Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường đại học nông lâm thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.83 KB, 100 trang )

1

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


MAI THỊ HỒNG LOAN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


2

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


MAI THỊ HỒNG LOAN

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH


Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 01 14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN TRỌNG
XUÂN

HÀ NỘI - 2013


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

13
Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
13
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
17
Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên 22
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC

1.1.
1.2.
1.3.
Chương 2


THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1.
2.2.

Trường đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế trong

26
26

quản lý nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học
Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3

30

YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH HIỆN NAY

49

3.1.

Yêu cầu quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh


3.2.

viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
49
Các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của 5

3.3

sinh viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh
Khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện

pháp đã đề xuất.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

2
7
5
78
81
8
5

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Giảng viên

Chữ viết tắt

GV


4
Giáo dục và đào tạo
Nghiên cứu khoa học
Thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh

GD, ĐT
NCKH
TP
TP. HCM

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Giáo dục - đào tạo cùng với nghiên cứu khoa học là nền tảng, động
lực đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo


5
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng có nêu: phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Phát triển mạnh nghiên cứu khoa
học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển nền kinh tế trí thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước” [42, tr.218].

Nghiên cứu khoa học cùng với đào tạo, bồi dưỡng là những nhiệm vụ cơ
bản nhất của các trường đại học. Hai nhiệm vụ này có tác động tương hỗ cho
nhau và cùng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo. Không thể có chất
lượng đào tạo nếu không tăng cường nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa
học là đòn bảy, là động lực để nâng cao chất lượng đào tạo.
Theo đó, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan
trọng trong công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý trường đại học nói
riêng. Điều 99, Luật giáo dục 2005 qui định việc tổ chức, quản lý công tác
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục là một
trong 12 nội dung quản lý nhà nước về giáo dục.
Trường đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh là một trường đại học đa
ngành, trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trải qua hơn 50 năm hoạt động,
Trường đã đạt nhiều thành tích xuất sắc về đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng
khoa học kỹ thuật nông, lâm, ngư nghiệp, chuyển giao công nghệ, quan hệ
quốc tế. Trường đã vinh dự được nhận Huân chương Lao động Hạng ba
(năm1985), Huân chương Lao động Hạng nhất (năm 2000), Huân chương
Độc lập Hạng ba (năm 2005).


6
Trong nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, những năm qua nhà trường đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là hoạt động NCKH của sinh viên. Lãnh
đạo nhà trường đã có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên; đại đa số cán bộ, giảng
viên, sinh viên của nhà trường có sự nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học của sinh viên; các cơ quan của nhà trường, nhất là Phòng Quản lý
nghiên cứu khoa học, Phòng Đào tạo và các khoa giáo viên đã có nhiều biện
pháp quản lý hoạt động nghiên cứu hoa học của sinh viên... Do đó, đã khuyến
khích sinh viên nghiên cứu khoa học, hướng vào các lĩnh vực chuyên ngành mà
sinh viên theo học. Tuy nhiên, khách quan đánh giá thì hoạt động quản lý

nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng còn nhiều bất cập, nhất là cơ chế,
chính sách còn thiếu, chưa đồng bộ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng
trong quản lý hoạt động nghiên cứu hoa học của sinh viên chưa chặt chẽ;
nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu khoa học của sinh viên hạn chế... Đây là
những nguyên nhân làm hạn chế hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
nhà trường. Với mong muốn đưa phong trào NCKH của sinh viên phát triển
mạnh mẽ, chất lượng cao, học viên lựa chọn “Biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường đại học Nông Lâm TP Hồ Chí
Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ quản lý giáo dục của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công tác quản lý nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giáo dục và đào
tạo đang là vấn đề được các nhà giáo dục học, các nhà quản lý trong và ngoài
nước đặc biệt quan tâm. Dưới đây là một số tài liệu mà học viên đã nghiên cứu
và vận dụng vào trong công trình nghiên cứu của mình.
Các công trình trong nước:
Tiến sĩ Đỗ Thị Châu (Đại học quốc gia Hà Nội) đã có bài viết “Nghiên
cứu khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất


7
lượng đào tạo đại học”, Tạp chí Giáo dục, Số 96/ 9 - 2004. Tác giả đã phân
tích khá sâu sắc mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học
trong các trường đại học, từ đó khẳng định NCKH góp phần đổi mới phương
pháp dạy học, nâng cao chất lượng đào tạo đại học.
“Sinh viên nghiên cứu khoa học - Một biện pháp quan trọng để nâng
cao chất lượng đào tạo ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội.” của PGS Văn
Đình Đệ (trường Đại học Bách khoa Hà Nội), Tạp chí Giáo dục Số 92/7-2004.
Tác giả đã phân tích, chứng minh một cách thuyết phục sinh viên NCKH góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Hà nội.

“Sinh viên nghiên cứu khoa học - Động lực chính để biến quá trình đào
tạo thành quá trình tự đào tạo” của GS.TSKH Trần Văn Nhung (Thứ trưởng
Bộ Giáo dục Đào tạo), Tạp chí Giáo dục số 130/ kỳ 2, 1 - 2006. Bài viết đã
khẳng định NCKH của sinh viên là một trong những giải pháp để biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo; phát huy tính tích cực tự giác, tính
sáng tạo của sinh viên trong lĩnh hội tri thức, nâng cao chất lượng đào tạo.
Nguyễn Bá Sơn (2000) Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lí. Nhà
xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội. Tác giả đã bàn đến khái niệm về công tác
quản lý nói chung, phân tích các biện pháp quản lý.
“Phương pháp đánh giá ý nghĩa và tính khả thi của các biện pháp quản lý”
của TS Bùi Văn Quân (Trường Đại học sư phạm Hà Nội), Tạp chí giáo dục, Số 133
(kỳ 1 - 3/2006). Bài viết đã đề xuất các tiêu chí đánh giá các công trình nghiên cứu
khoa học và xem đây là một trong những vấn đề quan trọng có ý nghĩa và tính khả
thi của các biện pháp quản lý.
Tác giả Vũ Tiến Thành - Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục chủ
nhiệm đề tài: “Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động khoa học và công nghệ và lao động sản xuất trong nhà trường”.


8
Năm 1991 GS.PTS Lê Thạc Cán - Viện Nghiên cứu đại học và giáo dục
chuyên nghiệp chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước, có tên gọi: “Tổ chức và quản
lý nghiên cứu triển khai trong các trường đại học phục vụ sản xuất, đời sống
và quốc phòng”.
Hai công trình trên đã nghiên cứu một cách hệ thống các biện pháp
nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ cũng
như triển khai ứng dụng và phục vụ sản xuất, đời sống.
Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục chủ trì đề tài cấp Bộ: “Điều tra
đánh giá hiện trạng tiềm lực khoa học và công nghệ của các trường đại học và
cao đẳng Việt Nam”, do GS.TS Thân Đức Hiền làm chủ nhiệm. Đề tài đã đi sâu

tìm hiểu, điều tra nguồn lực khoa học và công nghệ của các trường đại học và
cao đẳng.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn cao học, luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề
này như: năm 1998, Ninh Đức Thuật đã hoàn thành luận văn thạc sĩ “Một số
giải pháp đổi mới công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ ở trường
đại học trong giai đoạn mới”. Năm 2000, Cao Thị Thu Hằng và Nông Thị
Hạnh đã hoàn thành 2 luận văn thạc sĩ, nghiên cứu tìm hiểu thực trạng, phân
tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu khoa học giáo dục của
sinh viên và đưa ra các giải pháp nâng cao kết quả hoạt động này cho sinh viên
trường cao đẳng sư phạm Hải Dương và cao đẳng sư phạm Cao Bằng.
Năm 2001, Bùi Thị Kim Phượng có đề tài “Thực trạng và biện pháp
nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục cho sinh viên trường Cao
đẳng sư phạm Ninh Bình”.
Năm 2005, Lê Thị Thanh Chung bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài “Biện
pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên Đại
học sư phạm”.


9
Nguyễn Thị Kim Nhung bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ chuyên
ngành quản lý giáo dục với đề tài “Một số biện pháp quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học giáo dục của trường Cao đẳng sư phạm Hưng Yên”.
Các luận văn, luận án nêu trên đã nghiên cứu một cách khá toàn diện
về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở một trường đại học, cao đẳng cụ
thể. Từ phân tích lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp. Nguyễn
Thị Kiêm Nhung, trên cơ sở phân tích thực trạng, tìm ra những nguyên nhân
ảnh hưởng kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học ở Trường cao đẳng sư
phạm Hưng Yên, đã đề xuất 7 biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng, hiệu
quả cho nghiên cứu khoa học giáo dục của trường này.
Các công trình nước ngoài:

“How to study science”, Drewes F - 2nd Edi – Dubuque: Wm.C.Brown
Publisher, 2000 và “Be a scientist”, Moyer, L.Daniel, J.Hackett, Newyork:
Me Graw. Hill, 2000. Đây là những tài liệu có tính chất phương pháp luận và
những phương pháp cụ thể hướng dẫn từng bước đi cho những người mới
bước vào nghiên cứu khoa học rất thích hợp với đối tượng là sinh viên.
“Social research methods:Qualitative and quantitative approaches”,
Fourth edition, W. Lawrence Neuman Univercity of Wisconsin at Whitewater,
Publisher: Aliyn and Bacon, 2000. Những vấn đề được nêu ra trong tài liệu
này đề cập đến lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội. Đặc biệt tác giả đề cập
đến những vấn đề của quản lý cụ thể là quản lý khoa học.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập đến các vấn đề khác
nhau của công tác quản lý nghiên cứu khoa học nói chung, NCKH của sinh
viên nói riêng. Các tác giả đều đề cao ý nghĩa, vai trò của NCKH đối với việc
nâng cao chất lượng dạy và học. Phân tích thực trạng, đề xuất biện pháp quản
lý NCKH của sinh viên các trường đại học. Tuy nhiên, mỗi công trình chỉ đề
cập sâu đến một vấn đề của quản lý hoạt động NCKH của sinh viên, gắn với


10
từng trường cụ thể, khó vận dụng vào thực tiễn Trường đại học Nông lâm TP
Hồ Chí Minh.
Ngày nay, với xu thế phát triển của thời đại, nền kinh tế tri thức ở nước
ta đang có nhiều biến đổi mạnh mẽ phức tạp. Giáo dục nói chung, quản lý giáo
dục nói riêng đang đứng trước những yêu cầu cao hơn nhận thức về chuyên
môn. Nên hoạt động NCKH, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học phải được
quan tâm đổi mới mạnh mẽ, để những nghiên cứu mới có giá trị về lý luận và
thực tiễn được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Để góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, kế thừa phát
triển các đề tài của các tác giả đi trước, dù gặp nhiều khó khăn trở ngại nhưng
học viên mạnh dạn nghiên cứu đưa ra các biện pháp có tính khả thi nhằm quản

lý tốt các hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ở Trường Đại học Nông
Lâm TP Hồ Chí Minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các
biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường đại
học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Luận giải cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm thành TP Chí Minh.
- Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh.


11
* Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học của sinh viên.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm TP
Hồ Chí Minh (tập trung vào đối tượng sinh viên năm thứ 3 và thứ 4). Các số
liệu điều tra khảo sát từ năm 2008 đến 2012.
5. Giả thuyết khoa học
Nghiên cứu khoa học và giảng dạy là nhiệm vụ trung tâm của trường
đại học, biện pháp quản lý hoạt động khoa học có vai trò rất quan trọng trong
quá trình giáo dục và đào tạo của nhà trường. Sinh viên trong quá trình đào
tạo phải được tập duyệt nghiên cứu khoa học với phương châm: “Học đi đôi

với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”. Nếu trong quá trình đào tạo, nhà
trường tổ chức và quản lý tốt hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên,
có các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sịnh viên sát
đúng, bảo đảm tính đồng bộ khả thi, sinh viên có nhận thức đúng đắn nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học, tích cực chủ động trong học tập, nghiên cứu khoa
học thì chất lượng, hiệu quả đào tạo của nhà trường sẽ không ngừng được
nâng cao.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục, quan điểm
thực tiễn để xem xét, phân tích những vấn đề nghiên cứu. Đồng thời đề tài
nghiên cứu còn được thực hiện dựa trên quan điểm hệ thống - cấu trúc; đối chiếu so sánh, logic.


12
*Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học và nghiên cứu quản lí giáo dục trong đó tập trung một số
phương pháp chủ yếu như:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, mô hình hóa, khái quát hóa. Thông qua việc đọc các tài liệu, tác giả
phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết có liên quan thành
một hệ thống lý luận để hình thành các khái niệm, nêu giả thuyết khoa học định
hướng cho quá trình nghiên cứu đề tài. Nghiên cứu các văn kiện, chính sách
của Đảng và Nhà nước, các văn bản qui phạm, qui chế về công tác quản lý giáo
dục, quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, về những nhiệm vụ phát triển
của Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh trong giai đoạn tới.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra: Xây dựng 2 mẫu phiếu và tiến hành điều tra

các đối tượng sau:
Loại 1: điều tra 75 cán bộ quản lý và giảng viên hướng dẫn nghiên cứu
khoa học cho sinh viên.
Loại 2: điều tra 120 sinh viên, về thực trạng và biện pháp quản lý tổ
chức nghiên cứu khoa học cho sinh viên.
+ Phương pháp quan sát: quan sát hoạt động lãnh đạo, tác phong quản
lý của đội ngũ quản lý, hoạt động NCKH của sinh viên để rút ra những kết
luận về nội dung cần nghiên cứu.
+ Phương pháp trò chuyện - phỏng vấn: phương pháp nghiên cứu bằng
trò chuyện - phỏng vấn bổ xung cho phương pháp điều tra bằng an két, nhằm đảm
bảo cho tính khách quan các số liệu thu được.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: để đảm bảo tính khách quan
các số liệu thu được, sử dụng phương pháp nghiên cứu sản phẩm có liên
quan tới nghiên cứu khoa học của nhà trường như: văn bản, tài liệu, các bài


13
tập nghiên cứu của sinh viên… Trên cơ sở đó để tìm hiểu thực trạng việc
quản lý hoạt động NCKH của sinh viên.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
quản lý khoa học trong những năm vừa qua, để xây dựng biện pháp tổ chức
nghiên cứu cho sinh viên.
+ Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến một số cán bộ quản lý giáo dục,
cán bộ quản lý khoa học về một số nội dung NCKH.
+ Nhóm phương pháp thống kê toán học: sử dụng toán thống kê để xử
lý các số liệu đã thu thập được.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn đưa ra quan niệm về biện pháp quản lý nghiên cứu khoa
học của sinh viên. Khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động quản
lý nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố

Hồ Chí Minh.
- Để xuất các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
sinh viên Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ giảng viên và sinh
viên tại các trường đại học.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
Luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 mục.


14

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
1.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Khoa học là gì? “Khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội
và tư duy, về những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư
duy, hệ thống tri thức này được hình thành trong lịch sử và không ngừng phát
triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.” [23, tr.16]. Hệ thống tri thức của con người
được chia thành 2 loại là tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học. Tri thức
kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày
trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên
nhiên. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát


15
triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi
sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ

bên trong của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển
đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho
sự hình thành tri thức khoa học. Tri thức khoa học: là những hiểu biết được
tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động NCKH, các hoạt động này có
mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri
thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được
qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động
xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các
ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học,
toán học, sinh học…
Nghiên cứu khoa học: “NCKH là quá trình nhận thức chân lý khoa học,
một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định
để tìm kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con
người chưa biết đến hoặc biết chưa đầy đủ, tức là tạo ra sản phẩm mới dưới
dạng tri thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp” [23, tr.25].
Luật Khoa học và Công nghệ 2000 qui định: “NCKH là hoạt động phát
hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy;
sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. NCKH bao gồm nghiên
cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng” [22, tr.7].
Từ những định nghĩa trên có thể hiểu: NCKH là hoạt động để sáng tạo
ra khoa học, trong đó:
Bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm
nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức để sử dụng vào cải tạo thế giới.
Chủ thể của NCKH là các nhà khoa học với những phẩm chất trí tuệ và
tài năng đặc biệt, được đào tạo chu đáo.


16
Khách thể của NCKH là các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư
duy mà nhà khoa học nghiên cứu để khám phá, sáng tạo ra tri thức khoa học.

Đối tượng của NCKH là tri thức khoa học. Tri thức khoa học có những
điểm khác với tri thức thông thường. Tri thức thông thường là những tri thức
mà “Bằng các giác quan, con người tri giác, cảm nhận về bản thân, về thế giới
và xã hội xung quanh, từ đó có những kinh nghiệm sống, những hiểu biết về
mọi mặt. Tri thức thông thường được hình thành trong cuộc sống hàng ngày,
được con người sử dụng, trao đổi với nhau, truyền đạt lại cho nhau, chúng dần
được hoàn thiện. Tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức có mục
đích, có kế hoạch, có phương pháp và phương tiện đặc biệt, do đội ngũ các
nhà khoa học thực hiện. Tri thức khoa học và tri thức thông thường có sự khác
nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Mục đích của NCKH là tìm tòi, khám phá bản chất và các qui luật vận
động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng vào sản xuất vật chất
hay tạo ra các giá trị tinh thần để thoả mãn nhu cầu cuộc sống của con người.
Quá trình nghiên cứu thường được thực hiện trong một cơ quan nghiên
cứu được tổ chức chặt chẽ, có chương trình chiến lược hoạt động.
Hoạt động nghiên cứu khoa học: là một hoạt động tìm kiếm, xem xét,
điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức… đạt
được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự
vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương
tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn.
Thực chất hoạt động NCKH chính là các quá trình hoạt động sản xuất
tinh thần mà sản phẩm của nó là hệ thống tri thức khoa học. Hệ thống ấy tham
gia ngày càng sâu sắc và đầy đủ vào quá trình sản xuất vật chất và mọi mặt
của đời sống xã hội. Ở một góc độ nào đó, đứng trên quan điểm thực tiễn thì
“khoa học” và “hoạt động NCKH” có thể được hiểu là hai khái niệm đồng


17
nghĩa. Về bản chất, người ta hiểu “hoạt động khoa học” chính là nghiên cứu.
Khoa học và hoạt động NCKH là hai mặt của một vấn đề thống nhất, không

thể tách rời. Thế nhưng, khái niệm “Hoạt động NCKH” có ngoại diên hẹp hơn
khái niệm “hoạt động khoa học”. Thuật ngữ “Hoạt động khoa học” bao gồm
các hoạt động khác nhau trong lĩnh vực khoa học. Hoạt động khoa học và
công nghệ bao gồm: Hoạt động NCKH; hoạt động dịch vụ khoa học và công
nghệ; hoạt động chuyển giao công nghệ.
Hoạt động NCKH là một nội dung của hoạt động khoa học và công
nghệ. Với tư cách là một nội dung của hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt
động NCKH được hiểu là tổ hợp những nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng và triển khai được thực hiện để đạt mục tiêu của khoa học đã đặt ra.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng: “Học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”, thì nghiên cứu
khoa học cùng với đào tạo, bồi dưỡng là hai nhiệm vụ cơ bản nhất của các
trường đại học. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của trường đại học đã được quy
định tại mục 2, điều 9 trong “Điều lệ trường đại học” năm 2003 và qui định tại
điều 59 trong bộ Luật giáo dục 2005. Theo đó, trường đại học có nhiệm vụ: tiến
hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; kết hợp đào tạo với nghiên
cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ khoa học và công nghệ theo qui định của Luật
khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục và các qui định khác của pháp luật.
NCKH của sinh viên là một hoạt động chính khóa, bao gồm các nội
dung: nghiên cứu nắm vững nội dung các môn học; viết tiểu luận, thu hoạch;
bài tập; viết chuyên đề; viết khóa luận tốt nghiệp; tham gia nghiên cứu các đề
tài khoa học của trường giao hay các hợp đồng với bên ngoài; tham gia các
buổi sinh hoạt khoa học ở cấp khoa, cấp trường; tham gia thực hiện các đề tài
khoa học của giảng viên dưới dạng điều tra, khảo sát thu thập số liệu, phổ


18
biến khoa học...
Thực chất của hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên ở

trường đại học là một hình thức tổ chức dạy học của nhà trường, đó là quá
trình sinh viên vận dụng các kiến thức tổng hợp đã được học và phương
pháp luận nghiên cứu khoa học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt
ra trong quá trình học tập, dưới sự chỉ đạo của người dạy, nhằm phát triển
năng lực trí tuệ, rèn luyện phương pháp và phẩm chất tự học, tự ng hiên
cứu, góp phần hoàn thành mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường.
Bản chất hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động sáng
tạo của sinh viên dưới sự hướng dẫn của người thầy nhằm nắm vững tri thức khoa
học và khám phá tri thức mới. Chủ thể hoạt động nghiên cứu khoa học là sinh
viên. Khách thể nghiên cứu khoa học là thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy đầy
phức tạp và bí ẩn, trong đó mỗi bộ môn khoa học có một lĩnh vực, một góc
độ, một đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Mục đích nghiên cứu khoa học
là tìm tòi, khám phá ra bản chất và quy luật của thế giới khách quan, trên cơ
sở đó khái quát hệ thống tri thức khoa học và vạch ra con đường ứng dụng
chúng vào thực tiễn phục vụ cho cuộc sống của con người. Hình thức hoạt
động nghiên cứu khoa học của sinh viên rất đa dạng phong phú, như bài tập,
thu hoạch, tiểu luận, đồ án tốt nghiệp, hội thảo khoa học, viết báo, tham gia đề
tài các cấp...
Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên khác với hoạt động nghiên
cứu khoa học của các nhà khoa học ở chỗ: hoạt động của các nhà khoa học là hoạt
động của các chuyên gia, các nhà khoa học được đào tạo cơ bản và có trình độ
cao, có thực tiễn nghiên cứu, hoạt động của các nhà khoa học diễn ra ở phạm vi
rộng, nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên chủ yếu diễn ra
trong phạm vi hẹp, phạm vi nội dung học tập trong quá trình đào tạo tại nhà


19
trường đại học, là hoạt động có tính chất luyện tập thực hành nghiên cứu dưới sự
hướng dẫn của người thầy, nhằm củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng tư duy

khoa học, kỹ năng học tập nghiên cứu ban đầu. Hoạt động nghiên cứu khoa học
của các nhà khoa học là hoạt động sáng tạo, thực hiện một bước nhảy vọt trong
quá trình nhận thức tự nhiên, xã hội, tư duy. Còn hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên được sự hướng dẫn của thầy giáo là để tìm hiểu một vấn đề mà nhân
loại đã biết nhằm giúp sinh viên làm quen với cách suy nghĩ và làm việc khoa học.
Chính vì vậy, hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên luôn có
quan hệ mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Hiệu quả hoạt động
nghiên cứu khoa học của sinh viên phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu
tố quản lý giữ vai trò quyết định.
1.2. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Quản lý là thuộc tính của mọi quá trình lao động, một hiện tượng xã hội
đặc biệt, xuất hiện rất sớm. Thuật ngữ quản lý cho đến nay được người ta hiểu
ở rất nhiều các cấp độ khác nhau. Frederick Winslon Taylor (1856 – 1915)
cho rằng: quản lý là biết được chính xác điều mình muốn người khác làm và
sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất. Các tác giả Việt Nam khi nghiên cứu về khoa học quản lý đều nhấn mạnh
đến các yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý. Tác giả
Trần Quốc Thành cho rằng quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm định
hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu; còn tác giả Nguyễn Bá Sơn lại
cho rằng: quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ
chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động. Mặc dù còn có
những quan niệm khác nhau song khi bàn về quản lý các học giả đều có quan
điểm thống nhất chung là: quản lý là một quá trình tác động có mục đích của
chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý thông qua các công cụ, biện pháp quản
lý, nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định.


20
Cũng như các quá trình quản lý khác, quản lý nghiên cứu khoa học
của sinh viên cũng là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản

lý đến toàn bộ hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên làm cho quá trình
ấy diễn ra đúng ý định và đặt được yêu cầu đặt ra. Như vậy có thể hiểu: Quản
lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là tổng thể những cách thức tác
động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến quá trình NCKH của sinh
viên, nhằm thực hiện tốt mục tiêu yêu cầu NCKH đã đặt ra.
Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một loại hình
quản lý giáo dục - đào tạo.
Chủ thể quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là: Ban
Giám hiệu, Phòng Đào tạo và quản lý sinh viên, Phòng quản lý Khoa học,
các khoa Giáo viên và chính bản thân sinh viên.
Sinh viên là chủ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời, hoạt
động của họ lại là đối tượng bị quản lý của các chủ thể quản lý khoa học. Như vậy,
sinh viên vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ thống quản lý.
Với tư cách là chủ thể, sinh viên vừa phải chịu trách nhiệm về quá
trình hoạt động nghiên cứu khoa học của chính bản thân mình. Phải tự xây
dựng kế hoạch, tự tổ chức các hoạt động nghiên cứu, tự khám phá ra chân lý
làm giàu thêm tri thức cho bản thân mình.
Với tư cách là khách thể, mọi hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh
viên phải tuân thủ theo yêu cầu của cán bộ quản lý. Cán bộ quản lý phải chỉ
đạo, định hướng về nội dung, về phương pháp, phải tạo ra các điều kiện thuận
lợi cho hoạt động nghiên cứu của người học.
Mục đích quản lý, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên góp phần thực hiện tốt mục tiêu đào tạo đại học.
Nguyên tắc quản lý nghiên cứu khoa học của sinh viên được hình thành từ
những quy luật, những yếu tố khách quan của quá trình quản lý. Theo đó quản lý


21
NCKH của sinh viên phải tuân thủ nguyên tắc tính đảng, tính giai cấp; nguyên tắc tập
trung dân chủ; nguyên tắc kế hoạch; nguyên tắc tính khoa học và hiệu quả.

Phương pháp quản lý NCKH của sinh viên rất đa dạng, phong phú, bao
gồm: phương pháp quản lý hành chính; phương pháp giáo dục, thuyết phục; phương
pháp kinh tế và kết hợp các phương pháp giáo dục, thuyết phục, hành chính, kinh tế.
Công cụ quản lý NCKH của sinh viên là những quy chế, quy định của Nhà
nước, nhà trường; những văn bản pháp quy, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn, kế hoạch
của cơ quan quản lý các cấp.
Từ sự phân tích trên ta có thể biểu diễn hoạt động quản lý NCKH của
sinh viên theo sơ đồ sau:
Công cụ
quản lý
Chủ thể
quản lý

Khách thể
quản lý

Mục tiêu
Mục
Quản lý
tiêu

Nội dung quảnPhương
lý hoạt
phápđộng nghiên cứu khoa học của sinh viên
quản lý

trường đại học bao gồm:

Một là, quản lý việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch
nghiên cứu khoa học của sinh viên.

Kế hoạch là một công cụ quan trọng của quản lý nói chung, quản lý
nghiên cứu khoa học của sinh viên nói riêng. Chỉ trên cơ sở kế hoạch sát đúng,
công tác quản lý, kiểm tra mới được tiến hành các khâu, các bước một cách
khoa học, bài bản, khắc phục được tình trạng tùy tiện, được chăng hay chớ và
mới có hiệu quả. Việc xây dựng kế hoạch NCKH của trường đại học là một
khâu trong quy trình quản lý nghiên cứu khoa học của trường đại học, đòi hỏi
phải thực sự khoa học, sát với điều kiện thực tiễn của nhà trường về nhân lực,
tài chính, cơ sở vật chất và phải quán triệt được nhiệm vụ NCKH trên giao,


22
nhiệm vụ của nhà trường, nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận, trong đó có nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Kế hoạch phải thể hiện được các nội dung như: mục đích yêu cầu của
nghiên cứu khoa học; nội dung nghiên cứu; thời gian hoàn thành nghiên cứu;
lực lượng, phương pháp nghiên cứu; điều kiện đảm bảo.
Việc xây dựng kế hoạch phải được phân cấp, căn cứ vào nhiệm vụ
nghiên cứu đặt ra để nhà trường xây dựng kế hoạch nghiên cứu dài hạn (5
năm, 10 năm), kế hoạch nghiên cứu hàng năm. Trên cơ sở kế hoạch của nhà
trường, các khoa xây dựng kế hoạch nghiên cứu của mình, trong đó có nội
dung nghiên cứu của sinh viên. Từng sinh viên xây dựng kế hoạch nghiên cứu
của mình trong toàn khóa học cũng như từng năm học.
Trên cơ sở kế hoạch NCKH đã được xác định, các chủ thể quản lý tiến
hành quản lý các hoạt động NCKH của các lực lượng nói chung, của sinh viên
nói riêng cả về số lượng, chất lượng nghiên cứu khoa học theo tiến độ kế
hoạch đã xác định. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời giải
quyết những vấn đề nảy sinh để thực hiện đúng mục đích, yêu cầu, nội dung
NCKH mà kế hoạch đã xác định.
Hai là, quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động nghiên
cứu khoa học của sinh viên

Điều kiện đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một
trong những nội dung mà nhà quản lý phải quản lý để góp phần thực hiện tốt mục
tiêu của nghiên cứu khoa học. Chủ thể quản lý hoạt động này phải thực hiện quản lý
các điều kiện đảm bảo cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trên các mặt:
quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất, tài liệu, giáo trình, phương tiện kỹ thuật, kinh phí
trong quá trình nghiên cứu khoa học của sinh viên
Ba là, quản lý số lượng, chất lượng các sản phẩm khoa học và ứng
dụng kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên.


23
Quản lý số lượng các sản phẩm nghiên cứu khoa học của sinh viên
chính là quản lý số lượng các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của sinh
viên đã được nghiệm thu; quản lý các chuyên đề khoa học mà sinh viên đã
thực hiện; quản lý thu hoạch, tiểu luận, luận văn; quản lý các bài báo, bài hội
thảo khoa học đã được đăng tải trên sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo.
Quản lý chất lượng các sản phẩm NCKH của sinh viên chính là quản lý
hiệu quả khoa học và hiệu quả xã hội của các sản phẩm, công trình khoa học đã
được nghiên cứu dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn. Về lý thuyết, chất lượng
nghiên cứu các đề tài khoa học của sinh viên được GV, hội đồng khoa học đánh
giá cho điểm, xếp loại; về thực tiễn, chất lượng các công trình nghiên cứu khoa
học được ứng dụng vào thực tiễn học tập, hoạt động của sinh viên, nhà trường,
xã hội.
Quản lý việc ứng dụng kết quả NCKH của sinh viên bao gồm quá trình
triển khai các hoạt động ứng dụng; quản lý việc tổ chức hoạt động ứng dụng
và quản lý kết quả ứng dụng. Quá trình này bao gồm hàng loạt các hoạt động
như: công bố, giới thiệu, định hướng ứng dụng các sản phẩm, công trình khoa
học; xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp tổ chức
ứng dụng; chỉ đạo các cơ quan, khoa giáo viên, học viên ứng dụng các sản
phẩm khoa học vào hoạt động thực tiễn giảng dạy, học tập và công tác; kiểm

tra, đánh giá kết quả ứng dụng của tổ chức, cá nhân và đảm bảo các điều kiện
cần thiết cho ứng dụng.
1. 3. Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của sinh viên
Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Phan Canh, NXB Cà Mau, 1999 thì
“Biện pháp là cách xử liệu đối với một việc gì”, ví dụ “Biện pháp an ninh,
biện pháp phòng vệ”.
Như vậy, nghĩa chung nhất của biện pháp là cách làm để thực hiện


24
một công việc nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra.
Chúng ta cần phân biệt biện pháp với một số khái niệm tương tự như:
phương pháp, giải pháp, cách thức. Điểm giống nhau của các khái niệm này là
đều nói về cách làm, cách tiến hành một công việc. Tuy vậy, giữa các khái niệm
cũng có những điểm khác nhau. Biện pháp chủ yếu nhấn mạnh đến cách làm,
cách hành động cụ thể. Phương pháp nhấn mạnh đến trình tự các bước có quan
hệ với nhau (tạo nên một hệ thống) để tiến hành một công việc có mục đích.
Về khái niệm giải pháp, tác giả Hoàng Phê nhấn mạnh đến phương pháp
giải quyết một vấn đề. Tác giả Nguyễn Văn Đạm nhấn mạnh ý khắc phục khó
khăn. Tuy vậy, khái niệm giải pháp không chỉ nói đến cách hành động mà còn
nói đến tư tưởng hành động. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Đạm cho rằng: giải pháp
là toàn bộ những ý nghĩ có hệ thống cùng với những quyết định và hành động
theo sau, dẫn tới sự khắc phục một khó khăn. Về khái niệm cách thức, tác giả
Nguyễn Văn Đạm quan niệm, đó là đường lối phải theo để làm một việc gì đó.
Tóm lại, khái niệm biện pháp có những điểm giống so với các khái
niệm nói trên, song có điểm riêng là nhấn mạnh đến cách làm, cách hành
động cụ thể. Biện pháp phải xuất phát từ các giải pháp và sử dụng các phương
pháp cụ thể.
Theo cách hiểu khái niệm về biện pháp trên đây thì biện pháp quản lý chính là

cách triển khai thực hiện hoạt động quản lý một đối tượng cụ thể trong những hoàn
cảnh cụ thể. Ví dụ “biện pháp quản lý trẻ cơ nhỡ ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ
nay đến 2015”; “biện pháp quản lý tài sản trường X trong mùa hè năm nay”...
Theo TS. Bùi Văn Quân, nghiên cứu về các biện pháp quản lý tại các
cơ sở giáo dục được thực hiện theo nhiều mục tiêu khác nhau, nhằm phát triển
đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, nhằm quản lý hoạt động dạy và học, quản
lý hoạt động NCKH... Các biện pháp quản lý có thể được xác định theo nhiều
cách tiếp cận nghiên cứu để đề xuất biện pháp như xác định biện pháp tương


25
ứng với các phương pháp quản lý; xác định biện pháp tương ứng với các
thành tố cấu trúc của đối tượng quản lý; xác định biện pháp theo các chức
năng quản lý...
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Biện pháp quản lý hoạt động NCKH
của sinh viên Trường Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh là cách thức
cụ thể mà chủ thể quản lý tác động vào đối tượng quản lý để thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu khoa học, hoàn thành mục tiêu của hoạt động NCKH, nâng cao
chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường.
Chủ thể quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
Trường Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh trước là Ban Giám hiệu;
Phòng Quản lý khoa học; các khoa giáo viên và các lực lượng có liên quan.
Trong đó Hiệu trưởng, Trưởng Phòng Quản lý khoa học, Trưởng khoa là
những người chịu trách nhiệm chính, các lực lượng có liên quan chịu trách
nhiệm theo chức trách nhiệm vụ được phân công.
Đối tượng quản lý là hoạt động NCKH của sinh viên và các nguồn
lực, các yếu tố liên quan đến hoạt động NCKH của sinh viên nhà trường.
Lưu ý, trong quản lý hoạt động nghiên cứu hoa học của sinh viên
Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh thì có trường hợp phân
biệt giữa “chủ thể quản lý” và “đối tượng quản lý” chỉ mang tính tương đối.

Một người có thể là chủ thể quản lý của cấp dưới, nhưng đồng thời, lại vừa
là đối tượng quản lý của cấp trên. Thậm chí mỗi người vừa là chủ thể, vừa
là khách thể của chính mình trong công việc của bản thân.
Biện pháp quản lý chính là sự vận dụng các phương pháp quản lý, bao
gồm phương pháp: giáo dục thuyết phục, hành chính, kinh tế và kết hợp các
phương pháp sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của nhà trường. Đối với
mỗi phương pháp cụ thể, chủ thể quản lý sẽ sử dụng những công cụ quản lý cụ


×