Sinh không thi độc lập mà được gộp thành bộ môn KHTN do đó áp lực khi làm
bài là khá lớn, bởi vì lượng kiến thức vận dụng trong thời gian làm bài là khá
nhiều.
Đặc biệt, đối với hình thức trắc nghiệm khách quan: Khó khăn lớn nhất
đối với học sinh là áp lực thời gian bởi học sinh phải vận dụng cả kiến thức của
môn học và kĩ năng giải bài tập để tìm ra đáp án đúng nhất, trong khoảng thời
gian tương đối ngắn. Đây cũng là điều tương đối khó khăn với học sinh.
Trên cơ sở đó, tổ Vật lí - Công nghệ Trường THPT Mỹ Xuyên xin gửi
đến Hội nghị chuyên đề môn Vật lí bài tham luận “Một số kinh nghiệm giúp học
sinh làm bài thi trắc nghiệm đạt hiệu quả cao trong kỳ thi THPT Quốc gia môn
Vật lí”. Với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm cùng quí đồng nghiệp, nhằm
từng bước nâng cao chất lượng bộ môn.
II. Nội dung vấn đề
1. Thực trạng
Mặc dù đã khá quen thuộc với cách làm bài thi TNKQ, nhưng việc thay
đổi cách thi như hiện nay cũng gây tâm lí hoang mang, lo lắng cho học sinh khi
làm bài trắc nghiệm môn KHTN. Dưới đây là những kinh nghiệm giúp các em
có thể làm bài tốt hơn.
2. Kinh nghiệm làm bài thi TNKQ đạt hiệu quả
a. Thay đổi cách học
15


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

Hiện nay có một số học sinh có tư tưởng là thi TNKQ thì không phải học

bài nhiều, chỉ cần xem khái quát kiến thức rồi dựa vào đáp án có sẵn mà lựa
chọn phương án đúng. Điều này dễ dẫn đến tư tưởng ỉ lại, lười biếng và thiếu sự
chuẩn bị. Đây là một tư tưởng sai lầm, việc làm bài thi dưới dạng TNKQ đòi hỏi
học sinh phải học nhiều, hiểu rõ từng vấn đề, bởi vì kiến thức bài thi thường dàn
trải tất cả chương trình học, nên không thể học “tủ”, mà phải học nhiều, làm
nhiều dạng bài tập khác nhau sẽ giúp ích rất nhiều trong việc làm bài. Và đối với
các bài tập TNKQ không cần phải giải dài dòng mà phải tìm cách giải ngắn nhất
và nhanh nhất. Giải nhanh và chính xác là chìa khóa giúp các em thành công.
b. Phân bổ thời gian khi làm bài
Đối với bài thi TNKQ chúng ta không nên quá tập trung vào một câu hỏi,
bởi vì thời gian dành cho mỗi câu hỏi là rất ít, nếu ta quá tập trung vào một câu
hỏi nào đó thì vô tình ta đã bỏ qua rất nhiều câu hỏi sau.
c. Tập trả lời câu hỏi ngay khi đọc dẫn
Khi đọc câu dẫn thì trong đầu nên có luôn câu trả lời, sau đó ta hãy xem
đáp án nếu đáp án đúng như suy nghĩ thì việc lựa chọn sẽ dễ dàng. Mặt khác
việc trả lời trước khi đọc đáp án sẽ giúp các em không bị “sa” vào những đáp án
gần đúng và việc lựa chọn phương án đúng khi đó sẽ dễ dàng hơn.
d. Nên chú ý đến những câu lựa chọn phương án sai
Ở dạng câu hỏi này các em nên chú ý, bởi vì các đáp án sẽ có nhiều đáp
án đúng và chỉ có một đáp sai nên các em dễ chọn nhầm vào đáp án đúng. Đặc
biệt trong hai phương án đối lập nhau về kiến thức thì chắc chắn có một phương
án sai.
e. Cần phải biết cách quy đổi đơn vị
Đối với các câu hỏi tính toán thì các đáp án thường được quy đổi ra các
đơn vị cho phù hợp, nên học sinh cần phải chú ý đến các thứ nguyên của đơn vị
để lựa chọn phương án đúng.
f. Làm câu dễ trước, câu khó sau và không nên bỏ trống câu trả lời
Trước hết các em cần đọc lướt qua đề, câu nào dễ có thể trả lời ngay, câu
khó thì lướt qua. Sau khi đã trả lời hết các câu dễ thì quay lại các câu khó, và
nếu câu hỏi quá khó mà không thể giải được thì nên lựa chọn đáp án nào mà

trong bài ít xuất hiện nhất thì tỉ lệ đúng sẽ cao hơn là ta khoanh đại mà không
suy nghĩ. Và nhớ là không nên bỏ trống câu hỏi nào, vì thi TNKQ thì yếu tố may
mắn sẽ góp phần giúp các em thành công khi làm bài.
g. Hay làm sẽ quen tay
Đối với mỗi phương án thi, dù là phương án nào thì các em nên chuẩn bị
thật kĩ, làm thật nhiều dạng bài tập khác nhau. Bởi vì ông, bà ta có câu “trăm
hay không bằng quen tay” đều này sẽ giúp các em giải nhanh và chính xác.
16


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

h. Tập thói quen sử dụng thành thạo máy tính cầm tay
Việc sử dụng thành thạo máy tính cầm tay sẽ giúp ích rất nhiều cho các
em trong việc giải nhanh các bài toán Vật lí. Có một số bài tập nếu giải theo
trình tự ta phải mất nhiều thời gian, trong khi đó nếu sử dụng máy tính thì ta chỉ
cần một vài thao tác là có thể tìm được đáp án. Tuy nhiên, khi bấm máy tính
không nên chia ra quá nhiều bước để tính, điều này dễ dẫn đến sai số khi chọn
kết quả.
i. Sử dụng giấy nháp khi làm bài
Đây là cách làm rất hiệu quả, khi làm bài các em nên tập thói quen ghi lại
các suy nghĩ để có thể dựa vào đó mà trả lời. Đặc biệt, đối với các câu hỏi lý
thuyết như đại lượng này thay đổi, đại lượng kia sẽ như thế nào? Đây là dạng
câu hỏi đơn giản nhưng học sinh thường chọn sai vì các em thường nhẫm trong
đầu và chọn mà ít chịu ghi chép. Do đó,việc ghi lại công thức trên giấy nháp sẽ
giúp các em trả lời chính xác hơn.
j. Tâm lí vững vàng trước khi thi
Lo lắng, hồi hộp là tâm lí thường hay gặp phải trước khi thi. Đó có thể là
do các em chưa chuẩn bị tốt kiến thức, thiếu tự tin vào bản thân, điều này ảnh

hưởng rất lớn đến kết quả bài thi. Do đó, trang bị cho mình một kiến thức vững
vàng, bình tĩnh, tự tin và đừng quá gây áp lực cho bản thân sẽ giúp các em làm
bài hiệu quả hơn.
III. Kết luận
Trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 đối với các môn thi trắc nghiệm
mỗi học sinh có một đề riêng (không giống nhau, nhưng mức độ tương đồng)
theo cấu trúc từ dễ đến khó. Cho nên chúng ta cần trang bị cho các em học sinh
kiến thức chuẩn kỹ năng và kinh nghiệm làm bài để đạt kết quả tốt nhất. Cần
nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên về kĩ thuật xây dựng
ma trận đề và biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan với mục đích:
1. Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên trung học phổ thông
về kĩ thuật xây dựng ma trận đề và biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan
theo quy trình chuẩn hóa.
2. Nâng cao năng lực cho giáo viên về việc tổ chức hoạt động dạy học và
kiểm tra, đánh giá nhằm phát triển năng lực và phẩm chất học sinh.
Tôi tin tưởng rằng những thay đổi của ngành để phù hợp với quy luật phát
triển của xã hội vì mục tiêu giáo dục toàn diện và lợi ích của học sinh. Chúng ta
nên có tâm thế thật tốt, trang bị cho học sinh một nền tảng kiến thức vững vàng,
bình tĩnh, tự tin thì thi cử sẽ không còn là áp lực đối với mỗi học sinh.

17


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH
LÀM BÀI THI TRẮC NGHIỆM MÔN VẬT LÍ ĐẠT KẾT QUẢ CAO
Nguyễn Quí Đạo
Trường THPT Trần Văn Bảy

I. Đặt vấn đề
Theo phương án của Bộ Giáo dục và Đào tạo, kì thi THPT Quốc gia 2017
học sinh sẽ phải thi 4 bài thi bao gồm 3 bài bắt buộc Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ
và một bài tự chọn Khoa học tự nhiên (Lí, Hóa, Sinh) hoặc Khoa học xã hội (Sử,
Địa, GDCD). Về đề thi, môn Vật lí sẽ thi theo hình thức trắc nghiệm bao gồm
40 câu, thời gian làm bài 50 phút.
Để làm tốt bài thi trắc nghiệm môn Vật lý đòi hỏi học sinh phải rèn luyện
hai kỹ năng (kỹ năng về kiến thức và kỹ năng làm bài trắc nghiệm).
II. Nội dung
1. Rèn luyện về kiến thức
Trong quá trình chuẩn bị kiến thức cho kì thi tốt nghiệp THPT, việc tổ
chức ôn tập sao cho có kết quả tốt là một công việc hàng đầu, quan trọng nhất.
Việc tổ chức ôn tập không đơn thuần chỉ là việc tái hiện lại những kiến thức đã
học mà phải là sự kết hợp giữa sự tái hiện và tái tạo lại kiến thức, giúp học sinh
nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức, biết vận dụng một cách linh hoạt trong việc giải
quyết các câu hỏi trong bài thi. Để thực hiện được những mục tiêu trên, giáo
viên và học sinh phải có sự chuẩn bị chu đáo cho một tiết ôn tập.
1.1. Về việc chuẩn bị tiết dạy
1.1.1.Về phía giáo viên:
- Phải dự trù những nội dung cơ bản của kiến thức cần truyền tải.
- Soạn giáo án thích hợp cho kiểu bài ôn tập.
- Soạn hệ thống câu hỏi từ dễ tới khó, giao trước cho học sinh chuẩn bị,
tùy theo trình độ học sinh, giáo viên có thể soạn câu hỏi theo nhiều dạng khác
nhau: dạng tái hiện kiến thức một cách thông thường, dạng tái hiện kiến thức
theo dạng sơ đồ khối, dạng điền khuyết, dạng đào sâu kiến thức, ...
- Phải chuẩn bị một bài kiểm tra đánh giá (từ 7 tới 10 phút) trước khi kết
thúc tiết học. Việc này rất quan trọng vì nó giúp giáo viên nắm được tình hình
học sinh một cách trung thực.
Nói tóm lại, giáo viên giao công việc chuẩn bị trước ở nhà cho học sinh
phải thật cụ thể, không chung chung, mơ hồ theo kiểu: các em về nhà chuẩn bị

18


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

trước bài này hoặc phần này mà không có một công việc cụ thể nào cả. Công
việc phải vừa sức để học sinh vui vẻ thực hiện.
1.1.2. Về phía học sinh:
- Phải tuân thủ các yêu cầu của giáo viên.
- Phải chuẩn bị một tâm thế phấn khởi, vui vẻ, sẵn sàng hợp tác với giáo
viên.
Để giúp học sinh đạt được hai yêu cầu trên, giáo viên phải thực sự có tấm
lòng yêu thương học sinh như con em mình, phải cố gắng che giấu cảm xúc
nóng giận khi gặp tình huống không thuận lợi, cố gắng hòa nhã với các em mặc
dù lúc đó có thể các thầy cô đang rất giận. Cũng cần lưu ý là giáo viên cũng
không nên quá cầu toàn, đòi hỏi một sự toàn vẹn ở học sinh, có như thế chúng ta
mới có cảm giác thanh thản khi lên lớp và thầy trò mới có thể hợp tác một cách
vui vẻ, đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp chúng ta thành công trong
công tác giảng dạy.
1.2. Về việc tiến hành ôn tập:
Theo tôi việc ôn tập tiến hành qua 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1: Tái hiện kiến thức
Ở giai đoạn này, chủ yếu là giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại các kiến
thức cơ bản đã được truyền thụ trước đó. Trong giai đoạn này, giáo viên lên lưu
ý những học sinh thuộc dạng từ yếu tới trung bình yếu.
Đây là giai đoạn đòi hỏi sự nhẫn nại, biết kềm chế cảm xúc nóng giận vì
chắc chắn chúng ta sẽ phải đối diện với những học sinh biếng nhác, thậm chí xấc
xược, nếu không, chính chúng ta sẽ làm hỏng tiết dạy.
Giai đoạn 2: Tái tạo kiến thức

Đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng vì trong giai đoạn này, không những
giáo viên giúp học sinh nhớ lại kiến thức đã học mà còn giúp các em từ những
kiến thức đã học khám phá ra những vấn đề mới ứng dụng thực tế xoay quanh
kiến thức đã học.
Trong giai đoạn này, để không bị mất thời gian giáo viên nên tập trung
vào những học sinh có sức học từ trung bình trở lên.
Giai đoạn 3: Kiểm tra hiệu quả đạt được
Trong giai đoạn này, giáo viên cho học sinh làm một bài kiểm tra.
Các câu hỏi kiểm tra phải bao quát được các nội dung chính trong tiết ôn
tập, phải có sự cân đối giữa bài tập và lý thuyết.
Số lượng câu hỏi trong bài kiểm tra không cần phải nhiều mà tốt nhất là
đảm bảo được chuẩn kiến thức ở phần nội dung đã tiến hành ôn tập.
19


Hội thảo “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học của môn Vật lí
trong kì thi THPT Quốc gia”

Giáo viên nên tính toán thời lượng làm kiểm tra sao cho có thể đủ thời
gian sửa chữa ngay tại lớp là tốt nhất.
2. Rèn luyện kỹ thuật làm bài trắc nghiệm
Trong kì thi THPT Quốc gia, việc các em học sinh có một kĩ thuật làm bài
thi trắc nghiệm là rất quan trọng. Với một kĩ thuật tốt, các em sẽ phát huy hết
năng lực của mình, tận dụng được tất cả các kiến thức mà các em có để đem về
những điểm số cần thiết, không bỏ sót những điểm số mà với năng lực và kiến
thức của mình lẽ ra các em phải được hưởng.
Để có thể đạt được những điều trên, theo chúng tôi, học sinh phải tham
khảo một số kinh nghiệm sau đây:
2.1. Về kĩ thuật tô đáp án đã chọn
Có một số học sinh, đặc biệt là những học sinh thuộc dạng trung bình yếu

ở các lớp cơ bản thường không cẩn thận ở khâu này, các em coi thường sự dặn
dò của giáo viên bộ môn trước khi đi thi và cả giám thị coi thi trước khi làm bài.
Chính vì tô không đúng qui cách mà các em có thể bị mất điểm với những câu
đã chọn được đáp án đúng, Vì vậy theo chúng tôi, giáo viên bộ môn nên rèn
luyện kĩ thuật tô của học sinh ngay từ các bài kiểm tra thường kì, không cho các
em chọn đáp án theo hình thức gạch chéo mặc dù chúng ta chấm thủ công.
2.2. Về cách phân phối thời gian cho toàn bài thi
2.2.1. Thứ nhất: Thông thường học sinh có thói quen làm bài ngay trên đề
thi và làm hết bài mới bắt đầu tô vào phiếu trả lời. Theo chúng tôi cách làm này
không hợp lý vì sau khi làm xong bài thi thời gian còn lại rất ngắn nên các em tô
vội vàng, dễ bị nhầm lẫn, qui cách tô không bảo đảm. Vì vậy giáo viên bộ môn
nên yêu cầu học sinh nên tô ngay sau khi đã chọn được đáp án của từng câu hỏi.
2.2.2. Thứ hai: Học sinh không nên dừng lại quá lâu ở một câu hỏi vì có
những mã đề, đề thi bắt đầu từ những câu hỏi khó, nếu học sinh dừng lại quá lâu
ở những câu này các em dể bị mất tinh thần và không tận dụng được những câu
dễ phía sau. Vì vậy theo chúng tôi, giáo viên nên hướng dẫn các em làm bài theo
cách sau đây: học sinh nên dùng giấy nháp ghi kết quả đáp án theo hàng ngang
hoặc hàng dọc, câu nào khó bỏ trống tiếp tục ngay câu tiếp theo sao cho trong 30
phút đầu các em có thể đọc được từ câu 1 tới câu cuối. Ví dụ: 1... ; 2A ; 3D ; 4A
; 5... ; 6B ; 7D ; 8B ; 9.... ; ..... Sau đó các em tiếp tục đáo lại bài thi lần 2 và chỉ
cần nhìn vào giấy nháp là các em xác định nhanh những câu chưa làm được,
không phải lật qua lật lại đề thi nhiều lần, đỡ mất thời gian. Quá trình cứ tiếp tục
tương tự cho tới khi kết thúc bài thi.
2.3. Về cách khắc phục khâu chuyển đổi công thức
Theo quan điểm của chúng tôi, có khoảng 60% học sinh rất yếu về khâu
này. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm này, giáo viên nên hướng dẫn học sinh
tận dụng máy tính để giải quyết vấn đề.
20



×