Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.84 KB, 85 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš

NGÔ QUỐC CA

PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ššš

NGÔ QUỐC CA

PHÁT TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số:

60 31 01 02

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU

HÀ NỘI - 2013



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN
CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA

1.1

BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Lý luận chung về phát triển khu công nghiệp, cụm

1.2

công nghiệp
Thực trạng phát triển các khu, cụm công nghiệp trên

Chương 2

địa bàn Thành phố Hà Nội
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT
TRIỂN CÁC KHU, CỤM CÔNG NGHIỆP

2.1

THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Xu hướng và triển vọng phát triển các khu, cụm công


2.2

nghiệp hiện nay
Quan điểm phát triển khu, cụm công nghiệp thành phố

2.3

Hà Nội
Một số giải pháp chủ yếu phát triển các khu, cụm công
nghiệp Thành phố Hà Nội trong thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

9

9
25

47

47
49
60
75
76
81



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

1.

Công nghiệp

CN

2.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

3.

Cụm công nghiệp

CCN

4.

Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp

CN-TTCN

5.


Doanh nghiệp nhà nước

DNNN

6.

Đầu tư phát triển

ĐTPT

7.

Giải phóng mặt bằng

GPMB

8.

Khoa học kỹ thuật

KHKT

9.

Kinh tế - xã hội

KT-XH

10. Khu chế xuất


KCX

11. Khu công nghệ cao

KCNC

12. Khu công nghiệp

KCN

13. Ngân sách nhà nước

NSNN

14. Quản lý nhà nước

QLNN

15. Sản xuất kinh doanh

SXKD

16. Ủy ban nhân dân

UBND


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Thực tiễn phát triển của các nước trên thế giới những năm qua đã chứng
tỏ rằng việc thành lập các khu công nghiệp là một trong những giải pháp quan
trọng đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Vận dụng kinh nghiệm thế giới vào thực tế Việt Nam, từ năm 1991,
Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thí điểm và triển khai việc xây dựng các
khu công nghiệp và khu chế xuất. Đến nay, các KCN đã và đang trở thành điểm
thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài, đón nhận các tiến bộ khoa học - công
nghệ và tạo ra những nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH và
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quá trình xây dựng và phát triển các KCN, KCX và các CCN tại các
địa phương trên cả nước trong những năm qua đã cho thấy những đóng góp
quan trọng trong việc tăng tỷ trọng GDP, thu hút đầu tư trong và ngoài nước,
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, góp phần giải quyết việc làm
cho người lao động của các địa phương và trên cả nước. Những đóng góp tích
cực của KCN, KCX và các CCN vào phát triển kinh tế, xã hội trong hơn 20
năm qua đã khẳng định đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng và phát triển KCN, KCX và các CCN.
Thành phố Hà Nội với vị trí địa lý thuận lợi, là trung tâm của vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hà Nội có nhiều tiềm năng để phát triển công
nghiệp nói chung và KCN, CCN nói riêng. Trong đó các KCN, CCN được coi
là các trung tâm, là xương sống của nền công nghiệp Thủ đô và các tỉnh lân
cận. Các KCN, CCN của Hà Nội đã phát triển một cách nhanh chóng, hiệu quả,
tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, làm tăng nhanh tốc độ
CNH, HĐH và tăng trưởng kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội và cả nước.
Các KCN thành lập trong giai đoạn đầu đến nay cơ bản đã lấp đầy diện tích đất


công nghiệp, Hà Nội đã phát triển thêm một số KCN mới và các CCN nhằm
tạo thêm quỹ đất thu hút đầu tư trong giai đoạn tới.

Kết quả xây dựng và phát triển các KCN, CCN trên địa bàn Thành phố
Hà Nội đã tạo dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật tương đối đồng bộ, đáp
ứng yêu cầu phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Thành
phố. Hoạt động của các KCN, CCN đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển
sản xuất công nghiệp nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Thành
phố theo hướng CNH, HĐH. Sản xuất công nghiệp tại các KCN, CCN chiếm
tỷ trọng lớn và quan trọng trong ngành sản xuất công nghiệp của Thành phố, cụ
thể: Chiếm tỷ trọng hơn 60% giá trị sản xuất công nghiệp, hơn 50% giá trị xuất
khẩu toàn Thành phố. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp tại các KCN, CCN
nghiệp đạt 75.000 tỷ đồng, tổng giá trị nộp ngân sách 1.500 tỷ đồng, tổng giá
trị xuất khẩu đạt 2,1 tỷ USD, tổng số lao động đang làm việc tại các KCN,
CCN hơn 200.000 lao động.
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng thực tế trong hơn
20 năm xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp cho thấy chưa thực
sự phát huy hết tiềm năng, lợi thế của Thành phố. Mặt khác, kể từ khi thực hiện
Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội khoá 12 về
điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội, các yếu tố, điều kiện kinh tế
- xã hội có sự thay đổi lớn, đặc biệt là sự mở rộng quỹ đất phát triển công
nghiệp, đây là cơ hội có tính đột phá để phát triển các khu, cụm công nghiệp
của Thành phố Hà Nội. Đó chính là lý do chủ yếu để học viên quyết định lựa
chọn đề tài "Phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố
Hà Nội" làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ - chuyên ngành Kinh tế chính
trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ khi Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương phát triển các KCN đến nay
đã có các cuộc hội thảo liên quan đến đề tài và đặc biệt là có một số công trình
nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về hiệu quả


kinh tế - xã hội của các KCN, các giải pháp phát triển KCN ở một số địa phương, tác động của phát triển các KCN đến các vấn đề xã hội hoặc nghiên cứu

vấn đề việc làm và thu nhập của người dân bị thu hồi đất để xây dựng KCN,
vấn đề nhà ở cho người lao động làm việc tại KCN.
Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo
chuyên đề có các công trình:
"Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và
đặc khu kinh tế" của Viện Kinh tế học năm 1994; "Khu công nghiệp,khu chế
xuất các tỉnh phía Nam" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 2002, nhằm
đánh giá khái quát về những thành công và hạn chế của các khu công nghiệp,
khu chế xuất tại các tỉnh phía Nam nước ta.
Năm 2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiệm thu đề tài cấp Bộ "Nghiên
cứu mô hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam"
nội dung của đề tài là nhằm mục đích giới thiệu kinh nghiệm quản lý các khu
công nghiệp, khu chế xuất của nước ngoài, đánh giá những mặt tốt và những
hạn chế của mô hình quản lý hiện đang áp dụng tại Việt Nam, đồng thời đề
xuất một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý các khu
công nghiệp, khu chế xuất trong những năm tiếp theo.
Năm 2004, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tạp chí Cộng sản và
UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức Hội thảo với chủ đề "Phát triển khu công
nghiệp, khu chế xuất ở các tỉnh phía Bắc - những vấn đề lý luận và thực tiễn"
tại Thanh Hóa đã có 40 bài tham luận gửi đến Hội thảo. Các bài viết đã tập
trung vào một số vấn đề cơ bản, như vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển KCN, KCX, một số vấn đề lý
luận, quy hoạch phát triển các KCN, KCX; các chính sách liên quan đến phát
triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của
các KCN phía Bắc so với các KCN phía Nam; Tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước đối với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX.
Tháng 7/2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức "Hội nghị - hội thảo
quốc gia 15 năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở



Việt Nam" tại Long An nhằm đánh giá những thành tựu đạt được, những hạn
chế và kinh nghiệm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở
nước ta, kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng
cao chất lượng hoạt động của các KCN, KCX.
Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình:
Luận án Tiến sỹ kinh tế (năm 1994): "Những biện pháp phát triển và
hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp ở Việt Nam" của
tác giả Lê Tuyển Cử. Luận án đã nghiên cứu thực trạng hình thành và phát triển
của các KCN ở Việt Nam. Đánh giá những ưu, nhược điểm đã đạt được trong
hoạt động phát triển và công tác QLNN các KCN, chỉ ra những yếu kém và
nguyên nhân của chúng.
- Luận án tiến sỹ kinh tế (năm 2007): “Hoàn thiện chính sách và mô hình
tổ chức quản lý nhà nước đối với việc phát triển khu công nghiệp Việt Nam Thông qua thực tiễn các khu công nghiệp miền Bắc” của tác giả Lê Hồng Yến.
Luận án đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về chính sách và mô hình tổ chức
QLNN đối với việc phát triển KCN. Chính sách và mô hình tổ chức QLNN đối
với việc phát triển KCN giai đoạn 1994-2006. Phương hướng và một số giải
pháp hoàn thiện chính sách và mô hình tổ chức quản lí nhà nước đối với việc
phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015.
Các nghiên cứu liên quan đến đề tài được đề cập ở trên mới tập trung
nghiên cứu những vấn đề chung trên phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên một
địa bàn - một vùng, một tỉnh khác và chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ QLNN
về khu, cụm công nghiệp. Cho đến nay, ở Thành phố Hà Nội chưa có công
trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị về phát triển các khu, cụm
công nghiệp. Do vậy đề tài mà học viên lựa chọn nghiên cứu là đề tài mới,
không trùng lặp với công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ những vấn
đề về lý luận và thực tiễn phát triển các khu, cụm công nghiệp trong quá trình



công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm
cơ bản và các giải pháp chủ yếu cho phát triển các khu, cụm công nghiệp của
Thành phố trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển khu
công nghiệp, cụm công nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển khu, cụm công nghiệp trên
địa bàn Thành phố Hà Nội và tìm nguyên nhân chủ yếu của các thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các khu,
cụm công nghiệp phù hợp với đặc thù và định hướng phát triển kinh tế - xã hội
của Thành phố trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Phát triển các khu, cụm công nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Về không gian nghiên cứu là địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước có liên quan; Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, đồng thời sử
dụng lý luận kinh tế chính trị học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường; kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trước có liên quan
đến đề tài luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp



phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp lôgíc lịch sử
và tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch, hoạch định các chủ trương,
chính sách về phát triển các khu, cụm công nghiệp phù hợp với đặc thù và định
hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, của Thành phố; học tập,
phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình xây
dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh
tế chính trị tại các trường đại học, học viện.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÁC KHU,
CỤM CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Lý luận chung về phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp
1.1.1. Khái niệm về khu, cụm công nghiệp
* Khái niệm khu công nghiệp
Thuật ngữ KCN xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX khi các KCN được bắt đầu
hình thành và phát triển nhân rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,
cho đến nay trên thế giới vẫn đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về khái
niệm KCN.
Theo quan niệm thông thường: KCN là khu vực có tính chất độc lập,
trong đó có các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa, thực hiện các hoạt
động dịch vụ và có chế độ quản lý riêng. KCN là một trong các loại hình của

khu kinh tế đặc biệt.
Theo quan điểm của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc
(UNIDO) thể hiện trong tài liệu khu chế xuất tại các nước đang phát triển
(Export processing Zone in Developing Countries) công bố năm 1990 thì:
KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia
nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng
cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và
mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần còn lại của nước chủ nhà. Trong đó,
đặc biệt là KCX cho phép nhập khẩu hàng hóa dùng cho sản xuất để xuất khẩu
miễn thuế.
- Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về khu chế xuất (World Export
Processing Zone Association - WEPZA), KCX là tất cả khu vực được chính
phủ các nước cho phép thành lập và hoạt động như cảng tự do, khu mậu dịch tự
do, KCN tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được tổ
chức này công nhận. Cũng từ quan điểm này, do nhu cầu phát triển của các mối
quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng được mở rộng, xuất phát từ


yêu cầu bức thiết của quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của các
quốc gia đang phát triển, khái niệm này đã được bổ sung bằng quan niệm mới
như khu kinh tế mở, thành phố mở, đặc khu kinh tế...
Ngoài các quan niệm của các tổ chức, hiệp hội quốc tế, các nước cũng có
những quan niệm khác như: KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản
xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất
công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng,
nhà ở. Hoặc KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư
sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như Ma-lai-xi-a, In-đônê-xi-a, Thái Lan, Đài Loan.
Như vậy, trên thế giới có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về
KCN, song về cơ bản có thể thống nhất với nhau ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời của mỗi
quốc gia, thường là những khu vực địa lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào giới
hạn với các vùng lãnh thổ còn lại của nước sở tại; được Chính phủ nước sở tại
cho phép xây dựng và phát triển.
Thứ hai, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục
tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có môi trường kinh
doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế đặc biệt, các chính sách ưu
đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Là nơi có vị
trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại dịch vụ, đầu tư trên cơ sở
các chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan, thủ tục
hành chính, chính sách tài chính - tiền tệ, môi trường đầu tư…
Thứ ba, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về chính sách ưu tiên
hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các loại hình
kinh doanh, sản xuất phục vụ xuất khẩu. Đây là mô hình thu nhỏ về chính sách
phát triển kinh tế - xã hội mở cửa của một quốc gia.


Tùy điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung hoạt động kinh tế
khác nhau nhưng tựu trung lại trên thế giới hiện nay có hai mô hình phát triển
KCN, từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về KCN.
- Định nghĩa 1: KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất
công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng,
nhà ở… KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc
biệt như KCN thương mại Indonesia, các công viên công nghiệp ở Đài Loan,
Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2: KCN là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có
dân cư sinh sống. Theo quan điểm này, ở một số nước như Malaysia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan... đã hình thành nhiều KCN với quy mô khác
nhau.

Ở Việt Nam, khái niệm KCN lần đầu tiên được xuất hiện tại Luật đầu tư
nước ngoài năm 1986 và được định nghĩa: “Là khu chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp do Chính phủ thành
lập hoặc cho phép thành lập” [13, tr.4].
Tại Quy chế KCN ban hành kèm theo Nghị định số 192/CP ngày
28/12/1994 của Chính phủ, KCN được định nghĩa: “KCN tập trung do Chính
phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư
sinh sống” [18, tr.2].
Tại Quy chế KCN, KCX, khu kinh tế - ban hành kèm theo Nghị định số
36/CP ngày 24/4/1997, KCN được định nghĩa: “Là khu tập trung các doanh
nghiệp, KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống;
do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có
thể có doanh nghiệp chế xuất” [19, tr.3].
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ Quy định về
KCN, khu chế xuất, khu kinh tế. Tại khoản 1 Điều 2, KCN được định nghĩa là


“Khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự
và thủ tục quy định tại Nghị định này” [22, tr.3].
Như vậy, qua việc nghiên cứu các quan niệm, khái niệm về KCN
của các nước trên thế giới và quy định về KCN của nước ta qua các thời
kỳ, tác giả luận văn đồng ý với khái niệm: "Khu công nghiệp là nơi tập
trung các doanh nghiệp để thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
có ranh giới địa lý xác định không có dân cư sinh sống và do Nhà nước
quyết định thành lập".
* Khái niệm cụm công nghiệp
Hiện nay có nhiều cách hiểu sự hiểu không hoàn toàn giống nhau về

Cụm công nghiệp.
Khái niệm Cụm công nghiệp “Geographical clusters” hay “Industrial
districts” xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 bởi Alpred Marshall, xuất phát từ việc
nghiên cứu của ông về sự tập trung sản xuất công nghiệp ở miền Bắc nước
Anh. Theo Marshall, các CCN có ba lợi thế cơ bản từ sự tập trung; sự lan toả
của thông tin; sự chuyên môn hoá và phân công lao động giữa các cơ sở với
nhau và sự phát triển của thị trường lao động dạng có tay nghề cao.
Khái niệm CCN theo cách tiếp cận của Michael Porter, CCN là sự tập
trung về mặt địa lý của các công ty và tổ chức có liên quan trong một lĩnh vực
cụ thể nào đó và bao gồm các ngành gắn kết với nhau. CCN tập trung các nhà
cung cấp đầu vào, các khách hàng tiêu thụ sản phẩm, cũng như các nhà sản
xuất các sản phẩm khác có liên quan. Các CCN cũng có thể bao gồm các tổ
chức như trường đại học, viện nghiên cứu, trường đào tạo nghề và các hiệp hội
thương mại.
Theo OECD (Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế): Các CCN có thể
được coi “là hệ thống sản xuất gồm có các hãng phụ thuộc lẫn nhau (các nhà
cung cấp chuyên nghiệp), các tổ chức đào tạo, các tổ chức trung gian và khách
hàng, liên kết với nhau trong một hệ thống sản xuất gia tăng giá trị”.
Ở Việt Nam, từ khi có Quyết định 132/2000/QĐ- TTg ngày 24/11/2000


về một số chính sách, khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn đến trước
khi có Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009, CCN được hiểu và gọi
tên rất khác nhau giữa các địa phương trong cả nước, nơi thì gọi là CCN làng
nghề, nơi gọi là Cụm công nghiệp nông thôn, nơi gọi là Cụm công nghiệp vừa
và nhỏ, Cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp làng nghề…
Theo quan điểm của tỉnh Bắc Ninh, CCN là nơi tập trung các đơn vị
chuyên sản xuất các sản phẩm công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo quyết định của UBND tỉnh. Bắc Ninh còn sử dụng khái niệm
“Cụm công nghiệp làng nghề” để nói đến các KCN nhỏ thuộc phạm vi quản lý

của tỉnh.
Quyết định 105/2009/QĐ-TTg ngày19/8/2009 ban hành Quy chế quản lý
CCN đã thống nhất tên gọi là CCN và định nghĩa như sau: "CCN là khu vực
tập trung các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
cơ sở dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới
địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; được đầu tư xây dựng chủ yếu
nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
các cá nhân, hộ gia đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh; do Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập.
Cụm công nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 ha. Trường hợp cần thiết
phải mở rộng cụm công nghiệp hiện có thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng
không vượt quá 75 ha” [24, tr.2].
Theo Quyết định số 44/2010/QĐ-UBND ngày 10 tháng 9 năm 2010 của
UBND Thành phố Hà Nội thì Cụm công nghiệp được hiểu: “Cụm công nghiệp
(bao gồm cụm công nghiệp - cụm tiểu thủ công nghiệp) là khu vực tập trung
các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, cơ sở
dịch vụ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có ranh giới địa lý xác định, có
hàng rào tách biệt, không có dân cư sinh sống; có hệ thống kết cấu hạ tầng
chung được xây dựng đồng bộ, có đầy đủ các điều kiện để sản xuất kinh doanh
thuận lợi, an toàn và bền vững nhằm di dời, sắp xếp, thu hút các cơ sở sản xuất,
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cá cá nhân, hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công


nghiệp ở địa phương vào đầu tư sản xuất kinh doanh; do Uỷ ban nhân dân
Thành phố Hà Nội quyết định thành lập. Cụm công nghiệp có quy mô diện tích
không quá 50 ha” [50, tr.3].
Qua các khái niệm về CCN, cách hiểu về CCN có điểm giống nhau và
thống nhất: CCN là tập trung về mặt địa lý các cơ sở sản xuất kinh doanh, các
tổ chức trong một khu vực địa lý, có ranh giới riêng, không có dân cư sinh
sống; CCN là sự liên kết giữa các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh

doanh, các hộ gia đình sản xuất, các tổ chức...
Tuy nhiên, quan niệm về CCN của Việt Nam có các điểm khác với quan
niệm ở nước ngoài là:
Thứ nhất, mục tiêu chủ yếu của thành lập, phát triển CCN ở nước ngoài
là phát triển liên kết, nâng cao khả năng cạnh tranh, còn mục tiêu trực tiếp của
CCN ở Việt Nam hiện nay là: thu hút, di dời các các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể ở địa phương vào đầu tư sản xuất, kinh doanh;
sắp xếp làm tăng kết cấu hạ tầng thúc đẩy sản xuất kinh doanh và khắc phục ô
nhiễm môi trường.
Thứ hai, các thành viên tham gia CCN ở nước ngoài khá rộng rãi, bao
gồm các nhà cung cấp, các cơ sở sản xuất, các tổ chức dịch vụ, các trường đại
học và viện nghiên cứu có quan hệ với nhau trong chuỗi giá trị sản xuất; còn ở
Việt Nam, CCN chỉ tập trung các cơ sở sản xuất - kinh doanh có liên hệ với
nhau chủ yếu trong sử dụng chung kết cấu hạ tầng và trong xử lý môi trường.
Thứ ba, trình độ và tính chất của mối liên kết kinh tế giữa các thành viên
trong CCN nước ngoài cao hơn so với Việt Nam.
Qua phân tích khái niệm về CCN nêu trên, tác giả nhận thấy khái niệm
về CCN tại Quyết định số 44/2010/QĐ-UBND ngày 10 tháng 9 năm 2012 của
UBND Thành phố Hà Nội đảm bảo được các nội dung: Khái quát đầy đủ cả
cụm công nghiệp và cụm tiểu thủ công nghiệp; khẳng định phải có hệ thống kết
cấu hạ tầng chung được xây dựng đồng bộ; phải có đầy đủ các điều kiện để sản
xuất kinh doanh thuận lợi, an toàn và bền vững.


Như vậy có thể nói rằng CCN là một dạng KCN nhưng có quy mô nhỏ
hơn, mục tiêu chủ yếu thu hút đầu tư phát triển sản xuất tại các làng nghề,
ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và do chính quyền địa phương
phê duyệt, cấp phép và quản lý.
Từ khái niệm KCN, CCN có thể hiểu: Phát triển các khu, cụm công
nghiệp là hoạt động của Đảng, Nhà nước, đảng bộ, chính quyền địa phương

bằng đường lối, chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm gia tăng số lượng,
chất lượng, cơ cấu các khu, cụm công nghiệp, thu hút các nhà đầu tư của mọi
thành phần kinh tế vào sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội đất nước, địa phương trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật.
Phát triển khu, cụm công nghiệp được thể hiện trên 3 nội dung cơ bản là:
Phát triển số lượng các khu, cụm công nghiệp; phát triển các khu, cụm công
nghiệp về chất lượng và phát triển cơ cấu các khu, cụm công nghiệp theo yêu
cầu của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước,
địa phương trong từng thời kỳ.
1.1.2. Đặc điểm khu công nghiệp, cụm công nghiệp thành phố Hà Nội
* Đặc điểm khu công nghiệp
- Xét về mặt địa lý: KCN là phần lãnh thổ của đất nước, có diện tích tương
đối lớn. Mỗi một khu công nghiệp có diện tích rộng hàng trăm đến vài trăm hécta.
KCN thường cách xa khu dân cư và không cho phép dân cư sinh sống.
- Về mặt kinh tế:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, là
nơi tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp với sự tham gia đầu tư, sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các nguồn lực này
đóng góp vào phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có
các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt nên tại đây thuận lợi cho việc
sản xuất - kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu khi xây dựng
KCN là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu, tạo việc làm,


phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ và đặc biệt là kiểm soát ô
nhiễm môi trường.
Thứ hai, KCN là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu
phát triển của khoa học công nghệ, kinh nghiệm và trình độ tổ chức quản lý của

quốc tế vào quá trình sản xuất. Thực tiễn cho thấy, việc tiếp nhận những thành
tựu khoa học, công nghệ trong các KCN có nhiều ưu thế hơn hẳn so với các
đơn vị sản xuất, kinh doanh ở ngoài KCN. Bằng cách này, các KCN đã góp
phần tạo ra một lượng hàng hoá xuất khẩu và tiêu dùng có giá trị kinh tế cao,
tạo ra thế đứng mới cho nền kinh tế.
Thứ ba, KCN là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi với hệ thống kết cấu hạ
tầng hiện đại, bền vững. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN đáp ứng yêu
cầu của nhà đầu tư có ý nghĩa quan trọng để thu hút đầu tư vào KCN, tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư triển khai nhanh dự án.
Thứ tư, KCN có địa bàn rộng thường là vài chục đến vài trăm hécta và là
nơi tập trung nhiều doanh nghiệp. Do vậy, cùng với quá trình hoạt động của
mình, KCN có thể kéo theo những hậu quả xã hội nhất định như: Để hình thành
KCN, các địa phương đã phải thu hồi một diện tích đất khá lớn mà chủ yếu là
đất nông nghiệp, chính điều đó đã dẫn đến một lượng lớn người lao động
không có việc làm, nếu không có chính sách giải quyết việc làm tốt sẽ dẫn đến
những hậu quả khó lường. Mặt khác, do việc sử dụng nhiều lao động phổ
thông nên các KCN đã thu hút lao động không chỉ của địa phương mà còn của
mọi miền đến làm việc và ngụ cư, đối tượng này thường không có nhà ở và
thường xuyên có sự biến động về số lượng nên rất khó quản lý và có thể gây
sức ép lên hệ thống giao thông, giáo dục, y tế và nhà ở của địa phương. Hơn
nữa, trong quá trình vận hành các KCN không thể tránh khỏi những vụ xung
đột giữa người sử dụng lao động với người lao động, do tính chất lan truyền và
do các doanh nghiệp ở gần nhau nên nếu không giải quyết khéo các xung đột
này có thể gây bất ổn cho cả vùng.
Thứ năm, KCN là môi trường tốt để đào tạo nguồn nhân lực, lao động
được trực tiếp làm việc trong một môi trường có tính kỷ luật và yêu cầu tay


nghề cao, đã rèn luyện cho lực lượng lao động tại các doanh nghiệp KCN, đặc
biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài những kỹ năng và bản lĩnh

làm việc thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
KCN là một mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới,
nhưng chỉ mới xuất hiện ở nước ta kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI. Trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển các KCN Việt Nam đã khẳng
định là một lực lượng công nghiệp mạnh có đóng góp ngày càng lớn trong
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như: góp phần làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ,
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế.
* Đặc điểm cụm công nghiệp
Cụm công nghiệp cũng giống như khu công nghiệp là khu vực dành cho
sản xuất, kinh doanh dịch vụ không có dân cư sinh sống tuy nhiên xét về mặt
quy mô cụm công nghiệp có diện tích nhỏ hơn khu công nghiệp: "Cụm công
nghiệp có quy mô diện tích không quá 50 ha. Trường hợp cần thiết phải mở
rộng cụm công nghiệp hiện có thì tổng diện tích sau khi mở rộng cũng không
vượt quá 75 ha [24, tr.2].
Cụm công nghiệp do Ủy ban nhân dân tỉnh của các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định thành lập nhằm mục đích chủ yếu di dời, sắp xếp,
thu hút các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cá nhân, hộ gia
đình ở địa phương vào đầu tư sản xuất kinh doanh.
* Phân biệt CCN với các KCN, KCX
- Điểm giống nhau:
Khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp có quan hệ mật thiết vì
chúng đều là hình thức tổ chức sản xuất theo lãnh thổ và nói chung chúng
giống về mục đích, nội dung hoạt động chỉ có khác nhau về mức độ, trình độ
phát triển.
- Điểm khác nhau:
Về quản lý: KCN, KCX do Nhà nước quyết định thành lập và quản lý.
CCN do chính quyền địa phương quyết định thành lập và quản lý và khác hoàn



toàn với khái niệm KCX - chủ yếu liên quan đến vấn đề sản xuất hàng xuất
khẩu.
Về quy mô: KCN có quy mô lớn, CCN có quy mô vừa và nhỏ, giới hạn
trong địa phương một tỉnh, huyện, hoặc xã.
Về trình độ sản xuất: KCN, KCX có trình độ sản xuất hiện đại; CCN là
hình thức biểu hiện thấp của KCN, có trình độ sản xuất ở mức trung bình.
1.1.3. Vai trò của khu, cụm CN đối với phát triển kinh tế – xã hội.
Việc phát triển các KCN, KCX và các CCN trong những năm qua thực
sự là một động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy
việc thành lập và phát triển các KCN, CCN là hết sức cần thiết và có vai trò to
lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung và mỗi địa
phương có KCN, CCN nói riêng.
* Góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH và đô thị hóa
Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và đang
vững bước đi lên. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ cấu kinh tế
tiếp tục chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Nền kinh tế Việt Nam trong 10
năm 2001-2010 duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong
nước thời kỳ 2001-2005 bình quân mỗi năm tăng 7,51%.
Giai đoạn 2005-2010 đã đạt được kết quả là: “ Tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,6 lần so với giai
đoạn 2001-2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Hầu
hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát
triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã đảm bảo
an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải
thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; đầu
tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng cao; phát triển các cụm công
nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp… đã có tác động tích cực đến việc sản
xuất, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo. Sản phẩm công nghiệp phát triển



ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ
vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Đã đầu tư phát
triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ
tăng trưởng ổn định, Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng
CNH, HĐH [1, tr.2].
Cùng với sự đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế của
nước ta, trong những năm qua không thể không kể đến sự đóng góp của việc
phát triển các KCN, CCN. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh
tế: Vùng trung du miền núi phía Bắc; vùng đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc
Trung bộ và Duyên hải miền Trung; vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam Bộ và
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là
vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây
dựng các KCN tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất
hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng. Điều
này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp,
giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp đồng thời phát triển nhanh hơn sản xuất hàng
hoá, hướng về xuất khẩu.
Tính đến tháng 12/2011 cả nước có 283 KCN được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên 76.000ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho
thuê đạt gần 46.000ha, tỷ lệ lấp đầy 61% - 65%. Các KCN đang hiện diện tại
58 tỉnh, thành phố, được hình thành trên cơ sở phát huy lợi thế, tiềm năng của
các vùng kinh tế trọng điểm, nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển công nghiệp
ở các địa phương. Nhờ phát triển mạnh các KCN, nhiều tỉnh, thành phố đã
đang nổi lên, trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao theo hướng CNH,

HĐH; thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại kết


hợp nâng cao mức sống người dân, như Đồng Nai, Bình Dương, Bắc Ninh,
Vĩnh Phúc, Bà Rịa - Vũng Tàu…[9, tr.1,5].
Mặt khác, việc phát triển các KCN, CCN đã góp phần hình thành nhiều
khu đô thị mới, mang lại văn minh đô thị, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần,
văn hóa, xã hội của nhân dân trên khu vực rộng lớn được đô thị hóa.
* Phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập và phúc lợi cho người lao động từ đó nâng cao chất lượng
đời sống dân cư
Phát triển KCN, CCN sẽ mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một
kênh mới có rất nhiều tiềm năng để thu hút lao động và giải quyết việc làm.
KCN là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ
mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do đó, đóng góp rất
lớn vào đào tạo nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ lao động của nền công
nghiệp hiện đại.
Đến nay, các KCN thu hút hơn 1,76 triệu lao động trực tiếp, trong đó
70% số công nhân được đào tạo ngắn hạn ngay tại cơ sở sản xuất góp phần
nâng cao năng lực cho lực lượng lao động. Tính bình quân 1 ha đất công
nghiệp cho thuê thu hút trên 70 lao động trực tiếp (trong khi đó 1 ha đất nông
nghiệp chỉ thu hút 10-12 lao động. Thống kê cho thấy phần lớn lao động làm
việc trong các KCN, CCN là lao động trẻ, có khả năng nhanh chóng tiếp thu
kỹ thuật công nghệ mới, hiện đại, phương thức tổ chức và quản lý sản xuất tiên
tiến. Sự phát triển các KCN, CCN cũng đã hình thành được một đội ngũ công
nhân có tác phong công nghiệp và ý thức kỷ luật lao động cao. Thu nhập bình
quân của lao động tại các khu, cụm công nghiệp trong nước đạt từ 3 triệu đến 5
triệu đồng/người/tháng; cá biệt có nơi đạt 7 tới 10 triệu đồng/người/tháng; đó là
cơ sở để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động nói riêng
và dân cư địa phương nói chung.

* Nâng cao năng lực công nghệ quốc gia và chất lượng nguồn nhân lực
Ngày nay, khoa học và công nghệ ở các nước trên thế giới đã phát
triển ở trình độ cao. Ở Việt Nam, trình độ khoa học công nghệ còn yếu


kém, chậm phát triển, nên cho dù một doanh nghiệp của nước ta có tiềm
lực về vốn lớn đến đâu cũng không thể tự túc mọi chi tiết sản phẩm để tạo
ra một sản phẩm hoàn chỉnh đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, mà nếu có
sản xuất được thì cũng bất lợi về chi phí, làm tăng giá thành sản phẩm. Vì
vậy phát triển KCN, CCN là để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào các KCN, CCN cùng với những dây chuyền sản xuất với công nghệ
tiên tiến, hiện đại, trong đó có những dự án công nghiệp kỹ thuật cao,
những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển
như cơ khí chính xác, điện tử....
Tại các doanh nghiệp trong KCN, CCN đặc biệt là doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công
nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và
sản xuất, nắm vững công nghệ, có tác động lan tỏa và nâng cao trình độ tay
nghề của đội ngũ lao động địa phương lên một bước. Hiện tại, một số lượng
lớn người lao động Việt Nam được đảm nhận các vị trí quản lý doanh
nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện
đại; các kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Được trực
tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật, yêu cầu tay nghề cao đã rèn luyện
được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam
thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến và hiện đại.
Theo thống kê ở Việt Nam, nhìn chung các doanh nghiệp trong
KCN, CCN có các thiết bị và trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại hơn so
với mặt bằng chung của cả nước. Nhiều công nghệ truyền thống được
nâng cấp về mặt kỹ thuật và trang bị trước khi đưa vào sản xuất sản phẩm,
nhiều công nghệ mới như công nghệ chế tạo sản phẩm cơ khí và cơ khí

chính xác, điện tử…những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém đã được
chuyển giao và sử dụng ở các doanh nghiệp trong KCN, CCN.
* Thu hút vốn đầu tư phát triển
Sự ra đời và hoạt động của các KCN, CCN đóng góp đáng kể vào kết
quả thu hút đầu tư của cả nước, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài. Phát triển


KCN, CCN có sức thu hút nguồn vốn lớn và liên tục, với tổng lượng vốn đầu
tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hiện tới 80 tỷ USD.
Trong đó, các KCN thu hút được 4.113 dự án có vốn đầu tư nước ngoài
còn hiệu lực; tổng vốn đăng ký đạt 59,6 tỷ USD, số vốn đầu tư đã thực hiện đạt
27 tỷ USD. Trung bình, mỗi năm lượng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào KCN,
KCX chiếm 35-40% tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước. Riêng
vốn đầu tư để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng của các KCN đã đạt khoảng
9,5 tỷ USD thông qua việc triển khai đa dạng và phù hợp với điều kiện thực tế
của từng địa phương [9, tr.5].
* Góp phần di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ở khu vực
thành thị và khu đông dân cư
Hiện nay ở nước ta vẫn còn tình trạng các doanh nghiệp ở trong nội
thành, khu đông dân cư đang sản xuất các ngành nghề thải ra môi trường một
lượng lớn các chất thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến
sức khỏe, cuộc sống của cộng đồng xung quanh và tác động xấu đến hệ sinh
thái nông nghiệp và thủy sinh. Do vậy phát triển các KCN, CCN với mục tiêu
tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và năng
lượng, tập trung các nguồn phế thải vào khu vực nhất định, nâng cao hiệu quả
sản xuất, hiệu quả quản lý nguồn thải và bảo vệ môi trường.
1.1.4. Tiêu chí đánh giá sự phát triển khu, cụm công nghiệp
Đánh giá sự phát triển các khu, cụm công nghiệp có thể dựa trên các tiêu
chí sau:
* Số lượng khu, cụm công nghiệp

Số lượng các KCN, CCN trên địa bàn phản ánh tiềm năng phát triển
cũng như kết quả quy hoạch, đầu tư xây dựng và phát triển các KCN, CCN để
thu hút vốn đầu tư, phát triển sản xuất CN-TTCN của địa phương.
* Diện tích khu, cụm công nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh số hécta (ha) đất được quy hoạch để xây dựng
KCN, CCN. Chỉ tiêu này cho phép chúng ta so sánh, phân loại các KCN, CCN
thành các loại lớn, trung bình và nhỏ tùy theo diện tích đất quy hoạch.
* Tỷ lệ diện tích được lấp đầy


Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả khai thác về việc sử dụng mặt bằng tại
các khu, cụm công nghiệp.
Diện tích đất đã cho thuê
% diện tích lấp đầy =

x 100%
Tổng diện tích đất khu, cụm CN

Chỉ tiêu này được đưa ra nhằm đánh giá tính hiệu quả việc khai thác và
sử dụng đất có ích trên tổng diện tích đất được cấp phép của khu, cụm CN.
Đồng thời qua đó có thể đánh giá, so sánh được thành công trong sự khai thác,
sử dụng giữa các khu, cụm CN với nhau.
* Tỷ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đất khu, cụm CN
Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng)
Tỷ lệ vốn đầu tư (tỷ đồng/ha) =
Tổng diện tích khu, cụm CN (ha)
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá, so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư
trên một đơn vị diện tích đất khu, cụm CN với nhau, từ đó có thể đánh giá được
tính hấp dẫn, thu hút đầu tư của các khu, cụm CN một cách chính xác.
* Số lao động

Chỉ tiêu số lao động trên một đơn vị diện tích đất KCN, CCN (lao
động/ha) dùng để đánh giá khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm
giữa các KCN, CCN với nhau. Qua chỉ tiêu này, chúng ta có thể thấy được lợi
ích của việc xây dựng các KCN, CCN trong việc giải quyết tình trạng thất
nghiệp và lao động dư thừa ở các địa phương.
Tỷ lệ lao động có chuyên môn, tay nghề: Phản ánh trình độ chuyên môn
và tay nghề của những người lao động. Từ đó, đánh giá được trình độ khoa học
công nghệ của các dự án hoạt động trong KCN, CCN.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của khu, cụm CN
- Về kinh tế - tài chính: Chỉ tiêu này đánh giá mức độ đóng góp của các
khu, cụm CN cho xuất khẩu, các khoản đóng góp cho ngân sách. Chỉ tiêu này
đánh giá khả năng và năng lực đóng góp của khu, cụm CN vào tăng trưởng


×