VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------------
PHÙNG THÁI HỘI
(THÍCH TỊNH QUANG)
HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA CỦA NGƢỜI ÊĐÊ HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP NGƢỜI ÊĐÊ Ở HUYỆN }\ƣ\
Mgar)
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------------------------
PHÙNG THÁI HỘI
(THÍCH TỊNH QUANG)
HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH ĐẮK LẮK VÀ ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA CỦA NGƢỜI ÊĐÊ HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP NGƢỜI ÊĐÊ Ở HUYỆN }\ƣ\
Mgar)
Ngành: Tôn giáo học
Mã số: 8 22 90 09
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỒNG DƢƠNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phùng Thái Hội (Thích Tịnh Quang), ngƣời thực hiện luận văn này.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chƣa đƣợc ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn
đƣợc chú thích rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận văn
Phùng Thái Hội
(Thích Tịnh Quang)
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học xã
hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Khoa Tôn giáo học, Học viện
Khoa học xã hội đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập
và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gửi cảm ơn đến quý thầy, cô giáo, những ngƣời phụ
trách khoa Tôn giáo học đã đem hết tâm nguyện, tâm huyết, kiến thức và kinh
nghiệm truyền đạt cho tôi trong thời gian lƣu học tại trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Hồng Dƣơng, bậc thầy
khả kính đã hƣớng dẫn tận tình, chỉ dạy và truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức
và kinh nghiệm có giá trị để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả chƣ thiện tri thức, những bạn bè,
những ngƣời đã gắn bó và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập cũng nhƣ
trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, con xin tri ân đến ân sƣ, cha mẹ, huynh đệ và những ngƣời
thân đã tạo điều kiện để con yên tâm học tập trong suốt thời gian qua.
Xin cảm ơn tất cả!
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Học viên
Phùng Thái Hội
(Thích Tịnh Quang)
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI ÊĐÊ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA
PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI NGƢỜI ÊĐÊ Ở ĐẮK LẮK ................................. 19
1.1. Khái quát về ngƣời Êđê ở huyện }ƣ| Mgar tỉnh Đắk Lắk ........................ 19
1.2. Khái quát về sự du nhập, ảnh hƣởng của Phật giáo đối với đồng bào
dân tộc thiểu số nói chung, ngƣời Êđê ở Đắk Lắk nói riêng .......................... 25
Chƣơng 2: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƢỜI ÊĐÊ VÀ PHƢƠNG
THỨC HOẰNG PHÁP CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở
HUYỆN }Ƣ¥ MGAR HIỆN NAY ................................................................ 35
2.1. Đời sống văn hóa của ngƣời Êđê và Phật giáo trong đời sống văn hóa
của ngƣời Êđê ở huyện }ƣ| Mgar .................................................................... 35
2.2. Thực trạng về hoạt động hoằng pháp và Phƣơng thức hoằng pháp của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở huyện }ƣ| Mgar ảnh hƣởng đến đời sống
văn hóa hiện tại của tộc ngƣời Êđê ................................................................. 48
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP .... 65
3.1. Một số nhận xét ........................................................................................ 65
3.2. Một số khuyến nghị giải pháp .................................................................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 88
CHÚ THÍCH
Địa danh Đắk Lắk có nhiều cách viết:
Viết theo tiếng M’nông thì viết Daklak
Trong văn bản của tiếng pháp thì Darlac
Một số nơi thì lại viết: Đắk Lắc, Đắc Lắk, Dăklăk, Đăk Lăk...
Theo các công văn ban hành của chính phủ thì viết Đắk Lắk.
Ở đây chúng tôi sử dụng theo cách viết theo các công văn của chính phủ là:
Đắk Lắk
Địa danh huyện }ƣ\ Mgar cũng có nhiều cách viết nhƣ CƣM’gar, Chƣ Mga,
Cƣ mga. Luận văn dùng theo tiếng Êđê là: }ƣ\ Mgar, Su\t Mdrang, Su\t
Mdrƣng, }ƣ\ Sƣê
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
VIẾT TẮT
NỘI DUNG CHỮ VIẾT TẮT
1
TT
Thƣợng toạ
2
UV
Uỷ viên
3
GHPGVN
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
4
THPG
Thành hội Phật giáo
5
TW
Trung Ƣơng
6
HĐTS
Hội đồng Trị sự
7
BĐD
Ban Đại diện
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, có thể nói Phật giáo là một trong
những tôn giáo để lại dấu ấn khá đậm nét lên đời sống văn hóa ngƣời Việt từ tƣ
tƣởng, quan điểm đến nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng. Tƣ tƣởng Phật giáo thấm sâu
vào nếp nghĩ, nếp sống của ngƣời Việt, thành lời nhắc nhở của tổ tiên truyền đến
con cháu, rằng phải ăn hiền ở lành, rằng dù sao đi nữa, cũng cứ tin “gieo gió gặt
bão”. Quan điểm Phật giáo đã đi từ hệ thống giáo lý của một tôn giáo vào cuộc đời,
hình thành nên những tâm hồn Việt luôn biết tự nhắc thức nhau: hãy bao dung với
ngƣời, hãy biết “tùy duyên” mà hành xử, bình tâm mà đón gió cuộc đời, bởi đó là
tặng phẩm, là thử thách thú vị mà đời dành cho ta. Nghi lễ Phật giáo dạy con ngƣời
biết cúi đầu tôn trọng, tri ân các bậc Thánh nhân, tiền hiền, những ngƣời có công
với làng xã, dân tộc. Trong sinh hoạt cộng đồng, Phật giáo trao cho những tín đồ
dân dã của mình niềm tin yêu hồn nhiên nhƣng hết mực nhân văn rằng ngƣời chết
và cả ngƣời sống đều có thể sẻ chia cùng nhau ƣớc vọng bình an giữa sóng gió luân
hồi chỉ bằng sự thành tâm, lòng yêu thƣơng dành cho đồng loại trong từng cuộc lễ
cầu an, cầu siêu…
Điều gì đã khiến Phật giáo trở nên gần gũi, thiết thân trong lòng dân tộc Việt
đến vậy? Có rất nhiều lý do đƣợc đƣa ra. Một trong những lý do ấy chính là sự cộng
hƣởng, hòa nhập rất tự nhiên nhƣng không kém phần thú vị giữa tƣ tƣởng, quan
điểm của Phật giáo và lối sống, tâm hồn của dân tộc Việt nói chung. Vì vậy, nghiên
cứu, khảo sát về ảnh hƣởng, mối tƣơng quan giữa Phật giáo và văn hóa Việt Nam
luôn thu hút đƣợc không ít sự quan tâm của khoa học và cả tôn giáo. Tuy nhiên,
diện mạo văn hóa Việt Nam không chỉ đƣợc tạo nên từ văn hóa của tộc ngƣời Việt.
Do đó, nghiên cứu tƣơng quan giữa Phật giáo và đời sống văn hóa Việt Nam, không
thể bỏ qua mối tƣơng quan dấu ấn Phật giáo trong đời sống văn hóa của các đồng
bào dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam. Xuất phát từ suy nghĩ ấy, chúng tôi
chọn đề tài: Hoạt động hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đắk
Lắk và đời sống văn hóa của ngƣời Êđê hiện nay (nghiên cứu trƣờng hợp
1
ngƣời Êđê ở huyện }ƣ\ Mgar). Với đề tài trên, chúng tôi mong muốn tìm hiểu sâu
hơn mối tƣơng quan cũng nhƣ những ảnh hƣởng của Phật giáo đối với đời sống văn
hóa của cộng đồng ngƣời Êđê. Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, luận văn hy vọng
sẽ mang lại cho mọi ngƣời thêm một điểm nhìn, cách nhìn về Phật giáo trong đời
sống văn hóa của tộc ngƣời Êđê ở Đắk Lắk nói riêng, và tộc ngƣời Êđê ở Việt Nam
nói chung. Thông qua đó, có thể có hƣớng hoằng pháp, giải pháp tích cực, phù hợp
nhất để bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp, đồng thời khắc phục, hạn
chế những cách nghĩ, cách sống chƣa phù hợp, lệch lạc (nếu có) của tộc ngƣời Êđê
ở Đắk Lắk hiện nay, để văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo trở thành một dòng
chảy liền mạch, thông suốt, dung hòa một cách trọn vẹn trong dòng chủ lƣu của văn
hóa và Phật giáoViệt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Những công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa của tộc người Êđê
Trong số 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, tộc
ngƣời Êđê đƣợc xem nhƣ là một trong số những tộc ngƣời thiểu số ở Tây Nguyên
có dân số đông nhất. Theo ƣớc tính, có hơn 331.000 ngƣời Êđê cƣ trú ở các tỉnh
Đắk Lắk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa, Phú
Yên. Ngƣời Êđê vốn thuộc ngữ hệ ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo (Malayo –
Polynesia) cũng gọi là Austonesia, tức là Nam Đảo, có nguồn gốc lâu đời từ
vùng biển đảo. Mặc dù đã chuyển cƣ vào miền Trung Việt Nam, rồi di dân lên
vùng đất cao nguyên Tây Nguyên khoảng cuối thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ XV,
song trong tâm thức tộc ngƣời Êđê, bến nƣớc và con thuyền vẫn là những hình
ảnh chƣa hề phai nhạt. Điều này giúp cho ngƣời Êđê tạo nên dấu ấn văn hóa
riêng cho chính mình giữa vô vàn sắc màu văn hóa của 54 dân tộc anh em trên
lãnh thổ Việt Nam từ bao đời qua. Có thể nói, chính nhờ những đặc trƣng riêng
về văn hóa, cách sinh hoạt cộng đồng, ngƣời Êđê đã thu hút đƣợc không ít sự
quan tâm, nghiên cứu của nhiều ngƣời.
Tuy nhiên, đa phần các công trình nghiên cứu này thƣờng chỉ khảo sát chủ
yếu về đặc trƣng văn hóa, cách thức sinh hoạt cộng đồng của ngƣời Êđê đặt trong
2
tổng thể của văn hóa các dân tộc ở Tây Nguyên, còn khá ít những công trình, tài
liệu đề cập một cách đầy đủ, chuyên sâu về tộc ngƣời Êđê. Có thể tạm chia các
tài liệu, công trình nghiên cứu đó thành hai nhóm: Nhóm nghiên cứu đời sống
văn hóa của người Êđê như một bộ phận của văn hóa các dân tộc Tây Nguyên và
nhóm nghiên cứu đời sống văn hóa của người Êđê như một nền văn hóa đặc
trưng, riêng biệt.
Ở nhóm thứ nhất, nhóm nghiên cứu đời sống văn hóa của người Êđê như một
bộ phận của văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, có thể kể đến“Văn hóa dân gian Tây
Nguyên, một cách nhìn”. Trong công trình này, Linh Nga Niê Kdam đƣa ra nhận
xét khái quát về văn hóa các dân tộc Tây Nguyên (có ngƣời Êđê): “Có thể thấy, văn
hóa các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có bản sắc riêng, độc đáo nhưng không hề
tách rời và có tính thống nhất trong bản sắc văn hóa chung của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam” [42, tr. 23-24]. Tuy nhận xét còn chung chung, chƣa chỉ rõ những
biểu hiện cụ thể của “bản sắc riêng, độc đáo” của văn hóa Tây Nguyên, song, tác
giả đã bƣớc đầu gợi mở cho ngƣời đọc những ấn tƣợng ban đầu để đi sâu vào tìm
hiểu văn hóa của đồng bào các dân tộc, trong đó có ngƣời Êđê.
Trong “Trang phục truyền thống của người Ê Đê Bih” tác giả Lƣơng Thanh
Sơn đề cập đến dân tộc Êđê và các nhóm tộc ngƣời ở tỉnh Đắk Lắk, tác giả cho rằng: “
Người Bih là một nhóm của dân tộc Ê đê, có cùng nguồn gốc ngôn ngữ Austronesian(
Malayô-Poolinêdi) lục địa. Cư dân Bih có quan hệ nguồn gốc với người Chăm, Jarai,
Chu ru, Raglai và có quan hệ cộng cư với các dân tộc khác trong khu vực như M’nông
và các nhóm của M’nông…tập sách Trang phục truyền thống người Bih sẽ góp phần
làm sáng tỏ mối quan hệ đó, đồng thời với việc tìm hiểu trang phục người Bih thông
qua những đặc trưng và ứng xử tộc người sẽ giúp các nhà khoa học trong việc đánh
giá trình độ phát triển kinh tế- xã hội-văn hóa của cư dân Bih. Từ đó có những định
hướng đúng đắn cho họ trong việc lựa chọn những ứng xử thích hợp của dân tộc mình
trong hoàn cảnh hiện tại và tương lai.” [48, tr. 8].
Trong cuốn “Sự biến đổi những giá trị xã hội truyền thống của đồng bào các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay”. Phó giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa
3
đã phân tích về giá trị xã hội truyền thống và vai trò của nó trong đời sống xã hội,
thực trạng biến đổi các giá trị xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số
ở Tây Nguyên, đồng thời đƣa ra một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy các giá
trị xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Đến “Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên”, Linh Nga
Niê Kdam đi sâu vào nghiên cứu về các nghi lễ, sinh hoạt truyền thống, tôn giáo tín
ngƣỡng của đồng bào Tây Nguyên, cụ thể là ở ngƣời Êđê. Công trình nghiên cứu
gồm 3 chƣơng.Trong đó, chƣơng I – giới thiệu khái quát về địa bàn cƣ trú; các tộc
ngƣời Jrai, Êđê, Sê đăng, Bahnar, M'nông, K'ho; đời sống văn hóa, kinh tế, sinh
hoạt cộng đồng của các tộc ngƣời. Chƣơng II, đi vào tìm hiểu một số nghề truyền
thống của các tộc ngƣời. Chƣơng III, đánh giá về vai trò của nghề thủ công trong
đời sống cộng đồng quá khứ và hiện tại. Từ đây, tác giả đƣa ra một số nhận xét về
tộc ngƣời Êđê: “Tùy theo các lễ cúng lớn hay nhỏ, điều cầu xin quan trọng đến đâu
đối với gia đình hoặc cộng đồng, mà dùng lễ vật hiến sinh là gà, heo, hay bò. Tuy
nhiên, các lễ cúng lớn bao giờ cũng phải có trâu. Các nhóm thuộc ngữ hệ Mã Lai –
Đa Đảo đều có ăn trâu (hiến sinh) nhưng tộc người ÊĐê không có nghi lễ và hình
thức đâm trâu” [43, tr. 73]. Với nhận xét này, có thể thấy, tộc ngƣời Êđê cũng có
những đặc trƣng riêng biệt về văn hóa, sinh hoạt cộng đồng, không hoàn toàn “đồng
nhất” với văn hóa của các tộc ngƣời ở địa bàn Tây Nguyên. Bên cạnh đó, khi bàn về
sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng ngƣời Êđê, Jrai, Linh Nga Niê Kdam thấy rằng:
“Hôn nhân Ê Đê, Jrai mang nhiều tính nhân văn: từ tục “ở dâu” để báo hiếu cha
mẹ chồng, đến việc không ép buộc, cũng không áp đặt nặng nề về lễ vật dẫn cưới,
thậm chí nếu chưa đủ lễ vật hai họ sẽ cho nợ và tổ chức cưới lớn sau. Đặc biệt việc
trao vòng bao giờ cũng được tổ chức trang trọng, tuy hình thức nhìn vào là đơn
giản, nhưng lại được đảm bảo như một lời đính ước bền vững. Sau này bên nào vi
phạm sẽ bị phạt đền bù cho cả phía bên kia lẫn cộng đồng” [43, tr. 90].
Đi xa hơn nữa, khi bàn về tín ngƣỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc, tác giả
cho rằng: “Tính cho đến những năm đầu thế kỉ XXI đã có đến 90% các dân tộc bản
địa Tây Nguyên từ bỏ tín ngưỡng truyền thống để trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo
4
và Tin Lành. Nhưng có một điều lạ là: số người theo đạo Phật (gần như “quốc
đạo” của Việt Nam) lại hầu như rất ít. Do đồng bào theo tập quán bầy đàn, nên
cùng đồng tâm theo các tôn giáo du nhập từ phương Tây? Hay các dân tộc thiểu số
Tây Nguyên không phải là đối tượng tuyên truyền được lựa chọn của Phật giáo?
Điều này chưa có cuộc khảo sát nào để đưa ra kết luận chính thức” [43. tr. 82]. Ý
kiến này đã gợi mở cho luận văn một hƣớng nghiên cứu mới, đó là thử đi vào tìm
hiểu, lý giải vì sao Phật giáo chƣa có đƣợc ảnh hƣởng thật sự tích cực, mạnh mẽ
trong lòng đời sống văn hóa các dân tộc Tây Nguyên nói chung, ngƣời Êđê nói
riêng. Vì sao một tôn giáo từng đƣợc xem là “quốc đạo”, từng có thời hoàng kim
trong lịch sử Việt Nam lại có một “chỗ đứng” khá khiêm tốn ở Tây Nguyên, giữa
dòng chảy văn hóa của ngƣời Êđê?
Nhƣ vậy, có thể thấy, dù vốn tài liệu nghiên cứu còn khá ít ỏi, song, những
đánh giá trên đã phác thảo, gợi mở cho những ai mong muốn tìm hiểu về đời sống
văn hóa của ngƣời Êđê có đƣợc cái nhìn mang tính định hƣớng, khơi dậy niềm hứng
thú để bƣớc vào thế giới văn hóa của tộc ngƣời Êđê.
Ở nhóm thứ hai, nhóm nghiên cứu đời sống văn hóa của người Êđê như một
nền văn hóa đặc trưng, riêng biệt có thể nhắc đến tác giả Trƣơng Bi – Bùi Minh Vũ
với tác phẩm“Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc người Ê Đê, M’nông”.Tác
giả đã nói lên thực trạng văn hóa truyền thống các tộc ngƣời Êđê, M’nông và một số
kết quả đạt đƣợc về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc ngƣời Êđê, M’nông,
đƣa ra những giải pháp cơ bản về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc ngƣời
Êđê, M’nông. Từ những kết quả nghiên cứu này, ngƣời đọc có thể phần nào hình
dung đƣợc đặc trƣng, những chuyển biến của đời sống văn hóa tộc ngƣời Êđê trong
dòng chảy văn hóa Việt Nam đƣơng đại.
Ngoài ra, trong “Nghi lễ - lễ hội Ê Đê”, tác giả Trƣơng Bi cũng đã đề cập
khá chi tiết đến tộc ngƣời Êđê ở Tây Nguyên. Ở đây, ngƣời đọc có thể tìm thấy đặc
trƣng về không gian văn hóa Êđê thông qua đời sống sinh hoạt cộng đồng. Tác giả
đã miêu tả khá cụ thể, chi tiết về những nghi lễ - lễ hội đặc trƣng của ngƣời Êđê nhƣ
nghi lễ - lễ hội vòng đời, lễ cúng cho ngƣời mẹ mang thai, lễ đặt tên thổi tai, lễ
5
trƣởng thành, lễ cƣới, lễ cầu an - cầu sức khỏe, lễ cúng sức khỏe, lễ tang, lễ ăn trâu
bỏ mả, và nghi lễ - lễ hội nông nghiệp nhƣ: lễ cúng rẫy, lễ cầu mƣa - cầu đƣợc mùa,
lễ mừng trận mƣa đầu mùa, lễ cúng thần gió, lễ tuốt lúa, lễ rƣớc thần lúa vào kho, lễ
ăn cơm mới, lễ ăn trâu mừng đƣợc mùa - đón năm mới và một số nghi lễ - lễ hội cổ
truyền khác nhƣ: lễ cúng bến nƣớc, lễ cúng vào nhà mới, lễ đón uống rƣợu cần
mừng năm mới, lễ đón khách quý, lễ rƣớc k’pan…Từ những nghi lễ này, Trƣơng Bi
nhận xét rằng: “Qua sự tiếp biến, giao thoa với văn hóa đa sắc tộc từ khắp mọi
miền đất nước đến Tây Nguyên, văn hóa Ê Đê đã hòa nhập, tiếp biến, giao thoa và
chọn lọc những cái hay, cái đẹp của văn hóa của dân tộc mình trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Đó là văn hóa thuộc ngữ hệ Nam Đảo, kín đáo, sâu sắc, đầy sức
sống của cộng đồng” [6, tr. 59]. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của nghi lễ - lễ
hội trong việc gắn kết cộng đồng ngƣời Êđê:“…bên cạnh những giá trị tâm linh
mang đậm tính nhân văn sâu sắc, thắm đượm tình người, tình làng buôn thì đây còn
là dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng khá sinh động. Ở đây, các loại hình sinh hoạt
văn hóa dân gian như diễn tấu cồng chiêng, múa tung khắc, múa trống, hát dân ca,
kể khan, ẩm thực, trang phục dân tộc, mỹ thuật dân gian… được thể hiện vô cùng
độc đáo, giàu bản sắc. Đây cũng là dịp để đồng bào ôn lại truyền thống, thắt chặt
thêm tình đoàn kết của cộng đồng” [6, tr.96].
Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra những ý kiến mang tính chất “cảnh báo” trƣớc
những biến chuyển chƣa hay, chƣa đẹp trong nghi lễ - lễ hội của đồng bào dân tộc
Êđê trong tình hình hiện nay: “Sự thay đổi tín ngưỡng cũng đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng. Hầu hết các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian trước đây đều
diễn ra xung quanh các nghi lễ- lễ hội nhưng giờ đây nhiều nơi không còn tổ chức
các nghi lễ- lễ hội truyền thống mà được thay bằng những lễ nghi tôn giáo mới. Ở
những nơi này, cồng chiêng bị bọn xấu coi là những nhạc cụ của thần linh, tà giáo,
không được sử dụng và cần phải xóa bỏ, hoặc đem bán gây nên tình trạng “ chảy
máu” cồng chiêng, ché, thổ cẩm, tượng nhà mồ... trong các buôn làng” [6, tr.164].
Tác phẩm“Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Ê đê” của Tuyết Nhung Buôn Krông,
chỉ ra rằng “Người Ê đê là một tộc người thuộc xã hội mẫu hệ khá điển hình ở Việt
6
Nam. Những nguyên tắc mẫu hệ chi phối nhiều mặt trong tổ chức gia đình, xã hội
và in dấu rõ rệt trong đời sống văn hóa của người Ê đê”[41, tr. 45]. Tác giả còn đi
vào tìm hiểu về vai trò của ngƣời phụ nữ trong đời sống văn hóa của ngƣời Êđê:
“Vai trò người phụ nữ được biểu hiện sinh động trong luật tục, chuyện kể, được
hình tượng hóa trong kiến trúc dân gian ( nhà mồ, cồng chiêng). Qua đó, chúng ta
có thể thấy người phụ nữ không chỉ có vai trò trực tiếp đối với gia đình, dòng họ mà
còn có tác động gián tiếp đối với thiết chế tổ chức xã hội Ê đê” [41, tr. 46]. Từ đây,
Tuyết Nhung Buôn Krông nêu lên một nhận xét khá xác đáng: “Sự quyết đoán, chủ
động theo kiểu nữ tính của họ lại là một trong những phẩm chất cần thiết để họ
hoàn thành tốt vai trò của họ trong cộng đồng mẫu hệ. Mặt khác họ rất dịu dàng,
khiêm nhường, nép mình bên người chồng. Đó là tính cách đa diện của phụ nữ Ê
đê” [41, tr. 200].
Trong công trình nghiên cứu của Phó giáo sƣ, Tiến sĩ. Hà Đình Thành với đề
tài: “Cộng đồng dân tộc Ê đê ở tỉnh Đăklăk hiện nay” đã nghiên cứu một cách toàn
diện và hệ thống về cộng đồng dân tộc Êđê, về nguồn gốc cũng nhƣ đời sống văn
hóa của tộc ngƣời Êđê, trong đó tác giả có đề cập đến tôn giáo nhƣng cũng chỉ dừng
lại ở hai tôn giáo đó là Công giáo và Tin lành.
Riêng tác giả Trƣơng Thị Hiền với “Luật tục Ê Đê – một nền tư pháp hòa
giải những giá trị xã hội và sự biến đổi”cho rằng: “chúng tôi cho rằng luật pháp và
luật tục đều là “luật”- là những hiện tượng xã hội với những thuộc tính: (1) có
những quy tắc mang tính bắt buộc, (2) những quy tắc này được áp đặt bởi một
nhóm xã hội nào đó, và (3) những quy tắc này có thể thay đổi. Theo đó, luật tục và
pháp luật cùng có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, cùng hướng đến trật tự
xã hội. Có điều, nếu luật pháp hướng đến trật tự xã hội chung thì luật tục hướng
đến trật tự cộng đồng. Nếu như luật tục chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc đối với các
thành viên trong cộng đồng thì luật pháp lại có tính phổ biến và bắt buộc chung đối
với tất cả các thành viên trong quốc gia”[ 27, tr. 44]. Trƣơng Thị Hiền đã phát hiện
ra những yếu tố rất nhân văn trong luật tục của tộc ngƣời Êđê: “... luật tục Ê đê là
biểu hiện của một nền tư pháp hòa giải khi mà, cách giải quyết của người phân xử
theo luật tục chủ yếu nhấn mạnh sự hòa giải, giáo dục hơn là kết tội, trừng phạt.
7
Ngay cả khi một người bị quy tội thì biện pháp trừng phạt thật chất là một hình thức
hòa giải, giáo dục. Việc phân xử hướng tới sự hài hòa lợi ích của các bên liên quan
có thể lý giải sự lựa chọn của nhóm người nghèo thường dựa vào luật tục và các
quyền không chính thức để bảo vệ quyền của mình. Điều này dường như vô lý bởi
nếu tuân thủ luật tục thì có thể họ bị mất chi phí nhiều hơn về thời gian và tiền bạc
so với việc giải quyết sự việc có liên quan theo luật pháp. Nhưng đối với người Ê đê
thì lại hợp lý khi mà “sau khi họ thi hành ngay hình phạt bồi thường cho người vi
phạm, họ sẽ được dân làng bỏ qua lỗi lầm và có thể hòa nhập ngay với cộng đồng.
Còn xử theo luật pháp, mức bồi thường có thể thấp hơn nhưng họ thấy có gì đó
không thoải mái, khó khăn hòa nhập vào cộng đồng” [27, tr. 216-217].
Ngoài ra, tác giả còn nêu lên cơ sở tồn tại của luật tục Êđê: “ Sự tồn tại của
luật tục Ê đê có những cơ sở kinh tế xã hội cơ bản là: (1) định chế kinh tế nương rẫy
cùng với quan niệm “đất đai là cái lưng của ông bà” khẳng định quyền sở hữu tài
sản cộng đồng của người Ê đê; (2) định chế gia đình mẫu hệ Ê đê với những quan
niệm về dòng họ, hôn nhân, thừa kế tài sản, mô hình nơi cư trú...;(3) định chế văn
hóa của người Ê đê với lối sống cộng đồng, tín ngưỡng đa thần, lối sử dụng lời nói
vần trong sinh hoạt cộng đồng” [27, tr. 232].
Có thể nói, đây là một trong số ít những công trình nghiên cứu về ngƣời Êđê
khá chi tiết, tinh tế, xác đáng. Tài liệu này đã giúp luận văn có cái nhìn toàn diện
hơn về gƣơng mặt văn hóa Êđê, để có những định hƣớng nghiên cứu tiếp theo.
2.2. Những công trình nghiên cứu về hoạt động hoằng pháp của Phật giáo
hướng đến đồng bào dân tộc thiểu số
So với những công trình nghiên cứu về ngƣời Êđê thì những công trình nghiên
cứu, bài viết về hoạt động hoằng pháp của Phật giáo hƣớng đến đồng bào dân tộc
thiểu số càng có số lƣợng khiêm tốn hơn. Trong kỷ yếu hội thảo hoằng pháp toàn
quốc năm 2011, tổ chức tại Bình Dƣơng có một số bài tham luận về hoạt động
hoằng pháp hƣớng đến dân tộc thiểu số.
Trƣớc hết phải kể đến tham luận “Hoằng pháp và đồng bào dân tộc”của Đại
đức Thiện Minh Ủy viên Hội đồng trị sự, Ủy viên ban Hoằng pháp Trung ƣơng,
trong đó tác giả đề cập đến những yêu cầu đối với ngƣời hoằng pháp. Đó là những
8
ngƣời phải thật tu, phải thật học, phải có tƣớng mạo, phải có tâm, phải viết lách khá
tốt và phải có sức khỏe. Đại đức đề cập đến những biện pháp để thực hiện hoằng
pháp cho ngƣời dân tộc có hiệu quả: thứ nhất là tâm không phân biệt, thứ hai là biết
ngôn ngữ của họ, thứ ba là lập chùa trong vùng dân tộc, thứ tƣ là tiếp độ ngƣời dân
tộc xuất gia, thứ năm là gây quỹ để giúp ngƣời dân tộc và cuối cùng là mở những
khóa tu để dạy đạo cho ngƣời dân tộc.
Thƣợng tọa Thích Huệ Thông (Ủy viên. Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo,
Quyền Trƣởng ban Trị sự Thành hội Phật giáo Bình Dƣơng) trong bài tham luận
với chủ đề “Nhu cầu và giải pháp truyền bá Phật pháp đến tận vùng sâu vùng xa
của Tổ quốc” cho rằng: “Kể từ ngày GHPGVN được thành lập đến nay đã 30 năm,
mặc dù Phật giáo đã phát triển lớn mạnh trên khắp mọi miền đất nước trong suốt
thời gian gần một phần ba thế kỷ qua, tuy nhiên công tâm nhìn nhận thì giữa Phật
giáo vùng đồng bằng với Phật giáo vùng miền núi, giữa Phật giáo miền ngược và
Phật giáo miền xuôi vẫn còn sự chênh lệch khá xa trong việc thọ nhận nguồn văn
hóa Phật giáo cũng như tiếp nhận ánh sáng giáo lý Phật Đà. Có thể nói rằng, đây
là một sự thiệt thòi đáng tiếc của quần chúng Phật tử vùng sâu vùng xa.Chính vì
vậy mà việc truyền bá Phật pháp đến tận vùng sâu vùng xa cần phải được xem là
nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp hoằng pháp độ sanh, nhất là trong thời kỳ Phật
giáo phát triển rực rỡ như thời đại ngày nay.” [24, tr.119].
Trong bài tham luận với chủ đề “Nhu cầu và giải pháp truyền bá Phật pháp
đến tận vùng sâu vùng xa” của Hòa thƣợng Thích Thiện Duyên (Trƣởng ban
Hƣớng dẫn Phật tử Trung ƣơng Giáo hội Phật giáo Việt Nam) đƣa ra một số giải
pháp cho hội thảo xem xét: “1. Thành lập hội đồng tư vấn truyền giáo để nghiên
cứu, đề xuất tư vấn cho ban hướng dẫn, ban hoằng pháp trong việc thực hiện
truyền pháp vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Báo cáo kết quả về Hội
đồng Trị sự nếu ở cấp trung ương, Ban Trị sự nếu ở cấp tỉnh, thành phố. 2. Nâng
Tiểu ban Dân tộc trong Phân ban Cư sĩ thành Phân ban chuyên trách đảm nhiệm
công tác hoằng pháp đến vùng cao, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số từ trung ương
đến tỉnh, thành thuộc Ban Hướng dẫn Phật tử. Phân ban này có trách nhiệm nghiên
9
cứu những chính sách, ngôn ngữ tập quán, văn hóa của dân tộc ở vùng cao, vùng
xa. 3. Giáo hội cần tranh thủ sự ủng hộ của đảng, nhà nước với công tác phát triển
kinh tế, văn hóa- xã hội, trong đó có đời sống tín ngưỡng tâm linh. Liên hệ chặt chẽ,
tăng cường tiếp xúc với lãnh đạo chính quyền các tỉnh vùng cao, xa của đất nước để
có sự nhìn nhận đúng đắn vai trò của Phật giáo với dân tộc và sự giúp đỡ. Xây
dựng mỗi xã, huyện có một số thành tựu nhất định như: xây dựng được ba ngôi
chùa tại huyện đảo Trường Sa, thành lập một số cơ sở ở miền núi…, đây cũng là
tiền đề để Tăng, ni có điều kiện thực hiện sứ mệnh của mình. 4. Tổ chức nhiều đoàn
hoằng pháp, các khóa tu, kết hợp với hoạt động từ thiện đến vùng sâu, vùng xa…
đặc biệt là các vị giảng sinh lớp đào tạo cao trung cấp, tăng ni sinh của các học
viện, các trường cao đẳng, .v.v.. để truyền bá Phật pháp và giúp Tăng, ni trẻ hiểu
biết, nhận thức đúng sứ mệnh của mình, thông qua đó tuyển chọn vào thành viên
của Ban hướng dẫn, Ban hoằng pháp và vận động họ sau khi tốt nghiệp ra trường
trở lại các vùng này để đảm nhận công tác Phật sự. 5. Cử những Tăng, ni, cư sĩ có
tài năng, đức độ trong ban chuyên trách về dân tộc, đảm nhiệm từng khu vực để
giải quyết kịp thời công việc của từng khu vực, đồng thời các vị ấy cũng có thời
gian để tập trung vào chuyên môn trong khu vực của mình, tìm ra những giải pháp
thích hợp nhất để tập trung vào chuyên môn trong khu vực của mình, tìm ra những
giải pháp thích hợp nhất để hoằng dương Phật pháp. Ưu tiên đào tạo người dân tộc
bản xứ. 6. Soạn thảo kinh sách, băng đĩa, tài liệu Phật pháp ra các thứ tiếng thổ
dân để giúp đồng bào bản xứ vùng sâu, vùng xa học và tìm hiểu Phật pháp được dễ
dàng. Ban Giáo dục Tăng ni tổ chức các lớp học tiếng dân tộc, tuyển chọn những
người dân tộc trẻ có điều kiện từ vùng cao xuống miền xuôi để học tập, tạo điều
kiện cho họ về kinh tế tài chính và học hỏi Phật pháp, sau khi tốt nghiệp trở về bản
xứ, họ là kênh chuyển tải và lan tỏa Phật pháp hiệu quả nhất. 7. Tăng cường các
hoạt động từ thiện nhân đạo với các vùng đồng bào dân tộc, vùng cao, vùng xa,
thành lập quỹ học bổng, bệnh viện khám chữa bệnh, trường học, trung tâm phục vụ
người già…8. Mỗi năm, trung ương Giáo hội cũng như tỉnh thành hội, nên dành
một phần tài chánh để phục vụ cho hoạt động công tác Phật sự tại vùng cao, vùng
10
xa. Suốt chặng đường hoằng pháp của chúng ta, đây là thời điểm thích hợp nhất
cho việc truyền bá chánh pháp ở vùng sâu, vùng xa. Bởi chính sách tự do tôn giáo,
tự do tín ngưỡng và chính sách ưu tiên xây dựng phát triển kinh tế xã hội ở vùng
cao, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước. Hội thảo lần
này là cơ hội tốt, để chúng ta cùng nhau bàn thảo phương thức hoằng truyền ánh
sáng từ bi và trí tuệ của đức Phật, trải rộng đến khắp mọi miền đất nước và 54 dân
tộc anh em, nhằm thực hiện bản hoài của đức Phật, vì lợi ích của chư thiên và loài
người”[ 24, tr.116- 117].
Trong bài “ Một số đóng góp của Phật giáo cho xã hội nông thôn Việt Nam
hiện nay”, Thạc sĩ. Dƣơng Hoàng Lộc (Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn- Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) có nhận xét: “Phật giáo có vai trò
rất lớn cho sự nghiệp phát triển nông thôn nước ta ngày nay. Trước nhiều vấn đề xã
hội nổi cộm, với tinh thần từ bi của người con Phật, giới Phật giáo cả nước đã có
nhiều đóng góp, giúp đỡ người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số để họ vượt qua nhiều khó khăn trước mắt. Điều này đã được xã hội ghi
nhận.Tuy nhiên, để tăng cường tính hiệu quả hơn nữa, những hoạt động giúp bà
con nông dân của Phật giáo cần phối hợp với kiến thức và kỹ năng của ngành công
tác xã hội, đặc biệt là phát triển cộng đồng. Phật giáo Việt Nam, với đặc trưng
mang tính nhập thế, sẽ là niềm động viên để chia sẻ với những khó khăn người nông
dân khi họ đối đầu với bệnh tật, ô nhiễm môi trường sống, mất việc làm, bỏ quê xa
xứ, nghèo đói,…. Cả về vật chất lẫn tinh thần, nhất là ý thức tự vươn lên thoát
nghèo, tin tưởng vào năng lực nơi bản thân. Như vậy, đạo Phật sẽ tiếp tục tỏa sáng
trong lòng dân tộc trên bước đường hội nhập và phát triển hiện nay. Hy vọng ngôi
chùa Việt mãi là chỗ dựa, nơi chia sẻ những mất mát đau thương, nơi thắp lên niềm
hy vọng về cuộc sống và bảo tồn những giá trị tâm linh truyền thống của người
nông dân lam lũ, nhọc nhằn bao đời nay”[24, tr. 157].
Với bài “Để Phật giáo vùng cao nguyên ngày thêm rạng rỡ với bản sắc riêng”,
tác giả Dƣơng Kinh Thành có đánh giá về Phật giáo Đắk Lắk nhƣ sau: “Mặc dù
trong nhiệm kỳ qua, đã có hàng ngàn đồng bào Ê đê, M’nông, Nùng, Tày, Mường,
11
Thái… đã quy y Tam bảo, tu học tại các chùa. Và để phục vụ việc tu học của họ,
Ban Văn hóa đã xuất bản cuốn “Lịch sử Đức Phật Thích Ca và Giáo pháp của
Ngài” và cuốn “Nghi thức tụng niệm” bằng song ngữ Việt- Ê đê. Tuy vậy, Phật
giáo Đăk Lăk chưa có chiến lược phát triển lâu dài về mặt này và xem đó là đặc thù
riêng của mình. Định hướng phát triển ở đây cần chuyên sâu hơn trong từng chi tiết
dành riêng cho bà con như thiết lập bàn thờ Phật, nghi thức tụng niệm tại nhà, tạo
điều kiện cho chính bà con chủ sám, làm lễ theo phong cách của dân tộc mình.
Chúng ta chưa thấy có những nhân tố xuất gia nào của bà con người dân tộc ngay
trên chính mảnh đất nơi mà họ đã từng sống ngày trước! Chưa thấy có, ít ra là một
ngôi chùa mang đậm bản sắc người Tây Nguyên để cho bà con mỗi khi bước vào
không ngỡ ngàng xa lạ với chung quanh. Rất thương cho bà con muốn theo Phật,
mà mỗi bước đi còn lạ lẫm ngỡ ngàng, thậm chí xa vời với buôn làng bản ấp của
mình, thì thiệt thòi biết bao nhiêu! Đó là những tồn tại của Phật giáo Đăk lăk nhiều
nhiệm kỳ qua, hy vọng sẽ được tái lập và khơi dậy trách nhiệm trong nhiệm kỳ
mới”[26, tr. 22].
Trong bài tham luận của Ban Hoằng pháp tỉnh An Giang với chủ đề: “Hoằng
pháp với đồng bào dân tộc”, Đại đức Thích Thiện Trí đã đề cập đến hoạt động
hoằng pháp với ngƣời dân tộc trên tinh thần giải thoát. Tác giả cho rằng Phật giáo là
đạo từ bi, đạo giải thoát đƣa con ngƣời đến con đƣờng chân, thiện, mỹ. Nói đến
Phật pháp là nói đến phƣơng pháp hợp lý, hợp cơ. Đem chánh lý áp dụng thích hợp
nơi căn cơ con ngƣời hiện thời là Phật pháp. Hoặc nói “Phật pháp bất định pháp”,
tức là giáo pháp của đức Phật không cố định, không câu nệ một cách cứng nhắc mà
luôn luôn linh động, tùy thời, tùy cơ. Nhƣng không phải tùy cơ mà biến mất bản
chất Phật giáo, chủ trƣơng của Phật giáo là “Tùy duyên nhi bất biến” hoặc ngƣợc lại
“Bất biến nhi tùy duyên”. Bản chất từ bi, trí tuệ, giải thoát của Phật giáo không bao
giờ thay đổi, nhƣng phƣơng tiện thực hiện từ bi cần phải tùy thời, tùy cảnh và tùy
căn cơ của chúng sanh. Vì thế, Phật giáo đến nƣớc nào liền có hình thái thích nghi
với dân tộc nƣớc ấy, cho nên, Phật giáo ở nƣớc nào là của dân tộc nƣớc đó và cũng
mang tên nƣớc đó. Nhƣ “Phật giáo Việt Nam”.
12
Với tham luận “Hoằng pháp vùng dân tộc thiểu số nội dung và một số giải
pháp”, Phó giáo sƣ, Tiến sĩ Trần Hồng Liên đƣa ra các định hƣớng lâu dài và
định hƣớng trƣớc mắt cho hoạt động hoằng pháp. Theo đó, định hƣớng trƣớc mắt
là phải tổ chức thƣờng xuyên các buổi thuyết giảng ngắn trong tháng, sinh hoạt
văn hóa-nghệ thuật tại các buôn làng và kết hợp hoạt động từ thiện - xã hội với
hoạt động kinh tế. Về định hƣớng lâu dài, tác giả cho rằng cần phải đào tạo
hoằng pháp viên, xây dựng tự viện vùng dân tộc thiểu số, ấn tống kinh sách, văn
hóa phẩm Phật giáo. Phó giáo sƣ, Tiến sĩ Trần Hồng Liên cũng đƣa ra một số giải
pháp ở mức độ cao hơn trong vấn đề tổ chức, cần thiết có sự điều phối của Ban
Hoằng pháp Trung ƣơng- Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhƣ việc vận động kinh
phí cho vấn đề hoằng pháp ở vùng sâu, vùng xa; tổ chức các khóa huấn luyện
hoằng pháp viên phục vụ vùng dân tộc thiểu số. Các khóa học này cần đƣợc tổ
chức thƣờng xuyên, liên tục để có thể đáp ứng nhân sự cho nhiều vùng; thƣờng
xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi thông tin, sinh hoạt, kinh nghiệm giữa
các ban hoằng pháp tỉnh. Những buổi sinh hoạt này cũng cần có sự tham dự của
nhiều thành phần trong xã hội, là những ngƣời có kiến thức về dân tộc, có kinh
nghiệm sống thời gian dài trong vùng dân tộc, có nhiệt tình và khả năng tài chính
để có thể hỗ trợ trên nhiều mặt hoạt động.
Trong bài tham luận của tỉnh Đắk Lắk với đề tài “Vai trò hoằng pháp đối với
đồng bào Phật tử dân tộc ít người tại Tây Nguyên”, Tỳ kheo Thích Minh Đăng nêu
lên 10 tiêu chí để hoằng pháp nhƣ: 1. Phải thực sự thƣơng yêu ngƣời đồng bào dân
tộc bằng tất cả tình thƣơng của lòng từ bi nhƣ lời Phật đã nói cần phải đem ánh sáng
Phật pháp đến với những chúng sinh do thiếu phƣớc mà sinh ra nơi chốn xa xôi,
biên địa. Chúng ta phải xem họ nhƣ huynh đệ ruột thịt, không phân biệt, chia rẽ.
Bởi bản chất của ngƣời đồng bào là rất thật thà, nên họ rất mặc cảm, nhất là khi đƣa
họ về chùa trong các dịp lễ lớn, nếu chúng ta không quan tâm chăm sóc họ trong
những lúc đó, thì họ thật sự rất buồn và không muốn tới chùa nữa. Vì vậy, chúng ta
cần tổ chức một đội ngũ tri khách nhiệt tâm tại các chùa mỗi khi có đồng bào về. Tổ
chức chu đáo nơi ăn uống, nghỉ ngơi nếu cần thì ngƣời Kinh phải nhƣờng chỗ cho
13
họ một cách vui vẻ. Ân cần nói chuyện tạo cho họ sự gần gũi mật thiết. Không nên
để họ sinh hoạt một nơi, ngƣời Kinh một nơi. Khi lễ Phật trong chánh điện hoặc
nghe thuyết pháp thì nên hƣớng dẫn họ ngồi lên trên, không nên để họ ngồi phía sau
và ngƣời Kinh dành ngồi phía trƣớc. Khi vào bữa ăn, nên ngồi chung mâm với họ
để có sự chăm sóc và tạo môi trƣờng thân thiện. 2. Thiết lập, huấn luyện một lực
lƣợng cƣ sĩ hoằng pháp với sự dấn thân không mệt mỏi, không chấp công, không vụ
lợi vào các nơi có đông đảo đồng bào sinh sống để truyền bá đạo pháp, hƣớng dẫn
tu tập cho họ biết lễ Phật, tọa thiền, tụng kinh làm công đức. Luôn bám sát các vùng
đồng bào dân tộc đã quy y. Thƣờng xuyên đi vào buôn ít nhất một tuần một lần, bởi
sau khi quy y mà chúng ta không vào buôn làng thƣờng xuyên thì chỉ sau một tháng
thậm chí là một tuần họ sẽ bỏ chúng ta đi theo đạo khác. Chúng ta cần thấy rõ rằng
các đạo khác không thua mình về công tác hoằng pháp có thể nói là hơn hẳn về các
phƣơng pháp tiếp cận truyền bá giáo lý, khả năng tài chính. Chỉ có giúp cho đồng
bào tu tập và hiểu rõ giáo lý Phật pháp thì ngƣời đồng bào mới vƣợt qua đƣợc mặc
cảm, không bị kẻ xấu mua chuộc làm ảnh hƣởng đến lao động sản xuất, tự vƣơn lên
trong cuộc sống tạo ra của cải vật chất không còn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của mọi
ngƣời nữa. 3. Phải tạo điều kiện cho các tu sĩ, cƣ sĩ học tiếng đồng bào, trang bị
trình độ giáo lý Phật pháp sao cho phù hợp với tầm nhận thức của đồng bào không
nên nói xa quá, cao quá, khó hiểu. Nên xem lại việc in sách, kinh bằng tiếng dân tộc
bởi không phải ngƣời dân tộc nào cũng biết chữ của họ. Số biết rất ít. Chƣa kể tại
Việt nam chúng ta rất đa dạng dân tộc làm sao chúng ta dịch cho hết từng ấy tiếng.
Vì vậy khi in ra tặng cho đồng bào, họ không đọc bỏ đi rất lãng phí. Tiền in sách
này dùng trang bị cho cƣ sĩ học tiếng dân tộc thì có hiệu quả hơn. Một cƣ sĩ truyền
bá giỏi bằng tiếng dân tộc ngay tại địa phƣơng họ, hiệu quả hơn hoằng pháp cực kỳ
tốt đẹp. 4. Băng đĩa thuyết pháp cho ngƣời đồng bào cần lựa chọn nội dung cho phù
hợp với họ và cần dịch qua tiếng của từng dân tộc, có minh họa hình ảnh cho sinh
động. Nếu có thể ban hoằng pháp sẽ sắp xếp lại bài giảng cụ thể đúng trình độ sơ cơ
của họ. 5. Nạn phá rừng, giết hại động vật hoang dã là nguồn gốc của thiên tai, bão
lụt, hạn hán mất mùa. Cho nên chúng ta cần dùng Phật pháp để vận động bà con dân
14
tộc chấm dứt các vấn nạn trên cũng là một hình thức hoằng pháp theo tinh thần yêu
thƣơng của Đức Phật. Đừng để cảnh bà con cứ tiếp tục phá rừng còn chúng ta cứ
tiếp tục vận động quyên góp tiền bạc, vật chất đem cho. Thời gian tới đây nếu cây
rừng không còn, dẫn đến hạn hán nặng… đến cây lúa không sống nổi, thì ngay
chúng ta cũng khó sống chứ đừng nói đến giúp đỡ cho ai. 6. Nên áp dụng dung hòa
yếu tố tập quán phong tục với tín ngƣỡng tâm linh. Tiếp cận sinh hoạt để tìm hiểu
tập quán, thấy điểm nào gần giống thì phát huy, điểm nào là hủ tục mê tín ta tìm
cách hóa giải dần. Chẳng hạn nhƣ lập đàn dƣợc sƣ cầu an đầu năm hoặc chúng ta
hƣớng dẫn thực hiện các nghi lễ tôn giáo cho họ thông qua các lễ ma chay. Bên
cạnh đó, nghi lễ cũng là một phƣơng tiện hữu hiệu nhất để đƣa Phật giáo vào lòng
ngƣời ví dụ nhƣ lễ hoằng thuận là dịp tốt để đƣa thuyết giảng về tam quy- ngũ giới.
Muốn vậy phải đào tạo ban nghi lễ cho các Phật tử đồng bào dân tộc ít ngƣời. 7.
Xây dựng chùa cho đồng bào dân tộc ít ngƣời vùng sâu, vùng xa. 8. Tổ chức các lễ
hội văn hóa và Phật giáo để thay thế các lễ hội đâm trâu, ăn cơm mới, bỏ mả….9.
Hoằng pháp kết hợp từ thiện. 10. Phải có sự đồng thuận, giúp đỡ của các cấp nhà
nƣớc, giáo hội từ trung ƣơng đến địa phƣơng tạo mọi điều kiện tốt nhất để các cƣ sĩ
thực hiện công tác hoằng pháp trong đồng bào dân tộc không nên để xảy ra cảnh
trống đánh xuôi, kèn thổi ngƣợc. Hoặc chỉ mang tính phong trào, phô trƣơng chạy
theo thành tích mà không có chiều sâu.
Ngoài ra, có thể kể đến những tham luận trong hội thảo với chủ đề “Sinh hoạt
Phật giáo trong đồng bào các dân tộc vùng cao, miền núi Tây Nguyên” nhƣ: Hoằng
pháp với đồng bào dân tộc của Ban Hoằng pháp tỉnh Đắk Lắk; Công tác hoằng
pháp tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum của Thƣợng tọa Thích
Quang Hạnh; Phật giáo Đăklăk với đồng bào dân tộc Tây Nguyên của Đại đức
Thích Giác Phổ; Hoằng pháp đối với đồng bào dân tộc ít người của Đại đức Thích
Minh Đăng; Ứng dụng Tứ nhiếp pháp đối với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên
của Đại Đức Thích Lệ Ngôn; Nhiệm vụ của một hoằng pháp viên của Tuệ Đức Quy;
Kế hoạch hoằng pháp tại vùng sâu vùng xa của Phật tử Nhuận Hạnh; Triển khai
chương trình hoằng pháp tại vùng sâu vùng xa của Hòa thƣợng Thích Viên Thanh;
15
Phương cách hướng dẫn đồng bào dân tộc tu theo chánh pháp của Đại đức Thích
Nhuận Pháp; Người Phật tử dân tộc làm gì cho công tác Phật sự vùng sâu vùng xa
của Đại đức Thích Vạn Nhơn; Triển khai chương trình hoằng pháp ở vùng sâu
vùng xa của Phật tử Hồ Thị Kim Duyên; Tổ chức thành lập các đạo tràng tu học tại
vùng sâu vùng xa của Đại đức Thích Đồng Giải….
Nhìn chung, từ những bài tham luận, những ý kiến do các tác giả đề xuất, có
thể thấy rằng, hoạt động hoằng pháp cho ngƣời dân tộc thiểu số ngày càng đƣợc
quan tâm hơn. Quan điểm chung của các tác giả là chú trọng các hoạt động thực
tiễn, xuất phát từ nhu cầu và lợi ích thiết thực cho đồng bào ngƣời dân tộc. Tuy
nhiên, với nếp sống, nếp nghĩ, cách sinh hoạt, tƣ duy của đồng bào, nhất là đối với
những đồng bào dân tộc mà tôn giáo chính không phải là Phật giáo, hoạt động
hoằng pháp lại là một vấn đề đáng phải lƣu tâm hơn. Làm sao để giáo lí Phật giáo
đƣợc đồng bào đón nhận mà vẫn không tạo nên những “tranh chấp” về tƣ tƣởng,
sinh hoạt truyền thống của đồng bào, đó là một thử thách không nhỏ đối với tu sĩ
Phật giáo ngày nay. Ở đây, trong giới hạn của đề tài luận văn, hy vọng có thể phần
nào đƣa ra những giải pháp khả thi nhất, thiết thực cho vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghi lễ - lễ hội, luật tục và đời sống văn hoá của ngƣời Êđê và
những hoạt động Hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với đời sống
văn hóa cộng đồng ngƣời Êđê hiện nay, từ đó đề xuất khuyến nghị, giải pháp cho
hoạt động hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất tìm hiểu về đời sống văn hóa của tộc ngƣời Êđê.
- Thứ hai nghiên cứu ảnh hƣởng của Phật giáo đối với đời sống sinh hoạt
của tộc ngƣời Êđê tại Đắk Lắk hiện nay.
- Đề xuất giải pháp (cho hoạt động hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam) hƣớng đến việc dung hòa giữa văn hóa truyền thống bản địa và tƣ tƣởng, quan
điểm Phật giáo hiện nay, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa tộc ngƣời.
16
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động Hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đắk Lắk và
đời sống văn hóa của ngƣời Êđê hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tộc ngƣời Êđê ở huyện }ƣ\ Mgar , Đắk Lắk.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Lý thuyết nghiên cứu:
Luận văn vận dụng lý thuyết thực thể tôn giáo để thấy rõ một thực thể tôn
giáo với cốt lõi là niềm tin tôn giáo, sự thực hành tôn giáo và cộng đồng sinh hoạt
tôn giáo. Vận dụng lý thuyết cấu trúc, lý thuyết chức năng mỗi một nghi lễ- lễ hội
để tìm ra những nét tƣơng đồng, góp phần giữ gìn và nâng cao giá trị văn hóa của
mỗi dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đối với một đề tài nghiên cứu về thực hành tôn giáo, luận văn sử dụng những
phƣơng pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử và hệ thống: dựa vào lịch sử luận văn tìm
hiểu nguồn gốc hình thành và phát triển của tộc ngƣời Êđê từ đó tìm hiểu văn hóa lễ
hội cũng nhƣ luật tục và tìm những nét tƣơng đồng với Phật giáo.
Phương pháp phân tích lý thuyết, tổng hợp lý thuyết: đƣợc sử dụng ở chƣơng
1 mục 1.1 sau khi thu thập các thông tin tài liệu, luận văn vận dụng 2 phƣơng pháp
trên để phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu về văn hóa của tộc ngƣời Êđê, so sánh
trong tam tạng Phật giáo để tìm ra những điểm tƣơng đồng.
Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra sự nhìn nhận hiểu biết của đồng
bào về Phật giáo, phỏng vấn ngƣời có uy tín các buôn, lập bảng hỏi các đạo tràng
tộc ngƣời Êđê về chùa tu tập.
Phương pháp so sánh: So sánh các nghi lễ - lễ hội, luật tục của tộc ngƣời Êđê
để tìm những chỗ tƣơng đồng với nghi lễ và giới luật của Phật giáo.
Phương pháp hỗn dung tiếp biến giao thoa văn hóa ( lý thuyết thích nghi và
biến đổi văn hóa)
Phương pháp điền dã
17
Với một đề tài hoàn toàn mới, luận văn sử dụng phƣơng pháp điền dã là rất
quan trọng để thu tập tài liệu thực tế, đó cũng là phần quyết định chính trong luận văn
nghiên cứu của chúng tôi. Phƣơng pháp này nằm trong chƣơng II và chƣơng III.
Phương pháp tham dự, quan sát
Chúng tôi cùng tham dự và quan sát các khóa tu của đạo tràng tộc ngƣời Êđê tại
các chùa hay ở nhà của tộc ngƣời trong buôn. Trải nghiệm thông qua các nghi lễ, lễ hội
của tộc ngƣời để cảm nhận và định hƣớng hoạt động hoằng pháp của Phật giáo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Với đề tài: “Hoạt động hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh
Đắk Lắk và đời sống văn hóa của tộc ngƣời Êđê hiện nay” chúng tôi hy vọng luận
văn sẽ là nguồn tài liệu khoa học căn bản hữu ích cho những ai muốn khảo cứu về
ảnh hƣởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của tộc ngƣời Êđê ở Đắk Lắk
cũng nhƣ ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài cung cấp vốn kiến thức cơ bản về văn hóa nghi lễ - lễ hội, luật tục của
tộc ngƣời Êđê, và những thay đổi bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào, đề
cao những giá trị văn hóa bản sắc riêng của tộc ngƣời và giải pháp bảo tồn các giá
trị văn hóa hữu ích trong đời sống.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm
3 chƣơng:
Chương 1: Khái quát về ngƣời Êđê và ảnh hƣởng của Phật giáo đối với
ngƣời Êđê ở Đắk Lắk
Chương 2: Đời sống văn hoá của ngƣời Êđê và phƣơng thức hoằng pháp
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ở huyện }Ƣ\ MGAR hiện nay
Chương 3: Một số nhận xét và khuyến nghị giải pháp.
18