Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.67 KB, 90 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
œ¶œ

PHẠM QUANG HƯNG

LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
œœœ

PHẠM QUANG HƯNG

LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA Ở HÀ NỘI

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60 31 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS ĐỖ VĂN NHIỆM

HÀ NỘI - 2013




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN HÀ NỘI
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA

Trang
3
11

1.1

Lý luận chung về lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà

1.2

Nội trong quá trình công nghiệp hóa
Thực trạng lợi ích kinh tế của người nông dân Hà nội

11
30

Chương 2

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI

53

PHÁP CHỦ YẾU BẢO ĐẢM LỢI ÍCH KINH
TẾ CỦA NÔNG DÂN HÀ NỘI TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA HIỆN NAY
Những quan điểm cơ bản
Một số giải pháp chủ yếu

2.1
2.2
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

53
63
85
87
93


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông dân nước ta là giai cấp đông đảo nhất trong số các giai cấp, tầng lớp
xã hội. Trong suốt tiến trình cách mạng của dân tộc, giai cấp nông dân luôn tâm
nguyện một lòng đi theo Đảng, nêu cao tinh thần yêu nước và truyền thống cần
cù, không ngại khó khăn và gian khổ, góp phần to lớn cùng toàn dân thực hiện

thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do và thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước bước sang thời kỳ mới. Hiện nay, nông dân nước ta
chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội, họ vừa là đối tượng chịu sự tác động
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời cũng là chủ thể tích cực
tham gia thực hiện quá trình ấy. Có thể nói lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh
tế khách quan tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là
cuộc sống của người nông dân, do vậy đảm bảo lợi ích kinh tế của người nông
dân là yếu tố quyết định nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
họ trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một điều không thể phủ nhận là, trong khoảng 1/4 thế kỷ thực hiện đường
lối đổi mới đất nước vừa qua, đặc biệt là với những tác động của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân đã đạt được những thành tựu khá toàn diện và to lớn. Đời sống của
người nông dân đã có những đổi thay tích cực. Thu nhập của người nông dân
đã từng bước được cải thiện và nâng cao hơn nhiều so với trước. Nông dân
nước ta, từ chỗ thiếu đói thường xuyên, nay đã có dư thừa lương thực để xuất
khẩu; từ đa số sống trong cảnh nhà tranh, nay đã là nhà ngói và bê tông hóa;
trước đây, chủ yếu sản xuất để phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, nay đã vươn
lên sản xuất hàng hóa và cung cấp ra thị trường nước ngoài.
Là một trung tâm kinh tế chính trị của đất nước, so với các địa phương
khác trong nước, những năm vừa qua lợi ích của nông dân sống trên địa bàn Hà
Nội được bảo đảm khá tốt. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn đã ra sự chuyển biến tích cực, đời sống của nông dân được
cải thiện rõ nét. Tuy nhiên, nếu xét trong điều kiện là nông dân của Thủ đô thì


việc bảo đảm lợi ích của nông dân thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng sẵn có. Đặc biệt là với nông dân ngoại thành từ khi Hà nội mở rộng đến
nay. Vì vậy, vấn đề lợi ích của nông dân Hà Nội cần phải được quan tâm hơn
nữa cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Lợi ích

kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của nông dân nói riêng đã
được nhiều tác giả nghiên cứu dước các góc độ tiếp cận khác nhau.
Dưới góc độ lợi ích kinh tế nói chung
Trong cuốn “Bàn về lợi ích kinh tế”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà nội, 1982
của các tác giả Lê Xuân Tùng, Đào Duy Tùng, Xuân Kiều, Vũ Hữu Ngoạn.
Thông qua tác phẩm các tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về lợi ích kinh
tế. Trong đó, tác giả Lê Xuân Tùng cho rằng: Lợi ích kinh tế là cái biểu hiện
của các quan hệ kinh tế dưới hình thức những động cơ, mục đích, những nhân
tố khách quan thúc đẩy hoạt động lao động của con người. Lợi ích kinh tế gắn
chặt với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích. Lợi ích kinh tế là một
phạm trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở một quan hệ sản
xuất nhất định, không phụ thuộc vào ý muốn con người. Lợi ích kinh tế tồn tại
khách quan song lợi ích kinh tế muốn thực hiện được phải thông qua con
người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Người ta không thể thực
hiện được lợi ích kinh tế của cá nhân nếu tách khỏi quan hệ sản xuất. Lợi ích
kinh tế được thể hiện trong cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất và bao giờ
cũng mang tính vật chất. Nó được biểu hiện cuối cùng trong các giá trị sử dụng,
dưới hình thức những tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Luận án tiến sĩ triết học “Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay” của Đặng Quang Định, 2010. Thông qua luận án, tác giả phân
tích quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về lợi ích kinh tế, quan điểm của Đảng
ta về vấn đề kết hợp hài hoà ba lợi ích kinh tế (toàn xã hội, cá nhân, người lao


động) và sự vận dụng chúng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó,
tác giả chỉ ra tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp

công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đối với việc xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề xuất giải pháp hữu ích
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Luận án Phó tiến sĩ triết học “Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể
và cá nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Bách, Học viện Nguyễn Ái Quốc
1988. Thông qua luận án, tác giả phân tích bản chất và đặc trưng chủ yếu của
lợi ích kinh tế, vai trò trong sự vận động của các qui luật kinh tế, các quan hệ
sản xuất và sự phát triển xã hội. Phân tích các đặc điểm chủ yếu của quan hệ
giữa các lợi ích kinh tế ở nước ta, những mâu thuẫn và đưa ra một số ý kiến về
phương pháp luận giải quyết các mâu thuẫn đó. Kết hợp tốt ba lợi ích kinh tế
và giáo dục chính trị, tư tưởng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Luận án Phó tiến sĩ kinh tế “Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân
phối trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam” của Ung Thị Minh Lệ, thành phố Hồ Chí Minh, 1996. Thông qua luận
án, tác giả. Phân tích một số lợi ích cơ bản, mối liên hệ giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội, đồng thời đưa ra một số biện pháp trong lĩnh vực tài chính nhằm
thực hiện các lợi ích kinh tế trong quá trình phân phối, phân phối lại tổng sản
phẩm quốc gia và các nguồn tài chính khác
Luận án Tiến sĩ quân sự “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng
nó vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” của Chử Văn Tuyên, Học viện chính trị quân sự, 1998. Trong luận án tác
giả đã phân tích dưới góc độ kinh tế chính trị về nội dung vấn đề lợi ích kinh tế
của người lao động trong thời kỳ quá độ. Đặc điểm sự vận dụng lợi ích kinh tế
vào quân đội. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần của quân dân.


Luận án Phó tiến sĩ khoa học Triết học “Vai trò động lực của lợi ích kinh

tế đối với sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay” của Đỗ Nhật Tân, 1991. Trong luận án, tác giả phân
tích bản chất lợi ích kinh tế, tính đa dạng phức tạp của các quan hệ lợi ích kinh
tế trong xã hội. Làm sáng tỏ vai trò động lực của lợi ích kinh tế trong hệ thống
các động lực phát triển xã hội, trong các thành phần kinh tế. Tìm ra được đặc
thù của động lực lợi ích kinh tế nhiều thành phần và giải pháp khuyến khích tối
đa động lực ở Việt Nam.
Luận án “Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông
nghiệp tập thể” của Nguyễn Duy Hùng, 1988. Trong luận án tác giả đề xuất
những hình thức cơ bản kết hợp các lợi ích kinh tế, góp phần giải quyết mâu
thuẫn đang cản trở bước tiến của nông nghiệp tập thể, đảm bảo sự phát triển hài
hòa của các lợi ích kinh tế ấy, nhờ đó tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nông
nghiệp tập thể phát triển.
Luận án Phó tiến sĩ khoa học kinh tế “Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta
hiện nay” của Vương Đình Cường, 1992. Trong luận án, tác giả đề cập đến lợi
ích kinh tế nông dân trong cơ chế khoán 10 qua việc phân tích vai trò, nội dung
các mối quan hệ với lợi ích kinh tế của nhà nước và tập thể. Đề xuất những
biện pháp kinh tế cơ bản để nâng cao lợi ích kinh tế nông dân, tạo động lực
phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp.
Luận án Phó tiến sĩ kinh tế “Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp
nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh” của Phạm Thắng, Thành phố Hồ Chí
Minh, 1997. Thông qua luận án, tác giả đã khái quát các vấn đề lý luận căn bản
có liên quan đến lợi ích và lợi ích kinh tế. Phân tích tổng quát thực trạng của
việc kết hợp các lợi ích kinh tế trong các doanh nghiệp nhà nước trong cả nước
nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng qua các giai đoạn khác nhau.
Dưới góc độ lợi ích của nông dân nói riêng


Cuốn sách “Bàn về chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi

thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp” của Nguyễn Văn Nhường,
Nguyễn Thành Độ, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2011.
Trong tác phẩm, tác giả giới thiệu chính sách an sinh xã hội đối với người
nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp. Tình hình và
kết quả thực hiện chính sách cùng những khuyến nghị hoàn thiện chính sách an
sinh xã hội đối với người nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu
công nghiệp từ thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh.
Cuốn sách “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, hội nông
dân ở Việt Nam” của Vũ Ngọc Kỳ, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2005.
Thông qua tác phẩm, tác giả trình bày vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước đối với nông dân và Hội nông dân trong thời kỳ mới, phát huy vai trò của
giai cấp nông dân và Hội nông dân, giải quyết vấn đề đất đai đối với hộ nông
dân không còn đất sản xuất.
Cuốn sách “Nông dân và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn
Viết Chung, Nhà xuất bản Sự thật, 1962.
Trong tác phẩm, tác giả đi sâu phân tích tình hình thực tế của nông dân
Việt Nam dưới chế độ cũ: Sự nghèo nàn, lạc hậu, hiểu biết nông cạn, văn hoá
thấp kém. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là con đường mở ra sự ấm no, hạnh
phúc cho người nông dân: Cung cấp những hiểu biết cơ bản về chế độ xã hội
chủ nghĩa tươi đẹp ở Việt Nam
Cuốn sách “Nông dân ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh trong tiến trình
đô thị hoá” của Lê Văn Năm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
Trong tác phẩm, tác giả phân tích tổng quan tình hình đô thị hoá ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh. Sự mất cân đối trong cuộc sống người nông dân
do thay đổi môi trường, cảnh quan. Sự mất cân đối trong hoạt động kinh tế,
trong đời sống xã hội của họ do tác động của đô thị hoá.
Cuốn sách “Việc làm của nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Bùi Thị Ngọc Lan (Chủ biên), Hoàng



Chí Bảo, Nguyễn Đức Bách – Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, 2007. Trong tác
phẩm, các tác giả phân tích những nhân tố cơ bản tác động đến việc làm của
nông dân vùng đồng bằng sông Hồng. Thực trạng, triển vọng và một số giải
pháp cho nông dân cùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2015.
Luận án Tiến sĩ Triết học “Quan hệ giữa nhà nước và nông dân ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay” của Phạm Ngọc Anh, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 1999. Trong luận án, tác giả phân tích, bản chất, nội dung, hình thức
thể hiện giữa nhà nước và nông dân. Đưa ra phương hướng và biện pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện quan hệ này trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Như vậy, mặc dù vấn đề lợi ích kinh tế nói chung, lợi ích kinh tế của nông
dân nói chung đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề lợi
ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
hiện nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích một cách hệ thống lợi ích kinh tế của nông dân trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất những quan điểm cơ bản và
giải pháp chủ yếu bảo đảm lợi ích kinh tế của nông ngoại thành Hà Nội hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân Hà
Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đánh giá thực trạng bảo đảm vấn đề lợi ích kinh tế của nông dân Hà Nội
trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay
Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo đảm lợi ích
kinh tế của nông dân ở Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lợi ích kinh tế của người nông dân trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.



Phạm vi nghiên cứu
Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Hà Nội, thông qua khảo sát từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn kiện
của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Ngoài ra, quá trình nghiên
cứu còn sử dụng các lý luận có liên quan khác để tiếp cận đối tượng, luận giải
nhiệm vụ của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu bao gồm: Hệ
thống phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; Phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị cùng các
phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa; Phương pháp trừu
tượng hoá khoa học; Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần luận giải tính khoa học về lợi ích
kinh tế của nông dân ở Hà Nội làm cơ sở cho các địa phương trên địa bàn Hà
Nội bảo đảm lợi ích kinh tế cho nông dân hiện nay. Ngoài ra, luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy kinh tế
chính trị liên quan đến lợi ích kinh tế của nông dân.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm có: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục




Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH
KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Lý luận chung về lợi ích kinh tế của nông dân ở Hà Nội trong quá
trình công nghiệp hóa
1.1.1. Lợi ích và lợi ích kinh tê
Lợi ích
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đúng đắn của nhân loại C.Mác và
Ph.Ăngghen đi từ nhu cầu của con người hiện thực để nghiên cứu lịch sử, qua
đó chỉ ra cơ sở hình thành lợi ích và vai trò của nó trong sự phát triển của lịch
sử. Để hiểu đúng nội dung phạm trù lợi ích trước hết cần xuất phát và phân tích
phạm trù nhu cầu.
Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người. Tuy nhiên,
nhu cầu không phải là những cái chung chung trừu tượng, mà phải là nhu cầu
về của cải vật chất và dịch vụ nhằm thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần của
mỗi người, mỗi cộng đồng người và mỗi tập đoàn xã hội nhất định.
Nhu cầu về của cải vật chất là nhu cầu về các sản phẩm của nền sản xuất
xã hội, tức là của cải vật chất và dịch vụ mang tính chất xã hội có nguồn gốc từ
nền sản xuất của xã hội. Thông thường trong cuộc sống, nhu cầu về vật chất
thường được đồng nhất với nhu cầu kinh tế. Nói cách khác, nhu cầu kinh tế
trước hết cũng là nhu cầu về vật chất, song không phải mọi nhu cầu về vật chất
đều là nhu cầu kinh tế. Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử xã
hội loài người, chỉ khi nào xuất hiện các hình thức khác nhau về sở hữu tư liệu
sản xuất, xuất hiện phân công lao động xã hội, lúc đó những nhu cầu về vật
chất của con người mới mang tính chất xã hội và chuyển hóa thành nhu cầu
kinh tế. Khi nhu cầu kinh tế của một chủ thể nào đó được đáp ứng, được thỏa
mãn thì lúc đó mới xuất hiện lợi ích kinh tế.
Như vậy, lợi ích nảy sinh từ nhu cầu, là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa
các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội. Khi các nhu



cầu được đáp ứng, được thỏa mãn, có nghĩa con người đã có lợi ích. Lợi ích là
hiện tượng xã hội khách quan tồn tại trong đời sống xã hội, gắn liền với chủ
thể. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, lợi ích cũng mang tính giai cấp và tính
lịch sử cụ thể.
Nhu cầu của con người rất phong phú đa dạng nên lợi ích cũng rất phong
phú và đa dạng. Nhu cầu có nhu cầu vật chất hay nhu cầu văn hoá tinh thần;
nhu cầu trước mắt hay nhu cầu lâu dài; nhu cầu tiêu dùng hay nhu cầu sản xuất.
Theo đó có lợi ích vật chất hay tinh thần; lợi ích trước mắt hay lợi ích lâu dài.
Mặt khác, trong các hoạt động thực tiễn vì sự tồn tại và phát triển của mình,
con người có nhu cầu chung phải liên kết với nhau, những nhu cầu chung là cơ
sở hình thành lợi ích chung. Ngoài những lợi ích chung, con người còn có lợi
ích riêng nảy sinh từ các nhu cầu trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, bên
cạnh những nhu cầu chung của tập thể, xã hội, còn có nhu cầu riêng của cá
nhân, những nhu cầu này hình thành nên lợi ích chung và lợi ích của mỗi cá
nhân.
Từ đó, có thể quan niệm lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan gắn liền
với những chủ thể xác định, được nảy sinh từ nhu cầu và nhằm thoả mãn nhu
cầu con người trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người có thể nảy sinh rất
nhiều quan hệ lợi ích. Nếu phân chia theo lĩnh vực thì bao gồm: Lợi ích kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nếu phân chia theo phạm vi
cấp độ có: Lợi ích các nhân, nhóm, tập thể, xã hội. Phân chia theo thời gian có:
Lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài… Phân chia theo các khâu của quá trình tái
sản xuất thì có: Lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, nhà phân phối.
Lợi ích kinh tế
Trong xã hội có nhiều lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích có vai trò nhất định
đối với mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, tầng lớp cụ thể, trong đó lợi ích kinh tế trực
tiếp đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Theo quan điểm của

chủ nghĩa Mác – Lênin, về bản chất lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế
khách quan, được quy định bởi hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định và biểu
hiện mối quan hệ lẫn nhau giữa sản xuất vật chất và nhu cầu vật chất. Nói cách


khác, lợi ích kinh tế là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của
các chủ thể kinh tế. Nó là những khoản thu nhập được ấn định bởi các mối
quan hệ kinh tế nhằm đảm bảo điều kiện cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển
của các chủ thể. Khi không thực hiện được lợi ích kinh tế, nghĩa là không nhận
được những khoản thu nhập nhất định, chủ thể kinh tế không thể tồn tại và phát
triển như là đại biểu độc lập của các quan hệ kinh tế. Như vậy quan hệ kinh tế
quyết định lợi ích kinh tế thông qua vai trò, vị trí các chủ thể lợi ích trong một
hệ thống xã hội nhất định.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách
quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ
thống quan hệ sản xuất quyết định. Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại
và phát triển thì nhu cầu của họ phải được đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng
nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.
Cũng giống như lợi ích của con người nói chung, lợi ích kinh tế gắn liền
với nhu cầu, song đây không phải là nhu cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tế (nhu
cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu kinh tế mới làm phát sinh lợi ích kinh tế.
Vì vậy, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những
điều kiện, những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con
người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của
cải vật chất mà mỗi con người có được, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế
- xã hội. Mặt khác, nó phản ánh quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình tham gia vào các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình.
Những quan hệ đó chính là quan hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích kinh tế
còn là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết

định.
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
quyết định vị trí, vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham
gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm
ngoài những quan hệ sản xuất, mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất,


là hình thức vốn có bên trong, hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ
sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph.Ăngghen: Các quan hệ kinh tế của một xã hội
nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy
định hệ thống lợi ích kinh tế của xã hội đó. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, ở nước ta tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó hệ thống lợi ích kinh
tế cũng mang tính đa dạng. Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành
các nhóm, các loại lợi ích kinh tế khác nhau. Dưới góc độ khái quát nhất có thể
phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế
tập thể và lợi ích kinh tế xã hội. Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích
kinh tế tương ứng với các thành phần kinh tế đó. Dưới góc độ các khâu của quá
trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, người phân phối,
người trao đổi, người tiêu dùng.
Dù cách phân chia có thể khác nhau, song các lợi ích kinh tế bao giờ cũng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ
thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác.
Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế của
người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự
tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng lấn át của lợi ích kinh
tế này đối với lợi ích kinh tế khác. Chính vì vậy, nó có thể gây nên những xung
đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong các

xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích kinh tế cũng mang tính đối kháng.
Đó chính là nguyên nhân dẫn đến những cuộc đấu tranh không khoan nhượng
giữa các giai cấp. Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các
hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế,
phí, lệ phí...


Từ những phân tích trên có thể hiểu: Lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội
nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của các chủ thể kinh tế. Những nhu cầu kinh tế
của con người khi nó được xác định về mặt xã hội thì trở thành cơ sở, nội dung
của lợi ích kinh tế.
Trong hệ thống lợi ích kinh tế: cá nhân, tập thể và xã hội, thì lợi ích kinh
tế cá nhân là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất thúc đẩy các chủ thể tham gia
một cách tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội và nâng cao hiệu quả kinh
tế của chúng. Bởi vì:
Thứ nhất: lợi ích kinh tế cá nhân là lợi ích thiết thực nhất, gắn liền với
từng cá nhân, từng chủ thể. Nó trực tiếp đáp ứng nhu cầu vật chất của từng cá
nhân, của từng chủ thể đó khi tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Ở
đâu và khi nào lợi ích kinh tế cá nhân được bảo đảm, thì ở đó sẽ tạo ra được
động lực mạnh mẽ nhất kích thích họ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Có thể nói, lợi ích kinh tế
cá nhân là "huyệt" mà sự tác động vào đó sẽ gây nên phản ứng nhanh nhạy nhất
của các chủ thể trên. Nó là chất kết dính người lao động với quá trình sản xuất
kinh doanh, là một thứ "dầu nhờn" đặc biệt để bôi trơn guồng máy kinh tế.
Điều đó lý giải vì sao cơ chế thị trường đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy
sản xuất phát triển, đồng thời nó cũng lý giải vì sao cơ chế thị trường còn có
nhiều mặt trái. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta trong những năm qua
cũng đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn, trong lĩnh vực nông nghiệp, với cơ
chế khoán hộ, Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ nông
dân, cùng với những chính sách khác, nước ta đã từ một nước thiếu lương thực,

phải nhập khẩu lương thực, trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai, thứ ba
trên thế giới.
Thứ hai: lợi ích kinh tế cá nhân tạo điều kiện để thực hiện và nâng cao lợi
ích văn hóa, tinh thần của từng cá nhân. Khi lợi ích kinh tế cá nhân bảo đảm,
các chủ thể tham gia một cách tích cực và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh


doanh, từ đó họ cũng có điều kiện để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của
mình.
Thứ ba: lợi ích kinh tế cá nhân là cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế tập thể và
lợi ích xã hội vì dân có giàu thì nước mới mạnh. Khi lợi ích kinh tế cá nhân
được bảo đảm, người dân hăng say, tích cực sản xuất để thực hiện nghĩa vụ của
mình với Nhà nước, tập thể thì lợi ích kinh tế của Nhà nước (xã hội), tập thể
cũng mới được thực hiện.
Vì vậy, để kích thích tính tích cực của người lao động, phát huy tối đa vai
trò nhân tố con người, thì vấn đề mấu chốt, căn bản nhất là phải tác động vào
lợi ích kinh tế mỗi cá nhân. Tạo điều kiện để mỗi người lao động, mỗi cá nhân,
mỗi chủ thể thực hiện được lợi ích kinh tế của mình, bảo đảm sao cho mỗi
người được đóng góp và được hưởng phần thu nhập phù hợp với sự đóng góp
của họ.
Những đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế
Một là, lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy
luật kinh tế
Lợi ích kinh tế là cái phản ánh những quan hệ kinh tế, do các quan hệ kinh
tế sinh ra; là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thỏa mãn
những nhu cầu vật chất của con người. Nói đến lợi ích kinh tế trước hết là nói
đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Việc thực hiện phân phối kết quả sản
xuất trong một phương thức sản xuất nhất định là câu trả lời chính xác nhất: lợi
ích thuộc về ai? Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan hệ phân
phối phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất của xã hội. Điều đó

có nghĩa, mỗi quan hệ sản xuất có một phương thức phân phối sản phẩm, do đó
có một hình thức thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất của lợi ích là do những
quan hệ sản xuất quyết định, mà quan hệ này lại do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định. Nó cách khác, lợi ích kinh tế có tính khách quan.
Trong các xã hội có giai cấp, lợi ích kinh tế tất yếu mang tính chất giai
cấp. Ví dụ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp tư sản là thu được


giá trị thặng dư và lợi nhuận tối đa bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm
thuê. Còn lợi ích kinh tế của những người lao động chỉ hạn chế trong phạm vi
giá trị sức lao động của họ. Do lợi ích kinh tế có tính giai cấp nên trong điều
kiện có nhiều thành phần kinh tế như hiện nay tất yếu tồn tại mâu thuẫn về lợi
ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể kinh tế khác với nhau.
Khi trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều quan hệ sở hữu khác nhau đối với
tư liệu sản xuất, tất yếu tồn tại nhiều phương thức thực hiện lợi ích kinh tế. Các
phương thức này có thể tồn tại độc lập, cũng có thể tồn tại trong mối quan hệ
đan kết vào nhau, tạo nên cơ cấu thực hiện lợi ích trong một nền sản xuất xã
hội. Sự tồn tại đó là khách quan do tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và điều kiện lịch sử cụ thể quyết định.
Lợi ích kinh tế một khi đã thể hiện những quan hệ kinh tế thì đồng thời
cũng thể hiện mối liên hệ nội tại tất yếu, có tính ổn định trong quan hệ sản xuất,
tức là những quy luật kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế được thể hiện không
những các quan hệ kinh tế mà cả những quy luật kinh tế. Trên cơ sở tư tưởng
đó, có thể nói lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể của các quan hệ kinh
tế và các quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó. Việc nhận thức đặc trưng
này giúp chúng ta hiểu rõ và sâu hơn cơ chế hoạt động và vận dụng quy luật
kinh tế, vì lợi ích kinh tế là một nhân tố cần thiết của cơ chế đó.
Hai là, lợi ích kinh tế luôn gắn liền với nhu cầu kinh tế
Lợi ích kinh tế là một hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh tế, các
quan hệ kinh tế này lại vận động theo những quy luật khách quan, nhưng

những quy luật kinh tế chỉ có thể tác động thông qua hoạt động thực tiễn của
con người, mà biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích. Bởi vì, lợi ích kinh tế
luôn gắn liền với nhu cầu. Tất nhiên, không phải mọi nhu cầu đều là lợi ích
kinh tế, mà chỉ những nhu cầu về vật chất, kinh tế mới được gọi là lợi ích kinh
tế. Nói cách khác, lợi ích kinh tế chính là phương thức nhằm thực hiện nhu cầu
của chủ thể tham gia vào hoạt động kinh tế; nó là mối quan hệ xã hội đặc biệt,


là phương thức nhằm khẳng định địa vị của chủ thể xã hội trong bối cảnh có
những mối quan hệ xã hội phức tạp.
Ba là, lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính chất lịch sử
Mỗi xã hội đều có một hệ thống lợi ích kinh tế của mình do trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định. Các hệ thống lợi ích kinh tế đó khác
nhau về tính chất, quy mô, phương thức, kết cấu và mối quan hệ nội tại giữa
các thành phần trong kết cấu đó. Theo C.Mác, quy mô của những nhu cầu được
gọi là tất yếu và những phương thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm
của lịch sử và phụ thuộc phần lớn và trình độ văn hóa của đất nước.
Nhận thức được tính chất lịch sử của lợi ích kinh tế là một yêu cầu có ý
nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức phương thức thực hiện lợi ích của các
chủ thể và xác định một cơ chế kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Cần phân biệt tính
chất, quy mô của lợi ích kinh tế, làm rõ cơ cấu của hệ thống lợi ích đó, từng bộ
phận cấu thành của nó, vị trí của từng bộ phận ấy, xác định bộ phận nào đóng
vai trò chủ yếu và sự tác động qua lại với các lợi ích kinh tế khác.
Như vậy, lợi ích kinh tế là sự thống nhất giữa nhân tố khách quan với
nhân tố chủ quan và mang tính chất lịch sử cụ thể. Đây là đặc trưng nổi bật của
lợi ích kinh tế.
Vai trò của lợi ích kinh tế
Thứ nhất, lợi ích kinh tế là một trong những động lực cơ bản của sự tiến
bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất kinh doanh nói riêng.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, động lực trực tiếp thúc

đẩy các nhà tư bản là lợi nhuận siêu ngạch. Đến chủ nghĩa tư bản độc quyền thì
độc quyền làm giảm yếu tố kích thích phát triển kỹ thuật, làm suy giảm động
lực kinh tế. Trong bối cảnh đất nước ta hiện nay, muốn tạo ra những chính sách
kinh tế đúng đắn, hợp lý thì phải giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế
nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội. Đặc biệt
trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu xây dựng các khu
công nghiệp, việc đảm bảo được lợi ích của người nông dân sẽ tạo được sự
đồng tình với chủ trương phát triển đô thị, xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại


của Đảng và Nhà nước, người dân sẽ đồng thuận giao đất, giao mặt bằng cho
phát triển các khu công nghiệp.
Thứ hai, lợi ích kinh tế đóng vai trò là cơ chế tác động chung của tất cả
các quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất là khách quan, vận động của nó chính là ở sự vận động
của các quy luật kinh tế. Phương thức vận động của quy luật kinh tế phải thông
qua con người, tức là thông qua lợi ích kinh tế của con người. Ở đây, tính
khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích để chi phối con người phải
hoạt động theo quy luật. Thực tế cho thấy không có động lực kinh tế nào đứng
ngoài quan hệ sản xuất. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quan hệ sản xuất là
quan hệ trực tiếp, còn quan hệ giữa các lợi ích khác (như lợi ích chính trị, tinh
thần…) với quan hệ sản xuất chỉ là gián tiếp, thông qua những nấc thang trung
gian khác nhau của kiến trúc thượng tầng. Theo Ph.Ăngghen: Những quan hệ
kinh tế của một xã hội nhất định, được biểu hiện dưới hình thức lợi ích. Nói
cách khác, nhận thức trước tiên của con người về quan hệ sản xuất, là nhận
thức về lợi ích kinh tế, vì nó biểu hiện trên bề mặt của đời sống xã hội ở quan
hệ phân phối.
Do là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt khách quan và chủ quan, nên
lợi ích kinh tế không chỉ là cơ chế tác động chung của các quy luật kinh tế do
quan hệ sản xuất sinh ra, mà còn là động cơ của hoạt động kinh tế của con

người. Các mặt khách quan và chủ quan thống nhất biện chứng nên không có
lợi ích kinh tế khách quan thuần túy tồn tại ngoài con người hoặc con người
không có một tia ý thức gì về nó. Một mặt, thông qua lợi ích kinh tế con người
mưu cầu đời sống. Mặt khác, thông qua lợi ích kinh tế mà xu hướng phát triển
khách quan của sản xuất xã hội được thực hiện. Vì vậy lợi ích kinh tế trở thành
một trong những động lực cơ bản, phổ biến của sự phát triển không ngừng của
sản xuất và đời sống xã hội.
Thứ ba, lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.


Một khi các chủ thể tham gia vào các hoạt động kinh tế đều đạt được
những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất kinh doanh, thì các mối
quan hệ kinh tế giữa các chủ thể được tăng cường. Điều đó có tác dụng kích
thích các chủ thể nâng cao năng suất lao động, tăng khối lượng sản phẩm để
đáp ứng nhu cầu tốt hơn. Ngược lại, khi không mang lại tính lợi ích hoặc lợi
ích kinh tế không được giải quyết hợp lý giữa các chủ thể kinh tế, sẽ làm cho
các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể xuống cấp. Nếu tình trạng đó kéo dài
thì sớm muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo
hướng đó, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nếu lợi ích
của người nông dân không được đảm bảo, sẽ không tạo được sự đồng thuận
của người nông dân, không huy động được sức mạnh của người nông dân với
tư cách là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn.
Đặc biệt, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, việc làm
và thu nhập của người dân có đất bị thu hồi luôn luôn là vấn đề bức xúc, tình
hình và triển vọng thu nhập của nhiều người có đất bị thu hồi luôn chứa những
yếu tố bất ổn. Sau khi nhận tiền đền bù, nhìn chung thu nhập của họ có tăng
nhưng không bền vững. Sự gia tăng của thu nhập từ dịch vụ, chủ yếu là tăng
lên ở những dịch vụ thương mại kiểu buôn bán nhỏ lẻ, các dịch vụ ít đòi hỏi

chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cao. Chính vì vậy, việc đảm bảo lợi ích của
người nông dân, đồng thời coi trọng việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ
thuật cho người nông dân để họ có thể theo kịp tiến trình phát triển chung của
xã hội là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Chỉ có như vậy mới giải quyết căn bản vấn đề việc làm và cuộc sống lâu
dài cho người nông dân có đất bị thu hồi, để họ yên tâm ổn định và phát triển
sản xuất.
Do vai trò hết sức quan trọng, nên việc nhận thức và giải quyết đúng đắn
lợi ích kinh tế là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược. Nếu không hiểu được


vai trò của lợi ích kinh tế, không có chính sách và cơ chế đảm bảo cho nó được
thực hiện thì có nghĩa là bỏ mất một động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Lợi ích kinh tế có vị trí quan trọng trong đường lối, chính
sách kinh tế, nó phải là một trong những cơ sở quan trọng bậc nhất của chính
sách kinh tế và được quán triệt vào hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế cả tầm
vỹ mô và vi mô. Theo C.Mác: Ở đâu không có sự thống nhất về lợi ích thì ở đó
không có sự thống nhất về mục đích chứ không nói đến sự thống nhất trong
hành động.
Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động kinh tế, của sự phát triển xã
hội. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta hạ thấp vai trò của lợi ích
chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội. Nhất là trong điều kiện mở rộng hợp tác,
giao lưu kinh tế với các nước khác, phải quan tâm chú trọng không chỉ đến lợi
ích kinh tế, mà cả lợi ích chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội. Trong những
điều kiện đặc biệt (trong điều kiện chiến tranh, đất nước có giặc ngoại xâm...),
thì thậm chí, lợi ích chính trị, tư tưởng, vấn đề an ninh, độc lập chủ quyền của
quốc gia còn phải đặt lên trên hết và trước hết.
1.1.2. Lý luận cơ bản về lợi ích kinh tê của nông dân trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
Quan niệm về lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội
Nông dân là người lao động cư trú ở nông thôn sống chủ yếu bằng nghề
làm ruộng, nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Nói cách khác, nông dân
là những người sống lâu đời ở nông thôn, lấy sản xuất nông nghiệp làm nguồn
sống chính. Về cơ bản, lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nông
thôn của Hà Nội cũng như của cả nước ta còn thấp, năng xuất lao động thấp.
Trong khi đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được xác định là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và


phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Chính vì vậy, lợi
ích kinh tế của nông dân Hà Nội, cũng như nông dân cả nước cũng chính là
nhu cầu được chuyển đổi từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.
Từ đó có thể hiểu, lợi ích kinh tế của nông dân Hà Nội trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: Những quan hệ kinh tế, phản ánh những nhu
cầu, những động cơ khách quan trong sản xuất, kinh doanh của nông dân Hà
Nội khi tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và do hệ thống
quan hệ sản xuất quyết định.
Lợi ích kinh tế của nông dân là tổng thể những nguồn thu từ hoạt động
kinh tế của họ để đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt cho mọi thành viên
trong gia đình. Lợi ích kinh tế của nông dân hiện nay được thể hiện: Một là, lợi
ích kinh tế của nông dân trong sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp
và thuỷ sản. Hai là, lợi ích của nông dân trong mua bán, cho thuê, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Ba là, lợi ích kinh tế của nông dân khi tham gia lao
động sản xuất các ngành nghề công nghiệp, xây dựng. Bốn là, lợi ích kinh tế

của nông dân trong các hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, tạo điều kiện xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, nâng cao năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả trong các hoạt động kinh tế. Theo hướng đó, lợi ích
kinh tế của các chủ thể kinh tế khi tham gia vào tiến trình công nghiệp hóa là
nhu cầu cải biến trình độ công nghệ, ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện
đại và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Chủ thể giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế người nông dân trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong nền kinh tế thị trường, lợi ích kinh tế của người lao động nói chung,
của người nông dân nói riêng do chủ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định. Đối
với người nông dân, vì tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai. Theo Luật đất đai,


quyền sở hữu đất đai là của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Như vậy,
chủ thể đảm bảo lợi ích kinh tế của người nông dân trước hết là Nhà nước – từ
Trung ương đến địa phương. Mặt khác, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế quốc dân, người nông dân vừa là chủ thể tiến hành, vừa là
người trực tiếp thụ hưởng thành quả của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Như vậy, có thể nói chính người nông dân cũng là chủ thể - trực tiếp giải
quyết lợi ích cho chính mình thông qua việc phát triển sản xuất kinh doanh,
tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân
mình và gia đình.
Những lợi ích của nông dân Hà Nội có được trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Như trên đã đề cập, lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế khi tham gia
vào tiến trình công nghiệp hóa là nhu cầu cải biến trình độ công nghệ, ứng
dụng những thành tựu công nghệ hiện đại. Đối với nông dân, lợi ích của họ gắn
liền với những tiền đề phát triển nông nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất là đất
đai bởi lẽ, đất đai là lực lượng sản xuất chủ yếu của họ. Đồng thời với đất đai là

nhu cầu ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến và nhu cầu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại. Theo hướng đó, nội dung lợi ích của nông dân Hà
Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được biểu hiện trên các nội
dung sau:
Thứ nhất, người nông dân có cơ hội được tiếp cận với những thành tựu
khoa học công nghệ mới do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại
để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản
các hoạt động sản xuất kinh doanh từ sử dụng lao động thủ công là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và
phương pháp tiên tiến. Theo hướng đó, người nông dân nước ta nói chung,
nông dân Hà Nội nói riêng từng bước được tiếp cận với máy móc trang thiết bị
hiện đại trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình đó bao gồm tất cả các
khâu, từ sản xuất đến bảo quản, và chế biến các sản phẩm nhằm nâng cao giá


trị gia tăng của hàng hóa. Theo hướng đó, thu nhập của người nông dân được
nâng lên, bảo đảm tốt hơn cho quá trình sản xuất và tái sản xuất.
Thứ hai, người nông dân có điều kiện để chuyển đổi nghề nghiệp, khai
thác và sử dụng tốt hơn các nguồn lực của cá nhân cho phát triển sản xuất kinh
doanh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Đồng thời với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá
trình mở rộng các cơ sở công nghiệp ở nông thôn. Điều đó tất yếu dẫn tới đất
cho sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm. Trong khi đó, các đô thị mới với
chức năng chủ yếu là phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Vì vậy, cơ
cấu ngành kinh tế cũng thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, thương mại. Chính sự thay đổi này buộc cơ cấu
sản xuất nông nghiệp của nông dân cũng phải có sự thay đổi mạnh mẽ theo
hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái. Các hộ

nông dân trong các hợp tác xã nông nghiệp trước đây có thể phát triển thành
các hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm các nghề tiểu thủ công nghiệp.
Đây chính là những nhu cầu tất yếu của người nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, được bồi thường giá trị sử dụng đất cùng với tài sản trên đất khi
đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp và đô thị
Nước ta nói chung, Hà Nội nói riêng đang trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đi liền với quá trình đó, là quá trình xây dựng các
khu công nghiệp, quá trình đô thị hóa. Khi xây dựng mới các khu công nghiệp,
tất yếu một diện tích đất sản xuất nông nghiệp sẽ bị chuyển đổi mục đích sử
dụng. Đồng nghĩa với nó là người nông dân mất đất sản xuất.
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của người nông dân, nếu không có đất
sản xuất cũng đồng nghĩa với việc lợi ích của người nông dân không được bảo
đảm. Luật đất đai năm 2003 qui định: Nhà nước đại diện quyền sở hữu toàn dân


×