Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá qua thực tiễn xét xử của toà án nhân dân tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THANH HUYỀN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THANH HUYỀN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI HÀ NỘI
Ngành
Mã số

: Luật kinh tế
: 62 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các số liệu, ví
dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

ĐÀO THANH HUYỀN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MBHH

:

Mua bán hàng hóa

BLDS

:

Bộ luật dân sự

BLTTDS


:

Bộ luật Tố tụng dân sự

LTM

:

Luật thương mại

TA

:

Tòa án

ND

:

Nhân dân

TAND

:

Toà án ND



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA ........................................6
1.1.Khái quát về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa .......................................6
1.2 Khái quát pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa ..........................................................................................................................21
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................24
2.1. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa tại tòa án ..........................................................................................................24
2.2 Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội ............................................................................................51
Chương 3. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI TÒA ÁN ................................................................70
3.1 Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa ..........................................................................................................70
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa .................................................................................................................71
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán
hàng hóa tại tòa án hiện nay ..................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Số liệu giải quyết án tranh chấp HĐMB hàng hóa trong tổng án kinh
doanh thương mại giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tại TAND quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội. ..............................................................................................52
Bảng 2.2. Số liệu giải quyết án tranh chấp HĐMB hàng hóa trong tổng án kinh
doanh thương mại giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tại TAND thành phố Hà Nội
............................................................................................................................52
Bảng 2.3. Số liệu giải quyết án tranh chấp HĐMB hàng hóa trong tổng án kinh
doanh thương mại giải quyết theo thủ tục phúc thẩm tại TAND thành phố Hà
Nội ......................................................................................................................53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay nước ta đang trong giai đoạn đổi mới trong mọi lĩnh vực như về kinh tế,
chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất
đa dạng, pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc
sống.Thông thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng.
HĐMB hàng hóa là một trong những loại hợp đồng đặc trưng và phổ biến nhất
trong hoạt động kinh doanh thương mại, là thỏa thuận của hai bên gồm bên mua và bên
bán nhằm đạt được lợi ích mà các bên mong đợi khi thiết lập hợp đồng.Theo thời gian,
hoạt động mua bán hàng hoá ngày càng phát triển đa dạng, nhiều sắc màu với sự tăng
lên về số lượng hàng hoá, số lượng người tham gia kinh doanh. Ngày nay, mua bán
hàng hoá không chỉ diễn ra giữa bên mua và bên bán trong nước mà phạm vi kinh
doanh lan rộng ra phạm vi thế giới. Cùng với đó, các tranh chấp thương mại nói chung
và HĐMB hàng hoá nói riêng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như sự phức tạp
của từng vụ việc đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật điều chỉnh toàn diện cũng như
cơ chế giải quyết nhanh gọn, làm sao để không ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp
và hoạt động kinh doanh của các bên.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định các hình thức giải quyết tranh chấp trong
kinh doanh nói chung và đối với loại HĐMB hàng hoá nói riêng gồm thương lượng,

hoà giải, Trọng tài và Toà án. Các bên được tự do thỏa thuận hình thức này hay hình
thức khác để giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.
Việc giải quyết các tranh chấp HĐMB hàng hóa tại TA đóng vai trò rất quan
trọng trong việc góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt là góp phần đưa đất nước
phát triển đi lên như mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đề ra.
Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị của cả nước, là địa bàn thu hút đầu tư
mạnh mẽ của các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Cùng với các hoạt động
khác, hoạt động kinh doanh thương mại tại đây diễn ra sôi nổi trong đó có các hoạt
động mua bán hàng hoá. Những năm gần đây, các tranh chấp về HĐMB hàng hoá tại

1


địa bàn thành phố Hà Nội có sự gia tăng khá nhanh. Hiện nay, do đó địa bàn thành phố
Hà Nội được mở rộng, nhiều khu công nghiệp được các nhà đầu tư xây dựng, hoạt
động mua bán hàng hoá diễn ra đa dạng hơn với rất nhiều doanh nghiệp mới được
thành lập trên địa bàn thủ đô.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định khá đầy đủ về trình tự, thủ tục thụ lý và xét
xử đối với các loại tranh chấp trong đó có tranh chấp về HĐMB hàng hoá. Tuy nhiên,
để công tác giải quyết án đối với các tranh chấp mua bán hàng hoá của TAND tại Hà
Nội đạt được hiệu quả cao hơn nữa đòi hỏi phải có sự hoàn thiện về nhiều mặt, trong
đó có việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, về chính sách, về nguồn lực cán bộ,
về điều kiện cơ sở vật chất.
Xuất phát từ nhận thức trên, tác giả lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp về
HĐMB hàng hoá qua thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân tại Hà Nội” làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
- TS Nguyễn Văn Dũng (2001), (chủ nhiệm đề tài), Đề tài cấp Bộ: “Tính đặc thù

trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động-Những vấn đề lý luận và thực
tiễn”,[12] Tòa Kinh tế TAND tối cao - 2001; Đỗ Cao Thắng (2004), Đề tài cấp bộ:
“Những giải pháp nâng cao năng lực và chất lượng xét xử các tranh chấp thương mại
tại TAND”[37] Tòa Kinh tế; Trương Thị Hà, Luận văn thạc sỹ: “Giải quyết tranh chấp
HĐMB hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm tại TAND thành phố Hà Nội”[18]; Khoa luật,
Đại học quốc gia Hà Nội; Phan Trần Duy Khiêm – Đại học Cần Thơ “Pháp luật về
hoạt động mua bán hàng hóa trong nước: lý luận và thực tiễn;[21] Các bài viết trong
các tạp chí chuyên ngành của TAND tối tao, Bộ Tư pháp.
Đã có nhiều công trình và bài báo nghiên cứu về vấn đề này nhưng nhìn chung
các công trình, bài báo mới chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung, chưa có một
công trình nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về việc giải quyết tranh chấp HĐMB
hàng hoá tại TA nói chung và TAND tại Hà Nội nói riêng. Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu

2


về “Giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hoá qua thực tiễn xét xử của Toà án nhân
dân tại Hà Nội” là một vấn đề có tính cấp thiết và có tính thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về HĐMB hàng hóa, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của TA theo quy định của pháp luật hiện hành. Thực trạng
pháp luật và thực tiễn giải quyết các tranh chấp HĐMB hàng hóa tại TAND tại thành
phố Hà Nội, đúc rút những kết quả, những bất cập, hạn chế và xác định rõ nguyên nhân
của những bất cập, hạn chế đó. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra những yêu cầu và
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về HĐMB hàng hóa
tại TAND trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
-


Làm rõ khái niệm, đặc điểm của HĐMB hàng hoá;

-

Làm rõ khái niệm, đặc điểm về tranh chấp HĐMB hàng hoá.

-

Làm rõ các yếu tố tác động và vai trò của việc giải quyết tranh chấp về

HĐMB hàng hóa.
-

Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng giải quyết các tranh chấp về HĐMB

hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm của TAND tại Hà Nội, đúc rút những kết
quả, bất cập, hạn chế và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó.
- Xác định yêu cầu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp từ HĐMB hàng hóa tại TAND ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐMB
hàng hóa, tranh chấp và thẩm quyền quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐMB
hàng hóa tại TA. Thựa tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa tại TAND
thành phố Hà Nội theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm.

3



4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp
phát sinh từ HĐMB hàng hóa, trong đó tập trung nghiên cứu các quy định tại LTM năm
2005, Luật Tổ chức TAND năm 2013 và BLTTDS năm 2015 về vấn đề này. Đồng thời
phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp từ HĐMB hàng hóa tại
TAND thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, logic, phương pháp thống kê... để giải
quyết các nội dung nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong luận văn.
6. Ý nghĩa luận và thực tiễn của luận văn
-

Về phương diện lý luận : Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng

tỏ các vấn đề lý luận về HĐMB hàng hoá, tranh chấp HĐMB hàng hoá và giải quyết
tranh chấp HĐMB hàng hoá theo pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới nhằm đúc rút một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
-

Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu trên phương diện lý luận và từ thực tiễn

giải quyết tranh chấp của TAND tại thành phố Hà Nội góp phần hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm của TA, góp
phần nâng cao nhận thức của những người làm thực tiễn, để áp dụng có hiệu quả trong
thực tiễn công tác của tác giả cũng như các cán bộ làm công tác xét xử tại các Toà án.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo trong học tập, nghiên cứu và giảng
dạy về hơp đồng mua bán hàng hóa và giải quyết tranh chấp về HĐMB hàng hóa.


4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội.
Chương 3:Yêu cầu và những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại tòa án.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1.Khái quát về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.Nhận diện hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.1 Khái niệm hợp đồng mua bánhàng hóa.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Hoạt động mua bán hàng hóa mang các dấu hiệu về chủ thể, đối tượng, mục
đích,...Hình thức pháp lý của mua bán thực hiện thông qua việc ký kết và thực hiện các

hợp đồng. Theo đó, HĐMB hàng hóa là sự thỏa thuận giữa bên mua và bên bán hàng
hóa, bên mua và bên bán cùng nhau ký kết HĐMB hàng hóa để bên bán giao hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hóa, còn bên mua thì có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho
bên bán để nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa.
Mua bán hàng hóa bao gồm mua bán hàng hóa trong nước và mua bán hàng hóa
quốc tế. Mua bán hàng hóa có đối tượng hiện hữu tại thời điểm mà các bên ký kết, thực
hiện hợp đồng và cũng có HĐMB hàng hóa trong tương lại (HĐMB hàng hóa qua Sở
giao dịch). Các loại hợp đồng có điểm tương đồng và có những điểm khác nhau về đối
tượng, chủ thể, hình thức hợp đồng.
Các quy định về hợp đồng được điều chỉnh bởi các nguồn luật khác nhau như
Điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán, thói quen, án lệ ,…Ví dụ Theo Điều 1 Phụ
lục của Công ước La Haye 1964 [22] về “Luật thống nhất về thiết lập mua bán hàng
hóa quốc tế các động sản hữu hình” thì HĐMB hàng hóa quốc tế là HĐMB hàng hóa
được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng trên lãnh thổ các quốc gia khác
nhau nếu có một trong các điều kiện sau:

6


Thứ nhất: hợp đồng liên quan đến vật mà trong thời gian ký kết hợp đồng vật đó
được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này đến lãnh thổ
của quốc gia khác;
Thứ hai, hành vi chào hàng và hành vi chấp nhận chào hàng được thực hiện trên
lãnh thổ của các quốc gia khác nhau;
Thứ ba, việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của một quốc gia khác với
quốc gia nơi tiến hành hành vi chào hàng hoặc hành vi chấp nhận chào hàng. Hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế còn được quy định tại Công ước Viên 1980 của Liên Hiệp
quốc về HĐMB hàng hóa quốc tế. Công ước Viên 1980 mặc dù không đưa ra bất kỳ
định nghĩa nào về HĐMB hàng hóa quốc tế, tuy nhiên, Công ước Viên quy định: Công
ước này áp dụng cho các HĐMB hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các

quốc gia khác nhau. Áp dụng trong hai trường hợp cụ thể là:
1) Khi các quốc gia này là thành viên của Công ước;
2) Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật áp dụng là luật của các nước
thành viên công ước này. Ở Việt Nam, HĐMB hàng hóa quốc tế được biết đến trong
nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như HĐMB ngoại thương (Quy chế tạm thời
số 4794/TN-XNK ngày 31-7-1991 của Bộ Thương nghiệp- Bộ Công thương ngày
nay), HĐMB hàng hóa với thương nhân nước ngoài (LTM Việt Nam năm 1997), hợp
đồng xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa (LTM 2005).
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa, HĐMB hàng
hóa có những đặc điểm sau đây:
*

Về chủ thể của HĐMB hàng hóa

Chủ thể của HĐMB hàng hóa được thiết lập chủ yếu giữa các thương
nhân.Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Như vậy,
chủ thể của HĐMB hàng hóa gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài. Chủ
thể trong quan hệ HĐMB hàng hóa ít nhất một bên phải là thương nhân, bên còn lại có
thể không có tư cách thương nhân. Chủ thể của hợp đồng là một trong các điều kiện để

7


xác định HĐMB hàng hóa có hiệu lực pháp luật. Người ký kết hợp đồng không đúng
thẩm quyền sẽ dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu.
*

Về hình thức của HĐMB hàng hóa


Hình thức của hợp đồng MBHH có thể do các bên lựa chọn hoặc theo quy định của
pháp luật. HĐMB hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại HĐMB hàng hóa mà pháp luật quy định phải được
lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.
Như vậy, về hình thức, HĐMB hàng hóa có thể được thiết lập theo cách thức mà hai
bên thể hiện được sự thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa giữa các bên. Pháp luật cho
phép các bên có quyền tự thỏa thuận với nhau những điều khoản không trái với quy định
của pháp luật. So với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì đây là một sự tiến bộ, theo
hướng có lợi hơn cho các chủ thể tham gia hợp đồng, bởi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy
định, hợp đồng kinh tế (bao gồm cả HĐMB hàng hóa) chỉ được thực hiện bằng hình thức
duy nhất là văn bản.
Đối với HĐMB hàng hóa quốc tế, pháp luật một số nước trên thế giới và
một số điều ước quốc tế như Công ước Rome 1980 về áp dụng luật đối với
nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật Việt Nam và các Hiệp định tương trợ tư pháp
giữa Việt Nam với nước ngoài đều không đưa ra một quy định riêng. Các
nước đều có những quy định đòi hỏi HĐMB hàng hóa quốc tế chỉ hợp pháp
khi thỏa mãn các điều kiện nhất định như hợp đồng phải được ký kết dưới
hình thức văn bản (hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương),
lời nói hay hành vi nhất định.
Đối với hình thức của hợp HĐMB hàng hóa quốc tế, một số quy định không
mang tính bắt buộc mà mang tính lựa chọn. Quy định chỉ rõ không yêu cầu các bên
phải ký, xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào về mặt hình thức
của hợp đồng, nghĩa là không quy định bắt buộc về hình thức của HĐMB hàng hóa
quốc tế. Các bên có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai nhân chứng để
chứng minh sự tồn tại của hợp đồng, tuy nhiên các quy định tại Công ước Viên cũng
cho thấy rằng, nếu nước thành viên mà trong pháp luật của nước đó đòi hỏi hợp đồng

8



phải được ký kết hoặc phê chuẩn dưới hình thức văn bản thì điều quy định này của
pháp luật nước thành viên đó phải được tôn trọng.
Theo Điều 1.2 PICC (nguyên tắc không bắt buộc về hình thức của hợp đồng - No
Form Required), việc giao kết HĐMB hàng hóa quốc tế không đòi hỏi phải tuân theo
bất kỳ điều kiện nào về hình thức. Tuy nhiên, theo Điều 1.4 của PICC về những quy
phạm bắt buộc - Mandatory Rules thì “Bộ nguyên tắc này không hạn chế những quy
phạm bắt buộc, có nguồn gốc quốc gia, quốc tế phù hợp với các quy phạm có liên quan
của tư pháp quốc tế”, tức là nguyên tắc tự do về hình thức của hợp đồng có thể bị hạn
chế bởi các quy định của pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế. Theo đó, nếu trong
pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế có liên quan bắt buộc hình thức của HĐMB hàng
hóa quốc tế phải được xác lập bằng văn bản thì các bên sẽ phải tuân theo quy định này.
Pháp luật Việt Nam quy định hình thức của HĐMB hàng hóa quốc tế phải được
lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Trong đó,
hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ
liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp pháp luật Việt Nam quy định ngoài việc HĐMB hàng hóa quốc tế phải được lập
thành văn bản thì còn phải được đăng ký, phê duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì mới có hiệu lực, ví dụ như đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu
công nghiệp có yếu tố nước ngoài thì phải được sự phê duyệt của Bộ Khoa học và
Công nghệ; ngoài ra HĐMB hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa thì hình thức của hợp
đồng cũng bắt buộc phải bằng văn bản.
*

Về đối tượng của HĐMB hàng hóa

HĐMB hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Hàng hóa bao gồm: a) tất cả các loại
động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; b) những vật gắn liền với đất đai.
Với cách hiểu như vậy, hàng hóa là đối tượng của HĐMB hàng hóa có thể là hàng hóa
hiện đang tồn tại, hiện hữu hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể là

động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông trong thương mại. So với quy định
của LTM 1997 thì đối tượng của hợp đồng đã được mở rộng hơn. Không dừng lại ở
việc liệt kê các loại hàng hóa là đối tượng của hợp đồng, LTM 2005 quy định theo

9


hướng ngày càng mở rộng đối tượng của HĐMB hàng hóa cho phù hợp với xu hướng
phát triển của đất nước.
Liên quan đến việc quy định hàng hóa là đối tượng của HĐMB hàng hóa, pháp luật
của các quốc gia cũng như các điều ước có các quy định khác nhau phù hợp với pháp
luật cũng như tập quán của mỗi nước.Tuy nhiên, tất cả đều có xu hướng mở rộng các đối
tượng là hàng hóa được phép lưu thông trong thương mại.
Ở nước ta, ngoài quy định về các loại hàng hóa được lưu thông trong thương mại
nêu trên, Chính phủ ban hành cụ thể danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh, kinh doanh có điều kiện và điều kiện để kinh doanh các loại hàng hóa này.
Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, các cơ quan chức năng có thẩm quyền
được phép áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với hàng hóa lưu thông trong
nước, theo đó hàng hóa được lưu thông trong nước có thể áp dụng một hoặc các biện
pháp buộc phải thu hồi, cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông, lưu thông có điều kiện
hoặc phải có giấy phép lưu thông đối với một trong các trường hợp sau:
1) Hàng hóa đó là nguồn gốc hoặc phương tiện lây truyền các loại dịch bệnh;
2) Xảy ra tình trạng khẩn cấp.
Công ước Viên 1980 của Liên hiệp quốc về HĐMB hàng hóa quốc tế chỉ loại trừ
(không áp dụng) đối với việc mua bán một số loại hàng hóa như chứng khoán, giấy
đảm bảo chứng từ và tiền lưu thông, điện năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường
không, phương tiện vận tải bằng khinh khí cầu.
Theo pháp luật Hoa kỳ, hàng hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển được
(quyền sở hữu) vào thời gian xác định theo HĐMB hàng hóa; hàng hóa có thể là hàng
hóa đã có ở hiện tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai.

*

Về nội dung của HĐMB hàng hóa
Nội dung của HĐMB hàng hóa là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể

hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Theo đó, bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận tiền; còn bên
mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán.

10


Theo Công ước Viên 1980 về HĐMB hàng hóa quốc tế thì bên cạnh các điều
khoản đối tượng và giá cả, điều khoản về số lượng hàng hóa cũng được coi là điều
khoản chủ yếu, bắt buộc của HĐMB hàng hóa, ngoài ra các bên có thể thỏa thuận và
ghi vào hợp đồng những điều khoản khác.
1.1.2. Nhận diện tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa hàng hóa và giải
quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá
1.1.2.1. Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Tranh chấp thương mại, trong đó có tranh chấp về HĐMB hàng hóa là thuật
ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm
này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây. Hệ
thống pháp luật Việt Nam đã từng tồn tại những khái niệm khác nhau để biểu đạt
loại tranh chấp này. Mặc dù không xây dựng được một khái niệm chuẩn mực về
tranh chấp kinh tế, nhưng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày
16/3/1994[34] và Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 cũng đã liệt kê các tranh chấp
được coi là tranh chấp kinh tế, thuộc thẩm quyền giải quyết của TA kinh tế và trọng
tài kinh tế.
Tranh chấp HĐMB hàng hoá được hiểu là những xung đột, mâu thuẫn về
quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể hợp đồng đó. Những xung đột này có thể

xảy ra ở bất cứ giai đoạn nào trong toàn bộ quá trình diễn ra quan hệ HĐMB hàng
hoá.Về bản chất, mỗi tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi
ích kinh tế giữa các chủ thể.
Tranh chấp về HĐMB hàng hóa phải hội đủ các yếu tố sau đây:
- Thứ nhất, tranh chấp về HĐMB hàng hóa trước hết là những mâu thuẫn (bất
đồng) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ hợp đồng.
- Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải phát sinh từ hợp đồng mua bán
hàng hóa trong thương mại.
- Thứ ba, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân.
Như vậy, không phải bất cứ một tranh chấp HĐMB hàng hóa nào cũng đều là
tranh chấp kinh doanh, thương mại. Một tranh chấp về HĐMB hàng hóa được coi là

11


tranh chấp kinh doanh thương mại khi cả hai bên hoặc một trong hai bên có đăng ký
kinh doanh và đều phải có mục đích lợi nhuận, nếu hai bên đều có đăng ký kinh doanh
nhưng chỉ cần một bên không vì mục đích lợi nhuận thì cũng không phải là tranh chấp
kinh doanh thương mại. Do vậy, việc xét xử các vụ án tranh chấp về HĐMB hàng hóa
của TAND tại Hà Nội nói riêng và ở TAND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
nói chung trên địa bàn cả nước được phân cho hai Tòa chuyên trách riêng biệt là Tòa
Dân sự và Tòa Kinh tế.
1.1.2.2. Những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
mua bán hàng hóa
Nguyên nhân chủ quan
Một nguyên nhân dẫn đến tranh chấp về HĐMB hàng hóa là do sự chủ quan của
các bên trong việc thiết lập hợp đồng. Trong thực tế kinh doanh, việc các bên gặp gỡ
trực tiếp để tiến hành đàm phán và ký hợp đồng không phải lúc nào cũng thực hiện
được. Để ký kết một hợp đồng hoặc thực hiện một thương vụ, có trường hợp các bên
thường chỉ trao đổi rất nhanh thông tin dưới hình thức văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt

hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ thuật.) qua Telex, Fax, thư tín hoặc thậm chí có trường hợp
không có văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì không có vấn đề gì đáng
nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh thì những thiếu sót, sơ hở
của một trong các bên dù nhỏ cũng có thể là nguyên nhân phát sinh tranh chấp. Bởi
vậy, trước khi tiến hành ký kết bất cứ hợp đồng nào, việc soạn thảo chặt chẽ các văn
bản hoặc HĐMB, những phụ lục kèm theo như tài liệu kỹ thuật hay miêu tả về hàng
hoá. phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng cần phải được làm sáng tỏ
ngay để tránh phát sinh những tranh chấp và thiệt hại không đáng có.
Tranh chấp phát sinh từ HĐMB hàng hóa có thể phát sinh do ý chí chủ quan của
các chủ thể trong hợp đồng.
Nhiều hợp đồng hiện nay phát sinh tranh chấp là do khi ký kết, người ký kết
không đủ tư cách đại diện chủ thể, ký hợp đồng với những nội dung, điều khoản
không được pháp luật cho phép, nên khi thực hiện, tất yếu sẽ dẫn đến những vướng

12


mắc, buộc phải sửa hoặc hủy hợp đồng dẫn đến những thiệt hại của các bên làm
phát sinh tranh chấp.
Nhiều doanh nghiệp vì yếu tố lợi nhuận trước mắt mà đàm phán, soạn thảo hợp
đồng một cách vội vã, mang tính hình thức, nội dung sơ sài hoặc mập mờ tối nghĩa,
thiếu sự cân nhắc kỹ càng dẫn đến nguy cơ xảy ra tranh chấp rất cao. Các doanh nghiệp
cần phải hạn chế việc này, bởi HĐMB hàng hóa cần phải được soạn thảo với nội dung
đầy đủ, cụ thể, chứa đựng các điều khoản cần thiết và dự liệu được các cách thức xử lý
với các tình huống có thể phát sinh là cách tốt nhất để ngăn ngừa những bất đồng, tranh
chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Thực tế cho thấy, ngay trong việc ký kết và thực hiện HĐMB hàng hóa quốc tế,
nguyên nhân chủ quan dẫn tới việc phát sinh tranh chấp có thể do những nguyên nhân
như: Năng lực của doanh nghiệp trong quan hệ thương mại quốc tế còn nhiều hạn chế.
Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn trẻ, kinh nghiệm thương mại quốc tế không

nhiều trong khi các chủ thể nước ngoài trong mối quan hệ này thường có tiềm lực và
rất nhiều kinh nghiệm trên thương trường. Do sự thiếu hiểu biết về pháp luật và tập
quán thương mại quốc tế. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tranh chấp do chưa tìm
hiểu kỹ, thiếu các thông tin về đối tác hoặc do ý thức tuân thủ hợp đồng, pháp
luật của doanh nghiệp chưa tốt. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, họ cố tình thực
hiện không đúng những điều khoản đã cam kết, lý do dẫn đến việc này có thể là
trong quá trình thực hiện hợp đồng đã phát sinh những khó khăn nhưng vì yếu tố
lợi nhuận mà họ thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các điều khoản của
hợp đồng dẫn đến phát sinh tranh chấp.
Nguyên nhân khách quan
Sự biến động của những yếu tố như giá cả, tỷ giá, cung cầu ảnh hưởng rất lớn đến
lợi ích của các bên. Trên thực tế, chỉ cần một biến động nhỏ về tỷ giá có thể làm doanh
nghiệp bị lỗ, dẫn đến không chịu thanh toán hoặc mất khả năng thanh toán, hoặc từ
chối mua hàng như đã ký kết trong hợp đồng và làm phát sinh tranh chấp.
Thị trường là một trong những nhân tố rất quan trọng đối với hoạt động
mua bán hàng hóa. Biến động của thị trường có thể tạo điều kiện cho doanh

13


nghiệp kiếm được lãi chồng chất nếu họ tận dụng được cơ hội. Tuy nhiên,
chính thị trường nhiều khi cũng đẩy doanh nghiệp đến ngõ cụt buộc phải vi
phạm hợp đồng.
Nhiều sự kiện bất khả kháng xảy ra ngẫu nhiên trong thực tế sau khi hai bên đã
ký kết hợp đồng. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra ngẫu nhiên ngoài khả năng
kiểm soát của con người. Sự kiện bất khả kháng là một trong những yếu tố được xem
xét để miễn trách nhiệm.
Đối với HĐMB hàng hóa quốc tế, ngoài những nguyên nhân trên, một trong các
nguyên nhân khác có thể làm phát sinh tranh chấp là: Do HĐMB hàng hóa quốc tế là
hợp đồng liên quan đến ít nhất hai hệ thống pháp luật của hai quốc gia, ngoài ra còn có

thể liên quan đến tập quán quốc tế điều chỉnh các quan hệ HĐMB hàng hóa quốc tế,
các bên ký kết lại không tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng dẫn đến việc ký
kết hợp đồng không đúng, không đầy đủ, dẫn đến cách hiểu không thống nhất làm phát
sinh tranh chấp giữa các bên; Do sự thay đổi chính sách và pháp luật điều chỉnh quan
hệ thương mại quốc tế. Sự thay đổi này ảnh hưởng tới hoạt động thương mại theo
hướng có lợi hoặc bất lợi cho doanh nghiệp.
1.1.2.3.Khái niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa
Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh nói chung và trong HĐMB hàng hoá
nói riêng là việc sử dụng các cách thức, các phương pháp và tiến hành các hoạt
động nhất định để loại trừ hoặc khắc phục các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan, đảm bảo sự ổn định và phát
triển của môi trường kinh doanh lành mạnh.
Hoạt động kinh doanh nói chung và giao dịch mua bán hàng hóa nói riêng được
thiết lập giữa các chủ thể với mục đích lợi nhuận ( là những lợi ích kinh tế). Cũng chính
vì mục đích này, nên luôn tiềm ẩn những tranh chấp tất yếu thường trực. Các bên chủ
thể liên quan luôn tin tưởng và hy vọng tranh chấp không sảy ra khi xác lập giao dịch,
tuy nhiên khi các tranh chấp phát sinh từ HĐMB hàng hóa, hoạt động kinh doanh của

14


các chủ thể sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều, các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ
không được đảm bảo và thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội.
Do vậy, tính cần thiết phải đặt ra là phải giải quyết những tranh chấp trên để tạo điều
kiện cho giao dịch mua bán hàng hóa diễn ra bình thường, góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, qua đó bảo vệ môi trường kinh doanh.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh nói chung và trong HĐMB hàng hoá
nói riêng là việc sử dụng các cách thức, các phương pháp và tiến hành các hoạt

động nhất định để loại trừ hoặc khắc phục các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan, đảm bảo sự ổn định và phát
triển của môi trường kinh doanh lành mạnh.
Nhận thấy rằng, mục đích của giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa là làm
chấm dứt tranh chấp. Do vậy, việc các bên sử dụng bất cứ cách thức và phương
pháp nào trừ trường hợp luật cấm, mà có thể loại trừ hoặc khắc phục tranh chấp
đều có thể hiểu, cách thức và phương pháp đó chính là phương thức giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên, dù là hình thức nào đi chăng nữa cũng phải là phương
thức giải quyết tranh chấp thỏa đáng, phù hợp với hoàn cảnh thực tế và phải đáp
ứng được nhu cầu của các bên tranh chấp trong quan hệ HĐMB hàng hóa.
Đặc điểm giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa được thực hiện dựa trên cơ sở
yêu cầu của các bên tranh chấp: HĐMB hàng hóa là quan hệ được pháp luật điều chỉnh
bằng phương pháp thỏa thuận, bình đẳng khi các bên tham gia vào quan hệ đó, vậy khi
phát sinh tranh chấp từ quan hệ trên việc đầu tiên mà các bên tranh chấp quan tâm là
lựa chọn phương thức nào để chấm dứt tranh chấp, tranh chấp của các bên sẽ được giải
quyết từ dựa trên yêu cầu hay sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ tranh chấp. Vì
nói cho đến cùng khi các bên xác lập HĐMB hàng hóa để phục vụ cho lợi ích của
mình, do vậy pháp luật cũng dành sự định đoạt (ý chí, lựa chọn, thỏa thuận) cho chủ
thể trong quan hệ tranh chấp về phương thức giải quyết nó.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa là một thủ tục được thực hiện
theo một trình tự nhất định: Để chấm dứt xung đột tranh chấp trong HĐMB hàng hóa

15


các bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp mà trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định chặt chẽ (thủ tục tố tụng trọng tài; thủ tục tố tụng TA), hoặc có thể
lựa chọn những phương thức đơn giản hơn, nhanh chóng hơn, mà không phải tuân theo
bất cứ một thủ tục mang tính luật định nào, trong trường hợp này trình tự giải quyết sẽ

do các bên tự đưa ra và tiến hành theo.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa được thực hiện thông qua bốn
phương thức cơ bản như: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại, TAND. Trong
số các phương thức này thì thương lượng và hòa giải, trọng tài thương mại là các
phương thức giải quyết tranh chấp không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân
danh quyền lực nhà nước như phán quyết của TA) mà chủ yếu được giải quyết do các
bên tự tổ chức (thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng) hoặc phán quyết của bên thứ ba
độc lập do các bên lựa chọn theo thủ tục linh hoạt. Phương thức giải quyết tranh chấp
còn lại là phương thức giải quyết tranh chấp mang ý chí quyền lực nhà nước được TA
tiến hành theo những thủ tục và trình tự chặt chẽ, nghiêm ngặt.
1.1.2.4. Sự tương đồng và khác biệt giữa giải quyết tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa và giải quyết tranh chấp khác.
Về sự tương đồng: Giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa cũng giống như
việc giải quyết các tranh chấp các loại tranh chấp khác như: tranh chấp tài sản, tranh
chấp về dịch vụ …, đều là việc sử dụng các cách thức, các phương pháp và tiến
hành các hoạt động nhất định để loại trừ hoặc khắc phục các tranh chấp đã phát
sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan.
Với việc coi BLDS năm 2015 là “đạo luật gốc” thì chúng ta thấy rằng[4],
nhiều vấn đề về HĐMB hàng hóa được điều chỉnh bởi pháp luật không có sự khác
biệt so với HĐMB tài sản trong dân sự. Bên cạnh đó, để phù hợp với bản chất
thương mại của HĐMB hàng hóa, một số vấn đề như chủ thể của hợp đồng, hình
thức của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HĐMB hàng hóa,
chế tài và việc giải quyết tranh chấp trong HĐMB hàng hóa được quy định trong
pháp LTM là sự phát triển tiếp tục những quy định của pháp luật dân sự về HĐMB
tài sản.

16


Về sự khác biệt: Việc giải quyết tranh chấp ở mỗi loại hợp đồng cũng có

những điểm khác biệt dễ nhận biết, cụ thể:
Đối tượng của việc giải quyết tranh chấp HĐMB hàng hóa hẹp hơn so với các
loại HĐMB tài sản.
Chủ thể trong HĐMB tài sản rộng hơn chủ thể trong HĐMB hàng hóa khi mọi
tổ chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản đều có thể là chủ thể
của HĐMB tài sản.
Mục đích của HĐMB hàng hóa chủ yếu là để kinh doanh thu lợi nhuận cho
các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục đích
khác cho cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo mong
muốn và nhu cầu của họ trong từng thời điểm. Còn với HĐMB tài sản có thể nhằm
nhiều mục đích khác nhau như : kinh doanh, tiêu dùng, tặng, cho, làm từ thiện hoặc
do sở thích…
Về mặt hình thức của HĐMB hàng hóa: Ưu tiên hình thức thể hiện bằng văn
bản nhằm giảm rủi ro, đảm bảo tính rõ ràng, và có bằng chứng khi xảy ra tranh
chấp. Đối với HĐMB tài sản có thể đa dạng với nhiều hình thức tùy thuộc vào đối
tượng, chủ thể và mục đích trong HĐMB tài sản.
Về mặt nội dung của HĐMB hàng hóa là nêu cao nghĩa vụ đảm bảo sở hữu trí
tuệ. Riêng với HĐMB tài sản k hông có quy định cụ thể về vấn đề đảm bảo sở hữu
trí tuệ.
1.1.2.5. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàn hóa
Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài hay TA là những phương thức giải quyết tranh
chấp mà các bên lựa chọn.
Thương lượng là việc các bên giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh
chấp tự bàn bạc, tự dàn xếp nhằm tháo gỡ những bất đồng phát sinh và tìm giải pháp
chung để giải quyết những bất đồng, tranh chấp của mình. Đặc trưng của cơ chế giải
quyết tranh chấp này được thực hiện thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau, tự
bàn bạc và đi đến quyết định; quá trình thương lượng của các bên cũng không chịu bất
kỳ sự ràng buộc của quy tắc pháp lý hay bất kỳ quy định nào mang tính khuôn mẫu;

17



việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên
mà không có cơ chế pháp lý nào đảm bảo việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên.
Do vậy, ưu điểm của phương thức này là các bên tự thu xếp về thời gian, trình tự và kết
quả giải quyết mà không phải tuân theo quy tắc hành chính chính thống nào và cũng
không bị ràng buộc bởi kết quả thương lượng nếu không tự nguyện. Các bên tham gia
cũng không chịu bất kỳ một khoản chi phí trung gian nào vì trong thương lượng không
có sự có mặt của bên thứ ba. Các bên cũng chủ động được về thời gian và đảm bảo
được bí mật kinh doanh, uy tín nghề nghiệp, vị thế cũng như danh dự của các bên.Việc
thương lượng thành công giúp duy trì mối quan hệ giữa các đối tác trên cơ sở thiện chí
và hợp tác. Chính vì những ưu điểm trên mà thương lượng là biện pháp giải quyết tranh
chấp được doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn và sử dụng. Qua tìm hiểu, tác giả cũng thấy
rằng có nhiều doanh nghiệp dù trong hợp đồng không có điều khoản giải quyết tranh
chấp hoặc có nhưng không lựa chọn phương thức thương lượng nhưng khi có tranh
chấp, họ vẫn sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên thì phương thức giải quyết bằng thương lượng
giữa các bên cũng có một số hạn chế như giá trị thi hành của biên bản thương lượng
phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên mà không có tính bắt buộc như phán quyết của
toà án hay trọng tài; nguy cơ một bên phải chịu thiệt thòi khi thương lượng là rất lớn
trong trường hợp giữa các bên chênh lệch về kinh nghiệm, vị trí trên thương trường;
biện pháp này cũng có thể bị doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ lạm dụng khi cố tình
thương lượng để trì hoãn, kéo dài thời gian qua thời hiệu khởi kiện.
Hoà giải là phương pháp giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba do
các bên lựa chọn để làm trung gian trợ giúp cho các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu cho
việc giải quyết tranh chấp. Đây là phương pháp được ưa chuộng ở nhiều nước trên thế
giới bởi đặc điểm nổi bật là các bên tranh chấp có thể xây dựng quyết định của chính
mình, bên thứ ba chỉ đóng vai trò giúp các bên giao tiếp, không quyết định về vụ việc
và không có sức mạnh để áp đặt giải pháp. Trong quá trình đó, các bên có toàn quyền
trong việc kiểm soát mâu thuẫn hay tranh chấp phát trinh, thiết lập những giải pháp và

tạo thêm những thoả thuận mới phù hợp với họ. Ưu điểm rõ rệt của phương thức giải

18


quyết tranh chấp bằng hoà giải là quy trình tiến hành nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và
chi phí cho các bên; giải quyết tranh chấp bằng hoà giải mang tính chuyên nghiệp, bởi
hoà giải viên thường là những chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến tranh chấp; giúp
các bên giữ bí mật thông tin vì các nội dung trong tiến trình hoà giải thường được các
bên cam kết giữ kín; mặt khác, hoà giải cũng giúp các bên duy trì mối quan hệ, thiện
chí giữa các đối tác. Tuy nhiên, cũng phải nói tới một số hạn chế của việc lựa chọn
phương thức này như kết quả của hoà giải thành chỉ được hình thành trên cơ sở tự
nguyện, không có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các bên; ngoài ra, việc tìm được
những hoà giải viên, trung tâm hoà giải có trình độ, uy tín không phải là điều dễ dàng ở
Việt Nam.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn
và được tiến hành theo quy định của Luật này. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài hiện nay rất nhiều các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn, bởi trọng tài là
phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất riêng biệt, hầu hết các nước đều thừa
nhận trọng tài xét xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Những doanh nghiệp lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
đều nhấn mạnh đến các lý do họ chọn phương thức giải quyết tranh chấp này như việc
xét xử kín đảm bảo cho các bên bảo vệ được bí mật trong hoạt động kinh doanh của
mình cũng như uy tín của mình đối với các đối tác khác, tránh bị coi là đang phải theo
kiện; tính độc lập trong tố tụng trọng tài; các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài
viên, địa điểm xét xử. Đối với tranh chấp HĐMB hàng hoá quốc tế thì có thể kể đến
việc đáp ứng đề nghị của đối tác nước ngoài cũng là một trong những lý do để doanh
nghiệp chọn phương thức giải quyết tranh cấp bằng trọng tài. Ngoài các ưu điểm nói
trên, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam hiện nay cũng
không được doanh nghiệp lựa chọn bởi các lý do như nhiều doanh nghiệp còn nghi ngờ

về hiệu quả thực thi phán quyết trọng tài, không có cơ chế để thi hành phán quyết, hoặc
do năng lực trọng tài viên còn yếu, chưa có hiểu biết đầy đủ về phương thức này hoặc
không biết cơ chế trọng tài sẽ thực thi trong thực tế như thế nào. Nhiều doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay cho biết họ chưa biết đến phương thức giải quyết tranh chấp kinh

19


×