Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 101 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš

TRIỆU HƯƠNG GIANG

NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš

TRIỆU HƯƠNG GIANG

NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Kinh tế Chính tri
Mã số: 60 31 01 02

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Đức Nhuấn

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ‎ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
1.1 Những vấn đề lý luận về nông nghiệp công nghệ cao
1.2 Thực trạng nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG

Trang
3
14
14
28

NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
55

2.1

TRONG THỜI GIAN TỚI
Quan điểm cơ bản phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở

55

2.2

thành phố Hà Nội
Những giải pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp công

nghệ cao ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

67
87
90
96


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhằm thúc đẩy kinh tế & phát triển sản xuất nông nghiệp, giải quyết
những vấn đề về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu…. phục vụ cho đời sống
xã hội, trên thế giới từ những năm giữa thế kỷ XX, tại các nước phát triển đã
xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao, mở ra hướng phát triển mới đo
là nông nghiệp công nghệ cao. Tại Hoa Kỳ, đầu những năm 80 của thế kỷ XX
đã co hơn 100 khu khoa học nông nghiệp công nghệ cao. Ở Anh đến năm
1988 đã co 38 khu vườn khoa học công nghệ với sự tham gia của hơn 800
doanh nghiệp. Ở Phần Lan năm 1996 đã co 9 khu khoa học nông nghiệp công
nghệ cao….Tại Châu Á, nông nghiệp công nghệ cao đã được các nước thuộc
khu vực Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan thực
hiện… tiêu biểu là tại Trung Quốc vào những năm 1990 đã xây dựng và phát
triển các khu nông nghiệp công nghệ cao. Những khu này đã đong một vai trò
quan trọng trong việc phát triển nền nông nghiệp hiện đại của Trung Quốc.
Hiện nay Trung Quốc đã co 405 khu NNCNC, trong đo co 1 khu NNCNC cấp
quốc gia, 42 khu cấp tỉnh và 362 khu cấp thành phố [40].
Ở Việt Nam, sản xuất nông nghiệp phát triển khá nhanh với những
thành tựu trong các lĩnh vực cơ giới hoa, lai tạo chọn giống, kỹ thuật canh
tác…, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá nông nghiệp tăng khá gop phần

thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Công nghệ cao đã bước đầu được
áp dụng trong nông nghiệp nước ta và thu được những thành tựu nhất định,
gop phần nâng cao năng suất, chất lượng một số sản phẩm nông nghiệp chủ
lực như lúa, điều, ca cao, cà phê, cao su, bò, lợn, gà vịt...Thành phố Đà Lạt
(Lâm Đồng) và thành phố Hồ Chí Minh là nơi co nhiều mô hình sản xuất
theo hướng chuyên môn hoá cao, cây giống rau và hoa đã được sản xuất
công nghiệp để cung cấp cho người trồng trọt. Tại thành phố Hà Nội đã co


4
một vài mô hình trồng rau, hoa, cây cảnh ứng dụng công nghệ cao, đem lại
giá trị sản lượng gấp 5 đến 10 lần so với phương thức canh tác cũ. Đo là mô
hình trồng hoa và rau trong nhà kính, nhà lưới co hệ thống điều khiển tưới
và chăm soc tự động và bán tự động đã mở ra một hướng mới trong sản xuất
nông nghiệp của Thành phố. Trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng
thủy sản, chế biến nông sản...tỷ lệ ứng dụng công nghệ cao so với lĩnh vực
trồng trọt tuy thấp hơn, song cũng đã tạo ra những sản phẩm chất lượng,
từng bước khẳng định thương hiệu Hà Nội.
Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta noi chung,
thành phố Hà Nội noi riêng vẫn chưa co định hướng cụ thể và phát triển
đồng bộ. Triển khia thực hiện các dự án nông nghiệp công nghệ cao đang
còn phải tiếp tục bổ sung hoàn thiện. Một số sản phẩm nông nghiệp công
nghệ cao chưa co chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới và ngay cả thị
trường trong nước. Nhiều vấn đề lý luận về nông nghiệp công nghệ cao đang
hình thành và còn phải tiếp tục bàn thảo. Trong khi đo, thực tiễn phát triển
nông nghiệp công nghệ cao đang thiếu lý luận khoa học đi trước một bước
để chỉ đạo dẫn đường. Vì vậy, để xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ
cao, thu hẹp khoảng cách tụt hậu về nông nghiệp so với các nước tiên tiến
trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao,
làm thế nào để đông đảo nông dân và các tham gia làm nông nghiệp công

nghệ cao ở các tỉnh thành cả nước noi chung và thành phố Hà Nội noi riêng
là vấn đề cần thiết co ý nghĩa to lớn. Từ những lí do trên, vấn đề: Nông
nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội hiện nay, được học viên chọn làm
đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nông nghiệp nước ta tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoa,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, đảm bảo an ninh lương thực quốc


5
gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí cao trên thị trường thế giới như
gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản. Khoa học, công nghệ, cơ giới hoa
nông nghiệp được áp dụng rộng rãi gop phần tăng năng suất lao động, tái cơ
cấu ngành nông nghiệp. Những kết quả đạt được trong sản xuất nông nghiệp
đã gop phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội, duy trì tăng trưởng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, đầu tư cho nông
nghiệp vẫn còn thấp so với vị trí, tiềm năng và nhu cầu phát triển. Nông
nghiệp nước ta phát triển chưa bền vững, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh thấp; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu. Việc
chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và đổi mới phương thức sản xuất
trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, manh
mún; giá trị gia tăng nhiều mặt hàng còn thấp. Nền nông nghiệp Việt Nam noi
chung, nông nghiệp thành phố Hà Nội noi riêng đang đối mặt với nhiều thách
thức và kho khăn trong xây dựng nông nghiệp công nghệ cao. Để gop phần
giải quyết kho khăn đẩy lùi thách thức, các nhà khoa học đã và đang nghiên
cứu kinh nghiệm phát triển nông nghiệp công nghệ cao của các nước trên thế
giới mong muốn tìm kiếm các giải pháp để vận dụng vào Việt Nam. Tuy
nhiên, theo học viên được biết số đầu sách trực tiếp viết về nông nghiệp công
nghệ cao ở Việt Nam hầu như không co, chủ yếu là các bài viết phản ánh thực
trạng nông nghiệp công nghệ cao và đưa ra những định hướng gop phần đáp

ứng nhu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất kinh doanh của
nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp nước ta. Sau đây là các sách viết
những vấn đề liên quan đến đề tài được tác giả luận văn tổng quan gồm co:
- Khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi
mới của Vũ Năng Dũng (chủ biên), Đỗ Ánh, Chu Hoài Hạnh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2005. Đây là công trình mang tính tổng kết những thành tựu
trong việc phát triển khoa học - công nghệ 20 năm đổi mới ở nước ta (1986 -


6
2005) trên các lĩnh vực cụ thể như: trồng trọt và bảo vệ thực vật; chăn nuôi, thú
y; đất và phân bon; cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch; lâm
nghiệp; thủy lợi; kinh tế - chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đồng
thời các tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp để phát triển nông nghiệp và nông
thôn ở các lĩnh vực nêu trên.
- Phát triển thị trường khoa học - công nghệ giữa Hà Nội và các tỉnh,
thành phố trong cả nước của Nguyễn Minh Phong, Trần Trung Hiếu, Phạm Thị
Thanh Bình, Nxb Tài chính, Hà Nội 2005. Tác giả đã phân tích những vấn đề cơ
bản về thị trường khoa học - công nghệ và việc phát triển thị trường này giữa Hà
Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước. Thực trạng, phương hướng và các giải
pháp chủ yếu để phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Hà Nội trong thời
gian tới.
- Ứng dụng khoa học công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp Huyện Sóc Sơn của Nguyễn Đình Chính, Trần Đình Đằng, Nguyễn Đình
Long, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 2005. Tác giả đã trình bày lý luận về ứng dụng
và tình hình ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp ở huyện Soc Sơn - Hà Nội trong những năm gần đây. Đưa ra
những định hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Soc Sơn.
- Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam của Phan Xuân Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

2008. Tác giả đã trình bày xu hướng phát triển khoa học - công nghệ trên thế
giới những năm tới; quan điểm và một số giải pháp phát triển, ứng dụng công
nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở
Việt Nam như: giải pháp về vai trò chủ đạo của nhà nước trong phát triển công
nghệ cao; giải pháp phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển khoa
học - công nghệ; giải pháp về cơ chế quản lý đối với cơ quan nghiên cứu phát
triển khoa học - công nghệ.


7
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta của GS TS Hoàng Ngọc Hòa, Nxb
CTQG, Hà Nội - 2008. Cuốn sách đề cập vấn đề phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân, nông
thôn; công nghiệp hoa, hiện đại hoa nông nghiệp là trọng tâm hàng đầu của
quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa đất nước; phát triển hợp tác xã kiểu
mới; phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn; thành tựu
và hạn chế phát triển nông nghiệp nông thôn sau hơn 20 năm đổi mới; kinh
nghiệm quốc tế về chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn và
bài học đối với Việt Nam. Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm đẩy
mạnh công nghiệp hoa, hiện đại hoa nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời
sống nông dân nước ta; đưa ra sáu giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình công
nghiệp hoa, hiện đại hoa. Tác giả mới chỉ đề cập đẩy mạnh ứng dụng những
thành tựu tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ và thủy lợi hoa trong phát
triển sản xuất nông nghiệp, mà chưa co nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn về
phát triển nông nghiệp công nghệ cao.
- Phát triển khoa học và trọng dụng nhân tài của Thăng Long - Hà Nội
của Vũ Huy Chương, Tạ Bá Hưng, Lại Văn Toàn, Nxb Hà Nội 2010. Đây là
công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Trong công trình này, các tác giả đã giới thiệu vai trò của khoa học và

nhân tài trong quá trình phát triển của Thăng Long - Hà Nội. Các lĩnh vực khoa
học trong quá trình phát triển qua các triều đại phong kiến đối với khoa học và
nhân tài ở Thăng Long - Hà Nội; chính sách phát triển khoa học, sử dụng nhân
tài ở Hà Nội thời Pháp thuộc, thời đại Hồ Chí Minh và phương hướng, nhiệm vụ
phát triển khoa học và sử dụng nhân tài của Thủ đô thời gian tới.


8
- Phát huy tiềm lực tự nhiên, kinh tế, xã hội và giá trị lịch sử - văn hóa,
phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 của Phùng Hữu Phú, Nguyễn
Duy Quý, Ngô Thị Thanh Hằng, Nxb Hà Nội 2010. Đây cũng là một trong
những công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước nhân kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội. Các tác giả đã nghiên cứu tiềm năng và thực trạng sử
dụng các nguồn lực (trong đo co nguồn lực khoa học - công nghệ cho phát triển
kinh tế - xã hội ở Thăng Long xưa kia và Hà Nội ngày nay. Chỉ ra thời cơ,
thách thức, tầm nhìn của Thủ đô đến năm 2020 và 2050; đề xuất một số quan
điểm và hệ giải pháp phát triển Thủ đô trong những năm tới.
- Giải pháp thực hiện hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Hà Nội giai đoạn 2010 – 2020 của Nguyễn Thành Công (2010),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2010. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận cơ
bản về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực trạng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Thủ đô trong những
năm qua, trên cơ sở đo đề xuất một số quan điểm, giải pháp (trong đo co giải
pháp về thể chế thị trường khoa học - công nghệ) nhằm tổ chức thực hiện co
hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn Thủ
đô giai đoạn 2010 - 2020.
- Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay của Trần Hồng Lưu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2011. Cuốn sách này đề cập đến nhiều nội dung, những vấn đề co liên quan trực
tiếp đến luận văn mà tác giả co thể khai thác được là: vai trò của tri thức khoa

học kỹ thuật, công nghệ trong quá trình công nghiệp hoa, hiện đại hoa ở nước ta
hiện nay; nguyên nhân dẫn đến các doanh nghiệp không muốn đầu tư vào phát
triển khoa học - công nghệ; quan điểm của Đảng ta về phát triển khoa học công nghệ; giải pháp tạo động lực nghiên cứu, phổ biến và ứng dụng các thành
tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống.


9
Các bài viết trực tiếp về nông nghiệp công nghệ cao gồm co:
- Phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao ở Việt Nam của
TS Dương Hoa Xô và TS Phạm Hữu Nhượng đăng trên hcmbiotech.com.vn
ngày 25-11-2006. Trong đo đã trình bày sự phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở một số nước trên thế giới và chỉ ra những mặt làm được và chưa làm
được của các nước đo, rút ra những kinh nghiệm co thể vận dụng vào phát
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam.
- Nông nghiệp Israel, kỳ tích trên hoang mạc của Nguyễn Hoàng
đăng trên vneconomy.vn ngày 26-12-2011, đã đề cập đến các dự án nông
nghiệp của Israel với lời khẳng định đầy tự hào của người Israel: “Khí
hậu khắc nghiệt, nhưng chúng tôi vẫn co nền nông nghiệp tiên tiến nhất
thế giới”. Để xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại cần phải tăng đầu
tư cho khoa học kỹ thuật với những quyết sách táo bạo và co sự hỗ trợ
mạnh của chính phủ.
- Lãng phí bạc tỷ, công nghệ “đắp chiếu” của Quỳnh Dung - Bạch
Thanh đăng trên hanoimoi.com.vn ngày 12-01-2010. Bài nghiên cứu đã chỉ
ra rằng, phát triển nông nghiệp đô thị, công nghệ cao chắc chắn là hướng đi
tất yếu của một thành phố lớn như thành phố Hà Nội. Hà Nội đã dành nhiều
công sức để thử nghiệm các mô hình nông nghiệp công nghệ cao vào sản
xuất, nhằm tạo bước chuyển mới cho nông nghiệp Thành phố, khắc phục
những bức xúc về chất lượng vệ sinh an toàn nông phẩm hàng hoa, nâng cao
giá trị sản xuất/ha canh tác... Tuy nhiên, sau nhiều năm mò mẫm, các mô
hình đã và đang triển khai vẫn bộc lộ yếu kém, chưa co lối ra, hàng chục tỷ

đồng ngân sách được bỏ ra để triển khai các dự án, nhưng do cách làm thiếu
quy hoạch, thiếu bài bản nên một số dự án đã phá sản, vì thế thành phố Hà
Nội đang cân nhắc một số dự án mới.


10
- Chậm trễ trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao của Mạnh
Minh đăng trên baotintuc.vn ngày 12/04/2012. Bài viết đề cập việc cả nước
đã hình thành được một số mô hình phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao như: mô hình sản xuất rau an toàn, trồng hoa và cây cảnh tại thành
phố Hồ Chí Minh; trồng hoa và rau an toàn ứng dụng công nghệ cao tại
thành phố Bắc Ninh và Hà Nội; sản xuất nấm quy mô trang trại tại tỉnh Vĩnh
Phúc; cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa xuất khẩu, nuôi cá tra sạch tại đồng
bằng sông Cửu Long... Tuy nhiên, hiện hữu tình trạng lúng túng xây dựng khu
nông nghiệp công nghệ cao ở chỗ đến nay, mới chỉ co khu nông nghiệp công
nghệ cao của thành phố Hồ Chí Minh với 90 ha triển khai và bước đầu hoạt
động co hiệu quả. Còn các địa phương đều đang xây dựng kế hoạch hoặc xin
chủ trương của Chính phủ để triển khai như Hà Nội, Lâm Đồng, Phú Yên,
Nghệ An, Bình Dương, Gia Lai, Hậu Giang. Để phục vụ cho việc nghiên cứu
các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, Nhà nước phải co chính sách nhập
khẩu các loại công nghệ, thiết bị phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước.
Bên cạnh việc nhập khẩu, để tránh bị lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài
phải co chiến lược đầu tư trong nghiên cứu để tự chủ về công nghệ.
- Thành phố Hồ Chí Minh - “Thủ đô” nông nghiệp công nghệ cao của
Minh Sáng - Đức Cường đăng trên website báo nông nghiệp Việt Nam ngày
24-08-2011. Bài viết khẳng định chỉ co phát triển nông nghiệp công nghệ cao
mới tạo sức lan tỏa khi nông nghiệp “hái” ra tiền. Điểm khác biệt làm nên
“thương hiệu” nông nghiệp công nghệ cao của thành phố Hồ Chí Minh là mặc
dù diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp nhưng nơi đây đang co tới
bốn sản phẩm nông nghiệp đứng vị trí số một Việt Nam. Việc xây dựng một

khu nông nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực trồng trọt với quy mô 88 ha tại
xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi là thể hiện sự tập trung lãnh đạo của Thành
ủy đối với lĩnh vực trồng trọt và phát triển du lịch sinh thái, đào tạo nhân lực


11
cho nông nghiệp công nghệ cao thông qua hình thức tham quan học tập của
học sinh, sinh viên về lĩnh vực trồng trọt. Kết quả xây dựng khu nông nghiệp
công nghệ cao này co tác dụng lan tỏa công nghệ sinh học (công nghệ tế bào
thực vật, sản xuất các chế phẩm sinh học) đến tất cả các khu nông nghiệp
khác của thành phố Hồ Chí Minh.
- Công nghệ cao - con đường phát triển bền vững của nông nghiệp
VN của Ngô Tiến Dũng - Tổng thư ký Hiệp hội các doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao trong nông nghiệp đăng trên dddn.com 29/08/2013. Bài viết
khẳng định, trên thế giới, co nhiều nước đã ứng dụng công nghệ cao vào
phát triển nông nghiệp và đã gặt hái được nhiều thành công. Điển hình như
Isarel - một nước bán sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, nhưng họ đã làm nên điều
kỳ diệu về nền nông nghiệp xanh công nghệ cao trên hoang mạc. Là nước co
diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, nhưng Israel lại được mệnh danh là
“thung lũng Silicon” của thế giới trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ
nước. Chỉ với 2,5% dân số làm nông nghiệp nhưng Israel là một trong những
nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, khoảng 3 tỷ USD nông sản. Bài
viết đã chỉ ra thực tiễn Việt Nam với hơn 70% dân số gắn bo với nông
nghiệp, nông nghiệp đong gop 20% GDP nhưng nền nông nghiệp Việt Nam
vẫn phát triển lạc hậu, manh mún, nhỏ lẻ, quy hoạch còn bất cập, môi trường
bị ô nhiễm nghiêm trọng. Kho khăn lớn nhất và cơ bản nhất của nông nghiệp
nước ta là sản xuất phân tán, quy mô nhỏ, lại chia thành nhiều mảnh, kho
tích tụ ruộng đất để sản xuất tập trung... Do vậy, cách duy nhất là đưa công
nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp thì mới co thể thay đổi bức tranh nông
nghiệp lạc hậu và lối tư duy cũ.

Các công trình khoa học nêu trên chủ yếu đưa ra những số liệu và tư
liệu phản ánh những thành tựu và hạn chế phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở các địa phương trong đo co thành phố Hà Nội. Chưa thể hiện rõ mặt lý


12
luận và đề xuất giải pháp hoàn chỉnh về phát triển nông nghiệp công nghệ
cao. Bởi vậy, đề tài này là sự khám phá những nét mới cả về lý luận và thực
tiễn, đồng thời đề xuất các quan điểm, giải pháp phát triển nông nghiệp công
nghệ cao ở thành phố Hà Nội hiện nay. Đề tài không trùng lặp với các công
trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về nông nghiệp công nghệ
cao và đề xuất một số quan điểm, giải pháp phát triển nông nghiệp công
nghệ cao ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận về nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội:
Quan niệm, các tiêu chí của nông nghiệp công nghệ cao và nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội
trong thời gian qua, chỉ rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
giải quyết trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội .
- Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ cao
ở thành phố Hà Nội từ nay đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Nông nghiệp công nghệ cao.
* Phạm vi nghiên cứu: Nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà
Nội sau khi mở rộng dưới goc độ kinh tế chính trị. Thời gian nghiên cứu,
khảo sát thực tiễn từ khi Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội (01-08-2008) đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế -


13
xã hội noi chung và phát triển nông nghiệp noi riêng... để vận dụng vào xây
dựng luận văn.
* Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, trong đo chú
trọng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để luận giải những vấn đề lý luận
và thực tiễn phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội. Luận
văn còn vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội
như điều tra, thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp và phương pháp chuyên
gia để hoàn thiện luận văn.
6. Ý‎ nghĩa của đề tài luận văn
Luận văn gop phần cung cấp thêm các căn cứ khoa học cho cấp ủy,
chính quyền và sở ban ngành co liên quan của thành phố Hà Nội trong hoạch
định chủ trương, chính sách và các giải pháp phát triển nông nghiệp công
nghệ cao ở Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn co thể dùng làm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương với 4 tiết, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ‎ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO
1.1. Những vấn đề lý luận về nông nghiệp công nghệ cao

1.1.1. Công nghệ cao và nông nghiệp công nghệ cao
* Quan niệm về công nghệ cao
Thuật ngữ công nghệ cao (High Tech) hiện đang được sử dụng rộng rãi
trên thế giới không chỉ trong ngành nông nghiệp mà còn ở các ngành khoa
học công nghệ khác. Hiện co nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này
nhưng nhìn chung, phần lớn cho rằng thuật ngữ công nghệ cao dùng để chỉ
một công nghệ (technology) hay một kỹ thuật (technique) hiện đại, tiên tiến
được áp dụng vào quy trình sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm co năng suất, chất
lượng cao, giá thành hạ.
Thạc sĩ Huỳnh Ngọc Điền ở Trường Cán bộ quản lý Nông nghiệp 2 đưa
ra định nghĩa: Công nghệ cao trong nông nghiệp là tổng hợp những công nghệ
tiên tiến nhất trên thế giới, bao gồm những công nghệ cốt lõi, trình độ cao và tiến
bộ, cũng như những ngành công nghiệp mới dựa trên các kỹ thuật này. Công
nghệ cao bao hàm các lĩnh vực: khoa học máy tính; công nghệ thông tin; công
nghệ sinh học; kỹ thuật năng lượng mới; khoa học không gian; khoa học khai
thác đại dương; công nghệ siêu nhỏ; sợi quang học; kỹ thuật laser; khoa học vật
liệu mới… Công nghệ cao trong nông nghiệp chủ yếu dựa trên bốn ngành khoa
học: khoa học về cuộc sống, khoa học điện tử, khoa học vật liệu và tin học.
Công nghệ cao là công nghệ co hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ, được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện
đại, tạo ra sản phẩm co chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân
thiện với môi trường, co vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản
xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoa ngành sản xuất, dịch vụ hiện co [3].


15
Cách khái quát nêu trên, tác giả luận văn nhận thấy đã thể hiện đúng
bản chất của công nghệ cao. Công nghệ cao được ứng dụng và chuyển giao
cho tất cả các lĩnh vực công nghệ: công nghệ thông tin; công nghệ sinh học;
công nghệ vật liệu mới; công nghệ tự động hoa; v.v.

* Quan niệm về nông nghiệp công nghệ cao
Tại Ấn Độ, thuật ngữ “Nông nghiệp công nghệ cao” đã ra đời từ tháng
2 năm 1999 với định nghĩa: Nông nghiệp công nghệ cao là “Tất cả các
kỹ thuật nông nghiệp hiện đại, tiên tiến, ít phụ thuộc vào môi trường,
tập trung vốn cao và co khả năng làm gia tăng năng suất và chất lượng
nông sản” [3]. Các kỹ thuật hiện đại được ứng dụng trong nông nghiệp
bao gồm: giống cây trồng biến đổi gen, vi nhân giống, sản xuất giống
lai, phương pháp tưới và bon phân nhỏ giọt, quản lý dịch hại tổng hợp,
canh tác hữu cơ, trồng cây không cần đất, trồng cây trong nhà kín, kỹ
thuật chẩn đoán nhanh bệnh virus, phương pháp phun tiên tiến, công
nghệ cao sau thu hoạch và bảo quản.
Một quan niệm khác cho rằng: Nông nghiệp công nghệ cao là nông
nghiệp co hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ,
được tích hợp từ các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại như công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tin học, công nghệ tự động, ngoài
ra còn thể hiện ở công tác quản lý và phát triển nhân lực.
Tiến sĩ Cao Kỳ Sơn - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phân bon và
Dinh dưỡng cây trồng (Viện Thổ nhưỡng Nông hoá) cho rằng: Nông nghiệp
công nghệ cao là nền nông nghiệp áp dụng công nghệ hiện đại, trong đo tạo
mọi điều kiện thuận lợi để cây trồng phát triển tốt, tiến tới năng suất tiềm
năng, đảm bảo chất lượng sản phẩm; thêm vào đo là bảo quản nông sản tốt và
tổ chức sản xuất hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế cao. Quan niệm này đề cập
đến nông nghiệp phạm vi hẹp là trồng trọt, chưa phản ánh tính toàn diện của


16
nền nông nghiệp theo hướng hiện đại.
Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đưa ra quan niệm: Nông nghiệp công nghệ cao là nền nông nghiệp
được áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất bao gồm công nghiệp hoa

nông nghiệp (cơ giới hoá các khâu của quá trình sản xuất), tự động hoá, công
nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và các giống cây
trồng vật nuôi co năng suất và chất lượng cao, đạt hiệu quả cao trên một đơn
vị diện tích và phát triển bền vững trên cơ sở hữu cơ [3]. Tác giả sử dụng
quan niệm này trong luận văn.
Để đưa công nghệ cao vào nông nghiệp cần thiết phải xây dựng các khu
nông nghiệp công nghệ cao, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao...Đo là nơi trình diễn, vườn thực
nghiệm nông nghiệp hiện đại hoa; là vườn ươm xí nghiệp chuyển hoa thành
quả nghiên cứu khoa học công nghệ thành sức sản xuất; là nguồn lan tỏa công
nghệ cao mới; là trung tâm ứng dụng mở rộng, trung tâm phục vụ, trung tâm
tập huấn các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ; là nơi thu hút một khối
lượng sức lao động lớn của nông thôn, làm cho nông thôn được thành thị hoa,
nông dân được công nhân hoa; thích ứng hoa với chức năng kinh doanh để
các lĩnh vực từ trồng trọt, lâm nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng chế biến thủy sản
cho đến thương mại, cung ứng tiêu thụ được thống nhất; làm cho sản xuất
nông nghiệp thực hiện được khoa học hoa, thâm canh hoa và trở thành đầu tàu
của việc phát triển nông nghiệp kỹ thuật cao; gop phần phát triển nhân lực
công nghệ cao - đội ngũ những người co trình độ và kỹ năng đáp ứng được
yêu cầu của hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ cao, dịch
vụ công nghệ cao, quản lý hoạt động công nghệ cao, vận hành các thiết bị,
dây chuyền sản xuất sản phẩm công nghệ cao và gop phần nâng cao năng lực
của người nông dân, trang bị cho họ co được những tri thức khoa học hiện đại


17
nhằm tạo ra sản phẩm công nghệ cao, co chất lượng, tính năng vượt trội, giá
trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.
* Quan niệm về nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội
Dựa trên cơ sở phân tích quan niệm về công nghệ cao, nông nghiệp

công nghệ cao noi chung, tác giả luận văn đi sâu nghiên cứu và đưa ra khái
niệm về nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội như sau: Nông
nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội với chủ thể là lãnh đạo và chính
quyền Thành phố, các cơ quan, doanh nghiệp và nông dân, là nền nông
nghiệp được quy hoạch phù hợp với lợi thế vùng, đang công nghiệp hoa, hiện
đại hoa, co hàm lượng tri thức cao, ứng dụng công nghệ tiến tiến hiện đại
được tích hợp từ các lĩnh vực công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ tin học, công nghệ tự động, cơ giới hoa...trong tất cả các khâu của
sản xuất nông nghiệp kết hợp với kỹ năng quản lý và tiếp cận thị trường của
các doanh nghiệp, nông dân để sản xuất ra sản phẩm co năng suất cao, chất
lượng tốt đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Khái niệm trên đã thể hiện rõ những nội dung căn bản của nông nghiệp
công nghệ cao ở thành phố Hà Nội:
Chủ thể của nền nông nghiệp công nghệ cao là Thành ủy, Uỷ ban nhân
dân thành phố, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội và các
cơ quan co liên quan với tư cách là người lãnh đạo, chỉ đạo quá trình xây dựng
nông nghiệp công nghệ cao; là các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đứng
chân trên địa bàn thành phố hội tụ đủ vật lực, tài lực và trí lực thực hiện các dự
án nông nghiệp công nghệ cao; đặc biệt là nông dân - những người trực tiếp sáng
tạo và đưa công nghệ cao vào nông nghiệp, gop phần quan trọng đưa nông
nghiệp thành phố Hà Nội từng bước lên sản xuất hàng hoa lớn.
Nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội là nền nông nghiệp
giàu tri thức, co tốc độ công nghiệp hoa, hiện đại hoa khá cao, sản phẩm nông


18
nghiệp chất lượng cao nhờ ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Đây là nội
dung thể hiện rõ vị thế của Hà Nội là Thủ đô, là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoa, nghệ thuật, khoa học công nghệ của đất nước. Sau khi mở rộng địa
giới hành chính, Hà Nội đã co thêm nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng

của Hà Tây, Huyện Mê Linh trước đây như: Thoc vàng khu Cháy, vịt cỏ Vân
Đình của Ứng Hòa; cam Canh, nhãn muộn tại các vùng đồi gò của Chương
Mỹ, Quốc Oai và sản phẩm chăn nuôi rất đa dạng với gần một nghìn trang trại
chăn nuôi lớn nhỏ; vùng sản xuất chuyên canh lớn ở Mê Linh. Những sản
phẩm phong phú này hòa nhập với các sản phẩm của những vùng sản xuất
chuyên canh lớn ở huyện Đông Anh, Soc Sơn... của thành phố Hà Nội đã làm
cho nông nghiệp co sắc thái tươi mới hơn, rõ nét hơn, công nghệ sản xuất cao
hơn trong nền kinh tế chung của Thành phố. Đo là kết quả của phương thức tổ
chức sản xuất nông phẩm công nghệ cao, chứa đựng trong đo những tri thức
khoa học về sinh học, toán học, tin học, nông học, viên học (horticulture),
dược học, hoa học, vật lý, điện tử... Nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố
Hà Nội là nền nông nghiệp được đầu tư lớn cho xây dựng các doanh nghiệp
nông nghiệp, trang trại, hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; đầu tư sản xuất
giống mới thông qua tổng hợp các kỹ thuật di truyền và tạo giống, công nghệ
gen; sử dụng kỹ thuật mới nhân giống cây trồng và vật nuôi; thặng dư nông
nghiệp được sử dụng trực tiếp vào cải thiện công nghệ sản xuất, tăng năng
suất lao động nông nghiệp. Chính vì thế, nông nghiệp thành phố Hà Nội co thị
trường tập trung cao vào một số doanh nghiệp do yêu cầu về vốn đầu tư lớn
và sở hữu công nghệ kỹ thuật cao.
Nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội là nền nông nghiệp
mở ra những ngành nông nghiệp mới, tổng hợp khoa học không gian và khoa
học nông nghiệp thúc đẩy phát triển “nông nghiệp không gian”. Đo chính là
nền nông nghiệp phát triển theo vùng, dựa vào sự phân hoa theo không gian


19
của các yếu tố tự nhiên và quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nền nông
nghiệp được định hướng phát triển một cách bền vững. Định hướng nền nông
nghiệp phát triển theo vùng được triển khai lồng ghép với Chương trình xây
dựng nông thôn mới tại các địa phương trong toàn thành phố. Để co thể tổ

chức nông nghiệp không gian phù hợp, đòi hỏi sự phối hợp hết sức chặt chẽ
các lực lượng từ chính quyền thành phố, các sở, ban ngành đến các huyện, xã,
trong đo đề cao vai trò của các chủ thể trực tiếp tổ chức sản xuất, kinh doanh
nông nghiệp như doanh nghiệp, trang trại, hợp tác xã đặc biệt là chính lực
lượng nông dân.
Nông nghiệp công nghệ cao ở thành phố Hà Nội được phát triển trên cơ
sở khuyến khích phát triển mạnh các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao và doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, thu hút các tổ chức khoa
học công nghệ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực
trồng trọt, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, thu hút đầu tư nước
ngoài nhất là thu hút đông đảo nông dân và tạo điều kiện cho nông dân thủ đô
áp dụng công nghệ cao. Để phát triển khu nông nghiệp công nghệ cao phải
hội tụ đủ các điều kiện tập trung đất đai, đủ các nguồn lực đầu tư… cho nên
khu nông nghiệp công nghệ cao không thể làm tràn lan, mà chỉ làm một số
nơi, một số vùng nhất định của Thủ đô.
1.1.2. Tiêu chí xây dựng nông nghiệp công nghệ cao
Hiện nay, nhận thức của mọi người về nông nghiệp công nghệ cao còn
chưa thật sự thống nhất. Co nhiều người hiểu đơn giản rằng nông nghiệp công
nghệ cao là phải hơn hẳn những gì hiện đang làm, phải áp dụng một số công
nghệ cao như chế phẩm sinh học, phòng trừ sâu bệnh, chăm soc cây trồng vật
nuôi… Một số người lại cho rằng công nghệ cao phải là rất cao, vượt trội hẳn
lên như công nghệ của Israel về nhà màng, tưới, chăm bon tự động… Để định
hướng đúng đắn cả về nhận thức và thực tiễn áp dụng công nghệ cao vào sản
xuất, phát triển những vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và doanh


20
nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, phát triển những khu nông nghiệp công
nghệ cao ở các tỉnh, thành trong cả nước, đặt ra yêu cầu phải xây dựng những
tiêu chí của nông nghiệp công nghệ cao là việc làm hết sức cần thiết.

Một là: Tiêu chí kỹ thuật của nông nghiệp công nghệ cao.
Đo là nền nông nghiệp hàng hoa sử dụng công nghệ tiên tiến, mà công
nghệ này được tạo ra trong nước hoặc nhập khẩu bảo đảm tăng năng suất lao
động nông nghiệp bằng hoặc lớn hơn 30% so với công nghệ đang sử dụng. Để
đạt được năng suất đo phụ thuộc vào việc cơ giới hoa tổng hợp và sử dụng các
phương tiện tự động, cụ thể là cơ giới hoa khâu làm đất bằng máy kéo đạt tỷ lệ
90% đến 95%, phun thuốc phòng, chống dịch bệnh bằng máy co động cơ 40%
đến 80% ; tỷ lệ cơ giới hoá khâu gặt đập bằng máy liên hợp đạt 30% đến 60%.
Tưới tiêu bằng máy công suất lớn, sơ chế nông sản bán tự động, chế biến nông
sản bằng máy tự động đạt tỷ lệ 90 - 100%... Sử dụng công nghệ tiên tiến để giảm
50% công lao động trở lên, sử dụng công cụ gieo giảm 60% chi phí giống [45].
Không co tình trạng thiếu lao động mùa vụ, nâng cao năng suất, chất
lượng cây trồng và vật nuôi.
Cải tiến tổ chức các khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp dựa vào
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
tự động hoa, cơ giới hoa. Các sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra phải đáp
ứng các tiêu chí: là sản phẩm công nghệ cao; là sản phẩm co chất lượng và tính
năng vượt trội, sản phẩm co giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.
Để thúc đẩy xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, thu hẹp khoảng
cách so với các nước tiên tiến, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng khu nông nghiệp
công nghệ cao, mô hình nông nghiệp công nghệ cao và các vùng nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao ở các tỉnh, thành trong cả nước. Xây dựng các khu
nông nghiệp công nghệ cao sẽ tạo ra môi trường thích hợp cho những sáng tạo
khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực, tạo việc làm và đem lại lợi ích cho
đất nước. Xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao gop phần thúc đẩy công


21
nghiệp hoá nông nghiệp, đong vai trò làm “đầu tàu”, mở đường cho việc đưa
nhanh tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp và chuyển đổi nền nông

nghiệp truyền thống, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng
hiện đại hoá. Xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao sẽ đáp ứng mục
tiêu dài hạn của phát triển nông nghiệp nước ta là phát triển nền nông nghiệp
hàng hoa, co sức cạnh tranh cao trên thị trường nội địa và xuất khẩu, dựa trên
cơ sở phát huy các lợi thế về nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên, kết hợp
với áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ nông nghiệp tiên tiến.
Hai là: Tiêu chí kinh tế của nông nghiệp công nghệ cao.
Sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao phải co hiệu quả kinh tế cao hơn ít
nhất 30% so sản phẩm được sản xuất ra với công nghệ hiện đang sử dụng và sản
phẩm nông nghiệp công nghệ cao phải co sức cạnh tranh cao trên thị trường.
Phương thức tổ chức sản xuất tiên tiến, tư duy sản xuất, kinh doanh
trong nông nghiệp theo phong cách công nghiệp là yêu cầu quan trọng không
chỉ đối với người nông dân, mà còn đối với các cán bộ quản lý ngành nông
nghiệp, cán bộ và công nhân của các doanh nghiệp. Nông dân phải tiếp cận
được những yêu cầu kỹ thuật, mức đầu tư, trình độ quản lý cao hơn so với lối
canh tác phổ thông. Doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao phải tạo ra sản
phẩm tốt, năng suất hiệu quả tăng gấp 2 lần trở lên [3].
Vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao co năng suất và hiệu quả
tăng bằng hoặc lớn hơn 35% trở lên so với công nghệ đang sử dụng [3]. Thực
tế ở xã Tây Tựu - huyện Từ liêm, huyện Mê Linh thành phố Hà Nội... triển
khai thành công đã chứng minh cho tính khả thi thực hiện tiêu chí kinh tế này.
Ba là: Tiêu chí xã hội và môi trường của nông nghiệp công nghệ cao.
Nông nghiệp công nghệ cao phải tạo nhiều việc làm cho nhân dân, xoa
đoi giảm nghèo, nâng cao đời sống người lao động nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới. Xây dựng nông thôn mới ở nước ta là nhu cầu bức thiết của


22
cư dân nông thôn. Nông nghiệp công nghệ cao chính là là đòn bẩy xây dựng
nông thôn mới. Xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải phát huy nội lực của

nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; phát triển sản xuất để tăng thu
nhập, cải thiện đời sống cho nông dân; phát huy dân chủ để phát triển nông
thôn, phát triển hợp tác từ phát triển cộng đồng.
Nông nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường, bảo tồn và phát
triển chất lượng môi trường. Môi trường nông nghiệp, nông thôn nước ta đang
chịu ô nhiễm ngày càng lớn cùng với sức ép về nhu cầu của những sản phẩm
nông sản sạch, bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm cho tiêu dùng
nội địa và xuất khẩu. Vấn đề môi trường của nông nghiệp công nghệ cao phải
co tỷ lệ thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường từ 35% đến 50% [31]; và, hình thức
tổ chức sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là
tiêu chí vô cùng quan trọng nhằm gop phần giải quyết những vấn đề xã hội và
môi trường.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở thành phố Hà Nội
Nghiên cứu tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp
công nghệ cao ở thành phố Hà Nội, nhằm làm rõ những kho khăn thuận lợi về
dân trí và điều kiện kinh tế, xã hội cho phát triển công nghệ cao; tiềm năng
sản xuất của nông dân, doanh nghiệp trong việc ứng dụng công nghệ cao. Từ
đo làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp công nghệ
cao ở thành phố Hà Nội.
Một là: Số chất lượng lao động và trình độ tiếp nhận, sáng tạo khoa học
công nghệ của các chủ thể kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp ở thành phố Hà
Nội sau mở rộng.
Số liệu thống kê cho thấy sau khi mở rộng địa giới hành chính, dân số
thủ đô đạt trên 7,1 triệu người. Hiện tại dân số trong độ tuổi lao động của


23
thành phố Hà Nội đang co 4,29 triệu người, trong đo 97,6% biết đọc biết viết;
22,1% tốt nghiệp phổ thông cơ sở; 46,7% tốt nghiệp trung học phổ thông trở

lên. Những tỷ lệ này đều cao hơn bình quân của cả nước. Về trình độ chuyên
môn kỹ thuật co 26,9% số người 15 tuổi trở lên đã được đào tạo; trong đo co
3,6% số người co bằng sơ cấp; 7,5% co bằng trung cấp; 2,5% co bằng cao
đẳng và 13,3% co bằng đại học trở lên. Theo đánh giá của người sử dụng lao
động, kỹ năng nghề của lao động thủ đô đã qua đào tạo nghề trên 30% đạt khá
giỏi, gần 59% đạt loại trung bình. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của toàn thành
phố đạt 45%, trong đo lao động qua đào tạo nghề đạt 23% (tốc độ tăng 3,5%
năm), tuy nhiên, chất lượng lao động co trình độ chuyên môn kỹ thuật phân
bố không đều, tập trung ở vùng đô thị, các quận nội thành, lao động qua đào
tạo noi chung, đào tạo nghề noi riêng ở khu vực nông thôn còn thấp [31]. Vấn
đề nêu trên phản ánh số, chất lượng, trình độ dân trí lao động tuy quan trọng,
song quan trọng hơn là trình độ tiếp nhận và sáng tạo khoa học công nghệ của
các chủ thể kinh tế là nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến phát triển nông nghiệp
công nghệ cao thành phố Hà Nội. Trước hết, no ảnh hưởng đến chủ trương
xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Thực tế cho thấy, nhờ co
tiếp nhận ban đầu và co sự sáng tạo nhất định trong ứng dụng công nghệ cao
vào nông nghiệp cho nên một số mô hình tròng rau củ quả an toàn và trồng
hoa nhà lưới của huyện Từ Liêm, Đông Anh, Mê Linh bước đầu thu được một
số kết quả khá; ngược lại, nhiều địa phương khác tuy xây dựng được mô hình,
nhưng các chủ thể kinh tế yếu về khả năng tiếp nhận và sáng tạo khoa học công nghệ làm cho mô hình được xây dựng mang nặng tính hình thức. Hai là,
no ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực và năng suất lao động
trong nông nghiệp. Một khi ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông
nghiệp thì chi phí các nguồn lực không hề nhỏ, nếu các chủ thể biết phát huy
vai trò của khoa học - công nghệ thì nguồn lực được sử dụng hiệu quả hơn và


24
ngược lại sẽ kém hiệu quả gây tổn thất, lãng phí nguồn vốn, sức lao động. Ba
là, no ảnh hưởng đến hiệu quả liên kết bốn nhà trong phát triển nông nghiệp
công nghệ cao. Khả năng tiếp nhận và sáng tạo khoa học - công nghệ phụ

thuộc vào trình độ dân trí. Muốn phát triển nông nghiệp cao phải coi khoa học
công nghệ là đòn bẩy, lấy đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật làm nòng cốt.
Bằng các chính sách và chủ trương đúng đắn, chính quyền các cấp là người
tạo điều kiện thuận lợi để các nhà khoa học chuyển giao công nghệ sản xuất
tiên tiến cho các doanh nghiệp và nhà nông. Do đo, cùng với việc nâng cao
dân trí, phải tăng cường công tác khuyến nông giúp doanh nghiệp và nhà
nông đẩy mạnh sáng tạo khoa học - công nghệ trong trồng trọt, chăn nuôi và
chế biến nông sản, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp.
Hai là: Trình độ phát triển khoa học - công nghệ của quốc gia.
Ngày nay, trình độ khoa học - công nghệ quốc gia ảnh hưởng quyết định
đến phát triển nông nghiệp theo chiều sâu và trực tiếp ảnh hưởng đến doanh
nghiệp, trang trại, hợp tác xã và nhà nông trong ứng dụng công nghệ kỹ thuật
tiên tiến, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp. Thực tiễn chứng minh, nông
nghiệp Israel là một nền nông nghiệp đạt trình độ tiên tiến nhất thế giới. Israel
co khả năng nghiên cứu, sáng tạo khoa học công nghệ và đặc biệt chú trọng
tính hiệu quả trong việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ở nước ta nền
nông nghiệp nhìn chung còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế
giới, nay đang chuyển mạnh theo hướng đi lên sản xuất nông nghiệp hàng hoa
lớn. Theo đo, phát triển nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta lại càng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của trình độ khoa học - công nghệ nước nhà. Trước hết, trình độ
khoa học - công nghệ quốc gia ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học
nông nghiệp và tỷ lệ ứng dụng kết quả vào thực tiễn của các đề tài và dự án về
nông nghiệp công nghệ cao. Kết quả và sản phẩm của các công trình nghiên
cứu phải gop phần thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ và năng lực


×